Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Văn học Trung Quốc - Chương 8 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.55 KB, 5 trang )

45


Chương 8. Kim Dung và Quỳnh Dao


Kim Dung 金庸 [Jīn Yōng],琼瑶[Qióng Yāo]
Trong khoảng vài chục năm qua, có hai hiện tượng văn học Hán ngữ hiện đại đã ít
nhiều gây ảnh hưởng đến sinh hoạt đọc sách và xem phim ở Việt Nam. Đó là hai nhà tiểu
thuyết Kim Dung (Hồng Kông) và Quỳnh Giao (Đài Loan). Nhưng giới nghiên cứu phê
bình thì không hào hứng, có chăng, chỉ phê phán qua loa. Khuynh hướng nghiên cứu phê
bình của Trung Quốc và Việt Nam vốn đồng nhất trong mấy chục năm trước khi cải cách
đổi mới. Theo khuynh hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa những năm trước đây, những tác
phẩm đựơc coi là chính thống khi nó nghiêm túc ủng hộ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội và đấu tranh chống đế quốc xâm lược, đấu tranh thống nhất đất nước. Thứ hai là những
tác phẩm văn học sử thi, có tính truyền thống dân tộc nhưng vẫn phải trực tiếp hỗ trợ các
chủ đề cách mạng kể trên. Tóm lại, văn học cách mạng đòi hỏi sự tập trung cao độ vào
nhiệm vụ chính, không được lơi lỏng, lạc đề. Trong bối cảnh như thế, hai cây bút Kim
Dung và Quỳnh Giao dường như lạc lõng, không ăn nhập gì với dòng văn học chính thống
ở Trung Quốc, và tất nhiên cũng không được giới thiệu, phát hành chính thức ở miền Bắc
nước ta.
Công cuộc đổi mới ở Trung Quốc và Việt Nam sôi nổi cuối thế kỷ XX cùng với sự
thay đổi bối cảnh khách quan trong nước và thế giới đã đem lại cho văn học những khuynh
hướng nghiên cứu phê bình mới. Nhưng hệ thống lý thuyêt văn học không thể “ba phải“,
“gió chiều nào che chiều ấy”. Chỉ có lý thuyết khoa học thực sự mới làm kẻ sỹ chân chính
cầm bút viết. Nếu trước đây có những cây bút phê phán chỉ trích hai tác giả này thì đó cũng
là sự thành thực của họ. Ngày nay giới phê bình khẳng định giá trị của hai cây bút ấy cũng
là điều dễ hiểu. Thời đại đã cấp cho họ công cụ lí luận và cái nhìn mới Để cảm nhận văn
chương của hai cây bút Quỳnh Giao và Kim Dung, người nghiên cứu cần áp dụng lý thuyết
văn hoá học, ngành khoa học mới phát triển ở Việt Nam khoảng hai chục năm qua. Mặt
khác, lý thuyết văn học cũng phải thừa nhận chức năng giải trí của văn chương thì mới hi


vọng bao dung được hai cây bút ấy và những trường hợp tương tự.
Vài năm nay, truyện của hai nhà văn Kim Dung và Quỳnh Giao chiếm một số lượng
nổi bật ở khắp các nhà sách.

Chắc hẳn hai cây bút này không khỏi băn khoăn về khuynh hướng tư tưởng khi cầm
bút. Và họ đã tìm một lối đi ở bên ngoài mọi ý thức hệ tư tưởng chính trị, một lối đi “trung
dung”. Nói giản đơn là họ khôn ngoan tránh mọi mâu thuẫn ý thức hệ. Và họ đều thành
công, mỗi người đã tạo ra độc giả riêng cho mình. Văn chương Quỳnh Giao tràn đầy nữ
tính, trăn trở và phản ứng với cuộc sống hiện đại đang “tây âu hoá“ nhàm chán. Văn Kim
Dung lại lục tìm giá trị văn hoá trong quá khứ. Văn Kim Dung đậm nam tính, ưa suy tư
triết học phương Đông, thể hiện ý thức giữ gìn và phát huy truyền thống văn hoá dân tộc, ít
quan tâm đến những cuộc đấu tranh thời hiện đại. Thực ra, ý tưởng của ông rất kín đáo.
46

Trong tiểu thuyết võ hiệp lấy bối cảnh thời Tống, Nguyên, Minh, Thanh, tư tưởng hoà bình,
hoà hợp, nhân ái, dung thứ vẫn làm nên chất men say trong lòng người đọc (

)

