Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Giáo trình phân tích một số hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI và hình thức di chuyển vốn quốc tế p2 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.03 KB, 10 trang )

§Ò ¸n m«n häc


11

2.2. Phụ thuộc về kinh tế đối với các nước nhận đầu tư
Đầu tư trực tiếp nước ngoài thường đước chủ yếu do các công ty
xuyên quốc gia, đã làm nảy sinh nỗi lo rằng các công ty này sẽ tăng sự
phụ thuộc của nền kinh tế của nước nhận đầu tư vào vốn, kỹ thuật và
mạng lưới tiêu thụ hàng hóa của các công ty xuyên quóc gia. Đầu tư
trực tiếp nước ngoài có đóng góp phần vốn bổ sung quan trọng cho
quá trình phát triển kinh tế và thực hiện chuyển giao công nghệ cho
các nước nhận đầu tư. Đồng thời cũng thông qua các công ty xuyên
quốc gia là những bên đối tác nươc ngoài để chúng ta có thể tiêu thụ
hàng hóa vì các công ty này nắm hầu hết các kênh tiêu thụ hàng hóa từ
nước này sang nước khác. Vậy nếu càng dựa nhiều vào đầu tuu trực
tiếp nước ngoài, thì sự phụ thuộc của nền kinh tế vào các nước công
nghiệp phát triển càng lớn . Và nếu nền kinh tế dựa nhiều vào đầu tư
trực tiếp nước ngoài thì sự phát triển của nó chỉ là một phồn vinh giả
tạo. Sự phồn vinh có được bằng cái của người khác.
Nhưng vấn đề này có xảy ra hay không còn phụ thuộc vào chính sách
và khả năng tiếp nhận kỹ thuật của từng nước. Nếu nước nào tranh thủ
được vốn, kỹ thuật và có ảnh hưởng tích cực ban đầu của đầu tư trực
tiếp nước ngoài mà nhanh chòng phát triển công nghệ nội đại, tạo
nguồn tích lũy trong nước, đa dạng hóa thị trrường tiêu thụ và tiếp
nhận kỹ thuật mới cũng như đẩy mạnh nghiên cứu và triển khai trong
nước thì sẽ được rất nhiều sự phụ thuộc của các công ty đa quốc gia.
2.3. Chi phí cho thu hểt FDI và sản xuất hàng hóa không thích
hợp
Một là: Chi phí của việc thu hút FDI
Để thu hút FDI, các nước đầu tư phải áp dụng một số ưu đãi cho các


nhà đầu tư như là giảm thuế hoặc miễn thuế trong một thời gian khá
dài cho phần lớn các dự án đầu tư nước ngoài. Hoặc việc giảm tiền
cho họ cho việc thuê đất, nhà xưởng và một số các dịch vụ trong nước
là rất thấp so với các nhà đầu tư trong nước. Hay trong một số lĩnh
vực họ được Nhà nước bảo hộ thuế quan Và như vậy đôi khi lợi ích
của nhà đầu tư có thể vượt lợi ích mà nước chủ nhà nhận được. Thế
mà, các nhà đầu tư còn tính giá cao hơn mặt bằng quốc tế cho các yếu
tố đầu vào. Các nhà đầu tư thường tính giá cao cho các nguyên vật
liệu,bán thành phẩm, máy móc thiết bị mà họ nhập vào để thực hiện
đầu tư. Việc làm này mang lại nhiều lợi ích cho các nhà đầu tư chẳng
hạn như trốn được thuế, hoặc giấu được một số lợi nhuận thực tế mà
họ kiếm được. Từ đó hạn chế cạnh tranh của các nhà đầu tư khác xâm
nhập vào thị trường. Ngược lại, điều này lại gây chi phí sản xuất cao ở
§Ò ¸n m«n häc


12

nước chủ nhà và nước chủ nhà phải mua hàng hóa do các nhà đầu tư
nước ngoài sản xuất với giá cao hơn.
Tuy nhiên việc tính giá cao chỉ sảy ra khi nước chủ nhà thiếu thông
tin, trình độ kiểm soát, trình độ quản lý, trình độ chuyên môn yếu,
hoặc các chính sách của nước đó còn nhiều khe hở khiến cho các nhà
đầu tư có thể lợi dụng được.
Hai là: Sản xuất hàng hóa không thích hợp
Các nhà đầu tư còn bị lên án là sản xuất và bán hàng hóa không thích
hợp cho các nước kém phát triển, thậm chí đôi khi còn lại là những
hàng hóa có hại cho khỏe con người và gây ô nhiễm môi trường. Ví
dụ như khuyến khích dùng thuốclá, thuốc trừ sâu, nước ngọt có ga
thay thế nước hoa quả tươi, chất tẩy thay thế xà phòng vv