QUỳNH GIAO
Nữ sĩ Quỳnh Giao sinh 1938 ở tỉnh Tứ Xuyên, năm 1949 theo gia đình trôi dạt sang
lập nghiệp ở đảo Đài Loan.
Văn chương Quỳnh Giao khá giản đơn, thiếu tính hàm súc, chứa đựng ít hàm lượng
văn hoá truyền thống và ít thể hiện tư duy nghệ thuật mới mẻ hiện đại. Ngay giới cầm bút
phê bình ở Đài Loan cũng ngần ngại, ít chiụ lên tiếng. Đến nay vẫn chưa thấy công trình
nghiên cứu phê bình nào viết về tiểu thuyết Quỳnh Giao ! Thử đọc lướt qua những cái tên
tiểu thuyết của nữ sĩ này, chúng ta có thể hiểu ngay tình trạng đó : Vẫn về bên anh, Hãy ngủ
yên tình yêu, Hồ ly trắng, Như cánh bèo trôi, Đoạn cuối cuộc tình, Một khúc thu ca, Giông
bão, Trôi theo dòng nước, Bọt sóng, Mãi mãi yêu thương, Ảo mộng, Cánh chim trong giông
bão, Tình đã chia xa, Hỏi áng mây chiều, Bông cúc vàng, Bên bờ quạnh hiu, Xóm vắng,

Như mây hoàng hôn, Lao xao trong rừng, Một sáng mùa hè, Chớp bể mưa nguồn, Dây tơ
hồng, Hoa hồng khóc trong đêm, Tuyết Kha, Tình như bọt biển, Vòng tay kỷ niệm, Thiên
đường bốc cháy, Vội vã, Tôi là một áng mây, Bên dòng nước, Giọt lệ tương tư, Tình vẫn
đẹp sao, Băng Nhi, Chiếc áo mộng mơ, Cánh nhạn cô đơn, Mùa thu lá bay, Dòng sông lý
biệt, Tình buồn, Hoàn Châu công chúa … (tổng cộng 60 cuốn tiểu thuyết và mấy tập truyện
ngắn) . Đặc biệt, với tác phẩm Hoàn Châu công chúa, với phong cách “cổ trang” đậm tính
lãng mạn truyền thống hấp dẫn, nữ sĩ đã gây bất ngờ cho độc giả quen thuộc của bà, đồng
thời khiến những người xưa nay thường chê “tiểu thuyết tính cảm ủy mị Quỳnh Giao“ phải
chú ý. Bà kịp nhớ lại rằng người Trung Quốc rất ưa những chuyện gắn liền với lịch sử dân
tộc, với quá khứ. Chưa biết số lượng độc giả của Quỳnh Giao nhưng chắc hẳn khá lớn.
Chiếm đa số thường là giới nữ sinh, giới nội trợ. Như thế cũng là một thành công lớn. Văn
chương của bà cũng đã đáp ứng nhu cầu đọc truyện của hàng triệu người. Giới điện ảnh
cũng tiếp tục làm phim trên các tiểu thuyết của Quỳnh Giao, thêm một lần nữa họ gặp lại
độc giả của bà.

KIM DUNG
Kim Dung sinh vào khoảng những năm 20 ở Triết Giang. Đến năm 1948, tốt nghiệp
đại học Luật ông chuyển sang Hồng Kông lập nghiệp (một năm trước cột mốc lịch sử 1949:
đất nước Trung Hoa rộng lớn chia ba, 3 ý thức hệ trên 3 lãnh thổ)
Nhà văn Kim Dung có 12 bộ tiểu thuyết võ hiệp kỳ tình, vừa nối tiếp truyền thống
tiểu thuyết võ hiệp Tống Nguyên Minh Thanh, vừa thể hiện cái nhìn hiện đại, suy ngẫm từ
hiện đại. Thậm chí người ta khẳng định ông đã tạo ra một trào lưu tiểu thuyết võ hiệp kì
tình hiện đại. Nhiều cây bút đã viết nên những công trình nghiên cứu Kim Dung đồ sộ

(

) Trước đây giới nghiên cứu văn học miền Bắc ít quan tâm, thậm chí phê phán hai cây bút này. Cũng
khó trách được, bởi văn học hồi ấy tập trung vào cuộc đấu tranh ý thức hệ, tuân thủ yêu cầu nghiêm ngặt
của công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà và kháng chiến chống Mỹ. Văn học XHCN hồi ấy có lẽ
coi Quỳnh Giao và Kim Dung như loại văn gây “nhiễu văn học” trong việc giáo dục tuyên truyền công

chúng. Còn ở miền Nam, Kim Dung được dịch in trên báo chí hàng ngày và xuất bản thành sách, trở
thành một dấu ấn khá đậm trong nhiều lớp người đọc. Một số bản sách ấy bằng những cách nào đó cũng
lọt ra các tỉnh phía Bắc vào tay dân “ghiền” truyện võ hiệp. .

47

ngang với số sách Kim Dung viết ra. Đây là trường hợp tác giả sáng tạo nên cả tác phẩm
văn chương và những công trình văn hoá. Số lượng 12 tiểu thuyết của Kim Dung tuy có ít
hơn Quỳnh Giao nhưng số chữ thì không kém (người Trung Quốc đo đếm văn chương bằng
số chữ chứ không tính theo số trang, số quyển): Thư kiếm ân cừu lục, Bích huyết kiếm, Xạ
điêu anh hùng truyện, Thân điêu hiệp lữ, Tuyết sơn phi hồ, Lãnh nguyệt bảo đao, Ỷ thiên
Đồ long ký, Tố tâm kiếm (Liên thành quyết), Thiên Long bát bộ, Hiệp khách hành, Tiếu
ngạo giang hồ, Lộc Đỉnh ký .
Đọc sách Kim Dung, nhu cầu nghiên cứu phê bình nảy sinh ào ạt từ Trung Quốc
đến Việt Nam. Đây là vinh dự của những tác gia lớn, tác phẩm phong phú, hình tượng phức
tạp đa nghĩa. Nhờ phê bình nghiên cứu, đời sống văn học càng náo nhiệt hơn, gợi hướng
quần chúng đi vào chiều sâu sau khi đã thoả mãn nhu cầu giải trí. Qua tác phẩm, nhà văn
đóng dấu ấn sâu sắc vào đời sống tinh thần, văn hoá của dân tộc… Với những tác phẩm
lớn, ý nghĩa của nó vựơt ra ngoài biên giới địa lý hạn hẹp, đi tìm cộng hưởng trong thế giới
loài người. Giới văn học Trung Quốc có các công trình nghiên cứu về Kim Dung (đã dịch
in ở Việt Nam) như: Trần Mặc viết “Bàn về các nhân vật trong tiểu thuyết Kim Dung”,
Trần Tấn Tài “Mơ và thực trong tiểu thuyết Kim Dung”, Bành Hoa,Triệu Kính Lập “Kim
Dung, cuộc đời và tác phẩm”, Vương Hải Hồng, Trương Hiểu Yến “Giải mã tiểu thuyết
Kim Dung” . . . Ở Việt Nam cũng có một số cây bút phê bình nghiên cứu Kim Dung như
Nguyễn Duy Chính viết “Đọc Kim Dung tìm hiểu văn hoá Trung Quốc”. Trần Thức viết
“Kim Dung- tác phẩm và dư luận” (tuyển chọn), Huỳnh Ngọc Chiến viết “Lai rai chén
rượu giang hồ”, đặc biệt cây bút Vũ Đức Sao Biển, được gọi là nhà Kim Dung học của Việt
Nam đã xuất bản bộ sách nghiên cứu 4 cuốn “Kim Dung giữa đời tôi” với chất lượng cao.
Nếu bạn đã từng đọc truyện Kim Dung thì nên đọc thêm một trong những cuốn
khảo luận nghiên cứu đã nêu trên. Thông thường, đọc xong tác phẩm, người đọc chưa tận

hưởng hết những gía trị của nó, và sẽ chỉ thoả mãn khi đọc được những bài viết của người
phê bình, bởi họ nghiên cứu mở rộng và đào sâu tác phẩm. Sự ngộ nhận nào đó của người
đọc sẽ được xoá bỏ khi đọc qua ý kiến của giới phê bình nghiên cứu. Đọc sách và suy
tưởng, bàn tán với nhau nữa, cũng là một thú vị trên đời. Theo tôi. trước hết, bạn nên tìm
đọc bộ sách nghiên cứu Kim Dung giữa đời tôi của nhà giáo, nhà báo Vũ Đức Sao Biển ở
thành phố Hồ Chí Minh (cũng là nhạc sĩ đã viết hai ca khúc nổi tiếng : Thu, hát cho người
và Điệu buồn phương Nam) .
Nếu chưa đọc hết Kim Dung, bạn chỉ cần đọc bộ Hiệp khách hành, bộ sách nhỏ
nhất trong 12 tác phẩm của ông cũng đủ hiểu phong cách Kim Dung, cây bút đã được Bắc
Kinh công nhận là một trong 10 tác gia hàng đầu của văn học TQ thế kỷ XX.
Từ khi thế giới dập tắt chiến tranh “lạnh”, quan điểm văn học cũng mở rộng. Văn
học Trung Quốc được coi là bao gồm cả những tác giả ngưòi Hoa sống ở hải ngoại, văn học
không còn bó hẹp ở chính quốc và ý thức hệ nữa.
(P.H.N)
48

PHỤ LỤC
10 NHÂN VẬT VĂN HÓA ẢNH HƯỞNG NHẤT NƯỚC TRUNG QUỐC MỚI
Mạng www.china.com.cn, văn phòng thông tin chính phủ TQ tổ chức bình chọn
(Chỉ bình chọn người sáng tác sau ngày thành lập nước Trung Hoa mới 1.10.1949)