2.4.Những mặt trái khác
Trong một số các nhà đầu tư không phải không có trường hợp hoạt
động tình báo, gây rối an ninh chính trị. Thông qua nhiều thủ đoạn
khác nhau theo kiểu “diễn biến hòa bình”. Có thể nói rằng sự tấn công
của các thế lực thù địch nhằm phá hoại ổn định về chính trị của nước
nhận đầu tư luôn diễn ra dưới mọi hình thức tinh vi và xảo quyệt.
Trường hợp chính phủ Xanvado Agiende ở Chile bị giật dây lật đổ
năm 1973 là một ví dụ về sự can thiệp của các công ty xuyên quốc gia
ITT(công ty viễn thông và điện tín quóc tế) và chính phủ Mỹ cam
thiệp công việc nội bộ của Chile.
Mặt khác, mục đích của các nhà đầu tư là kiếm lời, nên họ chỉ đầu tư
vào những nơi có lợi nhất. Vì vậy khi lượng vốn nước ngoài đã làm
tăng thêm sự mất cân đối giữa các vùng,giữa nông thôn và thành thị.
Sự mất cân đối này có thể gây ra mất ổn định về chính trị. Hoặc FDI
cũng có thẻ gây ảnh hưởng xấu về mặt xã hội. Những người dân bản
xứ làm thuê cho các nhà đầu tư có thể bị mua chuộc, biến chất, thay
đổi quan điểm, lối sống và nguy cơ hơn là họ có thể phản bội Tổ
Quốc. Các tệ nãnã hội cũng có thể tăng cường với FDI như mại dâm,
nghiện hút

Những mặt trái của FDI không có nghĩa là phủ nhận những lợi
thế cơ bản của nó mà chúng ta chỉ lưu ý rằng không nên quá hy vọng
vào FDI và cần phải có những chính sách, những biện pháp kiểm soát
hữu hiệu để phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực
của FDI. Bởi vì mức độ thiệt hại của FDI gây ra cho nước chủ nhà
nhiều hay ít lại phụ thuộc rất nhiều vào chính sách, năng lực, trình độ
quản lý, trình độ chuyên môn của nước nhận đầu tư.
§Ò ¸n m«n häc



13



PHẦN 2
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN FDI VÀO VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN QUA

i. TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN FDI
Hiện nay, xu hướng toàn cầu khu vực nền kinh tế đang diễn ra trên
khắp thế giới.Việt Nam cũng không nằm ngoài quỹ đạo phát triển
chung đó. Ngày nay có nhiều công ty, tổ chức quốc tế vào Việt Nam
và nguồn vốn này đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của nền
kinh tế Việt Nam.Sau đây là bức tranh tổng thể về FDI.
1. Một số dự án và số vốn đầu tư
Trong hơn 10 năm qua từ năm 1989-2001 tới nay đã có 3260 dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được cấp phép đăng ký đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDT) đựợc cấp giấy phép đăng ký đầu tư tại Việt
Nam với tổng số vốn đăng ký 44 tỷ USD trong đó có hơn 2600 dự án
còn hiệu lực .Với tổng số vốn đăng ký trên 36 tỷ USD số vốn thục
hiện .Đến nay đạt gần 20 tỷ USD bằng 44,5% số vốn đăng ký, trong
đó số vốn nước ngoài là 18 tỷ USD theo số liệu thống kê của bộ kế
hoạch và đầu tư, quá trình thu hút vốn và số dự án FDI qua các giai
đoạn 1989-2001 đuợc thể hiện qua sơ đồ sau:
Biểu 1:

§Ò ¸n m«n häc


14


Quá trình thu hút vốn và số dự án DFI qua các năm
1989-2001

Năm Số dự án Tổng vốn đầu

(Triệu USD)
Tổng số thực
hiện (Triệu
USD)
1989 70 539 130
1990 111 596 220
1991 155 1388 221
1992 193 2271 398
1993 272 2987 1106
1994 362 4071 1952
1995 404 6616 2652
1996 501 9212 2371
1997 479 5548 3250
1998 260 4827 1900
1999 280 2000 1500
2000 2500 36000 18000
2001 2600 36000 20000

Nguồn: Thông tin tài chính số 1/1/2000
kinh tế dự báo số 10+11/2000 và số 3/2001
Qua số liệu ta dễ dàng thấy tổng số dư án cũng như tổng số vốn FDT
trong giai đoạn 1989-1996 tăng lên với tốc độ nhanh . Năm 1989 số
lượng vốn thu hút mới chỉ đạt 539 triệu USD nhưng năm 1995 đã tăng
lên 6616 triệu USD và năm 1996 đạt 9212 triệu USD . Mức tăng bình

quân năm trong giai đoan này là 50% quy mô trung từ 3,5 triệu USD
năm 1988 -1990 . Lên 7,5 triệu USD năm 1991, 7,6 triệu USD năm
1992 và 23,7 triệu USD năm 1996 . Điều đó cho thấy thời kỳ này
việc thu hút FĐI vào rất hiệu quả.
Một phần là do Việt Nam là thị trường mới hấp dẫn các nhà đầu tư,
phần quan trọng khác là những chính sách khuyến khích đầu tư nước
ngoài của Nhà nước.
Các khoản đầu tư này đã góp phần đáng kể trong tổng vốn đầu tư
toàn xã hội, trong ta và dịch chuyển cơ cấu kinh tế, đóng góp vào ngân
sách, kim ngạch xuất khẩu và giải quyết công ăn việc làm. Doanh thu
của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng dần qua các năm.
Năm 1990 là 43 triệu USD, năm 1991 là 149 triệu USD , năm 1992 là
§Ò ¸n m«n häc


15

206 triệu USD, năm 1993 là 447 triệu USD, năm 1994 là 451 triệu
USD, năm 1995 là 1397 triệu USD, năm 1996 là 1841 triệu USD.
Mức tăng trong giai đoạn này là 30%. Tỷ lệ xuất khẩu trên doanh thhu
đạt 60% năm 1997 và bằng 44 % năm 1996. Còn trong giai đoạn
1996-2000 so với 5 năm trước thì tổng vốn mới đạt 20,73 tỷ USD,
tăng 27,5 %. Tổng vốn còn hiệu lực đạt 18,03 tỷ USD, tăng 7,5 5. Vốn
thực hiện đạt 21,87 Tỷ USD với tốc độ tăng bình quân 17%, xuất khẩu
đạt 10,6 tỷ USD với tốc độ tăng bình quân 15,4% mỗi năm, gấp 8,62
lần so với 5 năm trước. Nhập khẩu đạt 15,33 tỷ USD, gấp 6,4 lần so
với 5 năm trước, tốc độ tăng bình quân là 11% một năm.
Trong giai đọan nay, hình thu hút vốn FDI đã cho thấy có phần giảm
hơn so với giai đoạn trước (1996-1998). Đó là do ảnh hưởng của cuộc
khhủnh hoảng tài chính khu vực, do cạnh tranh thu hút của Việt Nam.

Nhưng từ năm 2000, đầu tư nước ngoài của Việt Nam đã có dấu hiệu
phục hồi, đặc biệt trong hai tháng đầu năm 2001 đã có 35 dự án đầu tư
nước ngoài được thành lập với tổng số vốn đầu tư 71,3 triệu USD,
tăng 16,7 t về số dự án và 16,1% về vốn so với cùng kỳ năm 2000.
Như vậy cho thấy dấu hiệu của ta đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
Về cơ cấu vốn đầu tư.
Đây là một vấn đề rất có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong hoạt
động thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Bởi vì nó có tác động to lớn đến
quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế của Việt Nam.
2.1. Cơ cấu ngành nghề
Biểu 2:
Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài đăng ký 1988-1999

Năm
Chỉ tiêu
1988-1990 1991-1995 1996-1999
CN & XD 41,47% 52,74% 49,66%
N-L-N
Nghiệp
21,64% 4,13% 2,14%
Dịch vụ 36,899% 43,13% 48,2%
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư

Đầu tư nước ngoài trong các năm qua đã đúng mục tiêu đặt ra ban đầu
đó là: Tập trung chủ yếu vào công nghiệp và xây dựng với 1421 dự án
và vốn đăng ký là 18,2 tỷ USD. Các ngành dịch vụ có 613 dự án với
15,632 tỷ USD. Lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp thu hút 313 dự án vào
§Ò ¸n m«n häc



16

2084 tỷ USD. Nhìn chung quy mô đầu tư trung bình một dự án trong
lĩnh vực này tương đối nhỏ so với ngành khác. Trong đó nhỏ nhất là
ngành thủy sản, chỉ khoảng 3 triệu USD mỗi dự án. Ngành công
nghiệp và xây dựng có quy mô trung bình là 12 triệu USD một dự án.
Trong đó lớn nhất là các dự án thăm dò và khai thác dầu khí. Các
ngành du lịch, dịch vụ thương mại có quy mô đầu tư cao nhất với hơn
25 triệu USD mỗi dự án. Tập trung phần lớn vào lĩnh vực xây dựng
khách sạn, văn phòng, cho thuê căn hộ.
2.2. Cơ cấu lãnh thổ
Về cơ cấu lãnh thổ, cho thấy vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có
ưu thế
vượt trội hơn về cơ sở hạ tầng, thuận lợi về giao thông đường thủy,
bộ, hàng không, và sự năng động trong tư duy kinh doanh, đã tạo sức
hấp dẫn FDI mạnh nhất: Chiếm 57% về số dự án (1378 dự án),
chiếm 48% về số vốn đăng ký (17,3 tỷ USD) và 43% về số vốn thực
hiện (6,5 tỷ USD). Tỷ trọng doanh thu của khu vực vốn đầu tư nước
ngoài ở vùng kinh tế này trong tổng doanh thu của khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài trong cả nước, cố xu hướng tăng từ 48,5% (năm 1996)
lên 66,6% năm 1999, đặc biệt là giá trị xuất khẩu đạt 84%. Thành phố
Hồ Chí Minh vẫn đứng đầu vùng, tiếp đó là Đồng Nai, Bình Dương
và Bà Rịa- Vũng Tàu.
Vùng kinh tế trọng điểm phía bắc (gần Hà Nội, Quảng Ninh, Hải
Phòng, Hải Dương, Hưng Yên) là vùng thu hút FDI thứ hai, với 439
dự án (chiếm 25t vốn đăng ký), 10,9 tỷ USD (chiếm 30%) và vốn thực
hiện là 3,8 tỷ USD (chiếm 25%), tỷ lệ giải ngân đạt 45%. Tuy nhiên từ
năm 1996, đóng góp của khu vực FDI vào vùng kinh tế này trong
tổng doanh thu của khu vực đầu tư nước ngoài ở cả nước có xu hướng
giảm, cả về tỷ trọng (từ 38% xuống còn 18%) và giá trị (từ 1,1 tỷ

USD xuống còn 814,7 triệu USD).
Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung ( gần Thừa Thiên Huế, Đà
Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi) đứng thứ 3 về thu hút vốn đầu tư
nước ngoài nhưng so với hai vùng trên thì lại quá thấp, chiếm 3% về
số dự án (72 dự án) và 5,5% về vốn đăng ký (1,978 tỷ USD). Nếu
không tính đén dự án lọc dầu Dung Quất (1,3 tỷ USD ) thì vùng kinh
tế trọng điểm miền Trung thu hút vốn đầu tư nước ngoài còn ít hơn
nhiều so với vùng đồng bằng sông Cửu Long (113 dự án, với 1 tỷ
USD vốn đăng ký). Miền núi, trung du Bắc Bộ, Tây Nguyên là 2
trong số 6 vùng kinh tế có sức thu hút FDI kém nhất. Lý do chủ yếu
là do điều kiện về cơ sở hạ tầng, thiếu nguồn nhân lực, có trình độ và
§Ò ¸n m«n häc