BẢNG XẾP HẠNG VĂN HỌC
1. Lão Xá nhà văn TQ (1899-1966)
2. Băng Tâm nhà thơ TQ (1900-1999)
3. Hải Tử nhà thơ TQ (1964-1989)
4. Ba Kim nhà văn TQ (1904-2005)
5. Kim Dung, nhà văn Hồng Công (1924 - )
6. Quỳnh Dao, nữ nhà văn Đài Loan (1938 - )
7. Trương Ái Linh, nữ nhà văn Hoa kiều Mỹ (1920-1995)
8. Phó Lôi, phiên dịch, bình luận văn học TQ

9. Hàn Hàn, nhà văn TQ (1982-)
10. Tam Mao, nữ nhà văn Đài Loan (1943-1991)

BẢNG XẾP HẠNG TỔNG HỢP (văn chương, sân khấu, âm nhạc)
1 Đặng Lệ Quân, ca sĩ Đài Loan
2. Vương Phi, ca sĩ Hongkong
1. Châu Kiệt Luân, ca sĩ Đài Loan
2. Hàn Tái Phấn diễn viên kịch TQ
3. Lão Xá, nhà văn TQ(1899-1966 tự tử chết trong CMVH)
4. Mao Uy Đài, diễn viên Việt kịch TQ
5. Băng Tâm nhà thơ, nhà văn 1900-1999 TQ
6. Lỗ Đại Hữu, nhạc sĩ Đài Loan
7. Hà Chiếm Hào, nhạc sĩ TQ
8. Triệu Lệ Dung, diễn viên kịch TQ


49

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hồ Sĩ Hiệp. Một số vấn đề văn học Trung Quốc đương đại. NXB Tổng hợp Đồng
Nai, 2007.
2. Hồ Sĩ Hiệp. Một số vấn đề văn học Trung Quốc thời kì mới. NXB Đại học Quốc
Gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2003.
3. Chương Bồi Hoàn, Lạc Ngọc Minh. Văn học sử Trung Quốc, tập 3. Người dịch:
Phạm Công Đạt, NXB Phụ nữ, 2000.
4. Khái yếu lịch sử văn học Trung Quốc, tập 2. Đại Bách Khoa Toàn Thư Trung Quốc,
nhiều tác giả biên soạn. Người dịch: Bùi Hữu Hồng. NXB Thế Giới ấn hành năm 2000.
5. Lịch sử văn học Trung Quốc, tập 2. Sở nghiên cứu văn học thuộc Viện khoa học xã
hội Trung Quốc. Nhiều người dịch. NXB Giáo dục 1997.

6. Thái Nguyễn Bạch Liên. Tuyển tập truyện ngắn Trung Quốc Thời đại ảo. NXB
Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2003.
7. Truyện ngắn Trung Quốc hiện đại. Người dịch: Đào Văn Lưu, Nguyễn Thị Hoài
Thanh. NXB Văn hoá Thông tin, 2003.
8. Diêu Đại Lương (chủ biên). Đương đại Trung Quốc văn học, NXB Sư phạm Quảng
Tây, 1993. Nhiều người dịch.
9. Nguyễn Khắc Phi (chủ biên), Lưu Đức Trung, Trần Lê Bảo. Lịch sử Văn học Trung
Quốc, tập 2. NXB Đại học sư phạm 2002.
9. Nguyễn Khắc Phi, Lương Duy Thứ. Văn học Trung Quốc, tập 2. NXB Giáo dục,
1998.
10. Vương Thiết Tiên, Dương Kiếm Long, Vương Khắc Cường, Mã Di Lỗ, Lưu Đĩnh
Sinh. Hai mươi năm văn học thời kì mới, NXB Giáo dục Thượng Hải, 2001. Người
dịch: Nhiều người dịch.
11. Băng Tâm nữ sĩ và tập thơ Phồn tinh, Phùng Hoài Ngọc biên dịch, ĐHAG nghiệm
thu và lưu hành nội bộ 2009
12. Tuyển tập Cao lương đỏ. Người dịch: Lê Huy Tiêu. NXB Lao động, 2007
13. Lương Duy Thứ. Bài giảng Văn học Trung Quốc. NXB Đại học Quốc Gia Thành
phố Hồ Chí Minh, 2002.
14. Truyện ngắn Giả Bình Ao. Nhiều người dịch. NXB Công an nhân dân, 2003.
15. Từ điển văn học (Bộ mới). NXB Thế Giới, 2004.
16. Mạc Ngôn và những lời tự bạch. Nguyễn Thị Thại dịch. NXB Văn học, 2004.
17 Báu vật của đời, Mạc Ngôn, Trần Đình Hiến dịch



×