17

khả năng đầu tư sinh lời thấp, hoàn vốn chậm nên các nhà đầu tư
nước ngoài còn đắn đo, e ngại và trong khi chính sách khuyến khích
của Nhà nước cũng chưa thực sự hấp dẫn.
Qua số liệu trên cho thấy, cơ cấu FDI theo vùng lãnh thổ không
những không thực hiện được mục tiêu của Việt Nam là làm xích lại
gần nhau hơn về trình độ, cũng như tốc độ phát triển giữa các vùng mà
tráI lạI còn làm dãn xa hơn. Do đó, trong những n tới nhà nước cần
phảI đIều chỉnh cơ cấu vốn đầu tư cho vùng lãnh thổ, từng bước phù
hợp với kế hoạch phát triển kinh tế.
Các đối tác đầu tư.
Tính đến thời điểm hiện nay, đã có trên 80 công ty và tập đoàn thuộc
65 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư vào Việt Nam. Với sự xuất hiện
ngày càng nhiều của các tập đoàn và các công ty xuyên quốc gia có
tiềm lực lớn về tài chính, công nghệ như Sony, Honda, Sanyo của

Nhật Bản; Deawo, Goldstar, Samsung của Hàn Quốc; Motorota, Ford
của Mỹ; Chingpon, Veodan của Đài Loan
Bên cạnh có nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ của nước ngoài tham
gia đầu tư tại Việt Nam. Điều này là thực sự cần thiết vì các doanh
nghiệp này thường rất năng động, thích ứng nhanh với những biến
động của thị trường, hoạt động rất hiệu quả. Từ đó sẽ là vệ tinh cho
các tập đoàn và công ty lớn.
§Ò ¸n m«n häc


18

Chỉ tính riêng năm 2000, (từ ngày 01/01/2000) đầu tư vào Việt Nam
theo chủ đầu tư là:

Số TT Nước Số dự
án
Vốn đầu tư Vốn pháp
định
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
Tổng số
Đài Loan
British Virgin
Island
Nhật
Ôxtrâylia
Hàn Quốc
Pháp
Mỹ
Sing ga po
Trung Quốc
Hà Lan
Bermuda
Thái Lan
Anh
Bỉ
Malaysia

Canada
Hồng Kông
Irăc
Bahamas
Đức
Liên bang Nga
Thụy Sĩ
Thụy ĐIển
Đan mạch
76
11
15
2
22
5
6
9
10
2
1
3
2
1
7
2
6
1
1
2
1

1
1
1
188
145819
86590
55215
53500
46417
26292
19270
13455
10782
10450
10000
6600
5160
4995
3615
2900
2374
2200
1000
700
509
150
147
100
50733


69507
35988
27834
28600
36516
2543
13535
8663
8322
3152
15000
5550
2050
2520
2063
1620
1024
2200
500
380
0
50
147
100
257846
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư

II. ĐÁNH GIÁ CHUNG TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN FDI
1. Những thành tựu, nguyên nhân
Để đánh giá những thành tựu trong việc thu hút vốn đầu tư nước

ngoài, bên cạnh các chỉ tiêu quan trọng là số vốn đăng ký của các dự
án, cấp mới và tăng vốn, còn có các chỉ tiêu khác cũng không kém
phần quan trọng. Đó là số vốn thực hiện và kết quả về các mặt khác
§Ò ¸n m«n häc


19

của những dự án đã đi vào hoạt động như: doanh thu, xuất khẩu và
nhập khẩu, nộp ngân sách, thu hút lao động .
Một là: Đầu tư nước ngoài góp phần quan trọng bổ sung nguồn vốn
đầu tư phát triển, khắc phục tình trạng thiếu vốn của nền kinh tế Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới. Đặc đIểm của nền kinh tế nước ta vào
thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80 là nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung với
rất nhiều những nhược đIểm của nó, trong đó tỷ lệ vốn đầu tư và tiết
kiệm rất thấp, thậm chí còn âm. từ sau đổi mới thì tỷ lệ này tăng lên
đáng kể, tuy nhiên vẫn còn thấp hơn nhiều so với nhu cầu vốn đầu tư.
Hơn nũa, chúng ta còn phải trả quá nhiều nợ nước ngoài trong khi
thâm hụt ngân sách còn ở mức khá cao. Vì vậy FDI trở thành một
nguồn vốn cần thiết cho sự nghiệp đổi mới của nước nhà.
Trong suốt thời kỳ 5 năm 1991-1995, tỷ trong đầu tư nước ngoài
chiếm 22% và đóng góp khoảng 30% tổng số vốn đầu tư trong nước.
Còn tính riêng 5 năm 1996-2000 so với 5 năm trước thì tổng số vốn
đầu tư mới đạt khoảng 20,73% tỷ USD, tăng 27,5% tổng số vốn thực
hiện đạt hơn 3260 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy
phép đầu tư tại Việt Nam với tổng số vốn đăng ký 44 tỷ USD. Đây là
một con số đáng kể.
Nguồn vốn FDI chủ yếu là ngoại tệ mạnh và máy móc thiết bị tương
đối hiện đại nên đã đóng góp cơ sở vật chất mới, bổ sung và hoàn
thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, tăng thêm năng lực sản xuất mới của

toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhất là khu vực công nghiệp.
Hai là:Thông qua v iệc chuyển giao công nghệ kỹ thuật, FDI đã góp
phàn làm tăng năng suất lao động, khả năng sản xuất, kinh nghiệm
quản lý ở một số ngành. Việt Nam bước vào công cuộc hồi phục và
phát triển kinh tế với xuất phát đIểm thấp về mặt công nghệ. Do đó
chất lượng sản phẩm thấp, khó có thể tạo ra sức cạnh tranh trên thị
trường trong và ngoài nước. Mặt khác, trình độ công nghệ thấp còn
dẫn đến ô nhiễm môi trường. Sau khi thực hiện luật đầu tư nước
ngoài, việc đổi mới nước ta đã thực hiện với quy mô và tốc độ cao hơn
nhiều so với trước đó.
Nước ta đã tiếp nhận được một số công nghệ kỹ thuật tiên tiến trong
nhiều ngành kinh tế như: thông tin viễn thông, thăm dò dầu khí, hóa
chất, sản xuất công nghiệp, xây dựng khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc
tế, sản xuất lắp ghép ôtô, công nghệ điện tử, xe máy, sản xuất một số
mặt hàng tiêu dùng có chất lượng Cụ thể trong các ngành dầu khí,
nhiều thiết bị và công nghệ tiên tiến của các hãng nổi tiếng trên thế
giới như Mobile của Mỹ, BHP Rertolium, CKA của Úc và các công ty
§Ò ¸n m«n häc


20

khác của Hà Lan, Ý, Pháp, Anh, Nga, Ấn độ đã được đưa vào Việt
Nam để thực hiện thăm dò và khai thác dầu khí cũng như xây dựng
các nhà máy lọc dầu. Trong lĩnh vực bưu chính viễn thông, các thiết bị
hiện đại của công ty OCTVT đã được đưa vào nước ta để lắp đặt đài
thông tin viễn thông đầu tiên. Phần lớn thiết bị đưa vào nước ta ìuy
thuộc lọai trung bình trên thế giới nhưng vẫn tiên tiến hơn những thiết
bị mà ta đang có.
Như vậy, thông qua chuyển giao công nghệ FDI đã góp phần nâng

cao chất lượng sản phẩm, đa dạng mẫu mã, từ đó mà nâng cao kim
ngạch xuất khẩu, cải thiện môi trường lao động, đồng thời kích thích
các doanh nghiệp trong nước và cả ở nước ngoài.
Ba là: đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực thúc đẩy nền kinh tế
Việt Nam ta và chuyển dịch cơ cấu theo hướng tiến bộ, tăng thu ngân
sách. Đầu tư nước ngoài thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp và các
hoạt động dịch vụ trong nền kinh tế nước ta. Hai khu vực này có tốc
độ ta nhanh hơn khu vực nông nghiệp (năm 1997, công nghiệp tăng
13,2%, dịch vụ tăng 8,6%, nông nghiệp tăng 4,5%) thúc đẩy quá trình
dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Trong cơ cấu vùng
lãnh thổ, đầu tư nước ngoài góp phần hình thành khu kinh tế trọng
điểm của 3 miền Bắc-Trung-Nam, mỗi vùng là một khu vực kinh tế ta
nhanh, có tác dụng đầu tư đối với kinh tế Việt Nam. Hơn nữa, FDI
đã góp phần chủ yếu đầy nhanh quá trình hình thành các khu công
nghiệp, khu chế xuất vùng kinh tế trọng điểm, ngành công nghiệp
mũi nhọn của nền kinh tế. Khu vực FDI tạo ra trên 12% GDP, hơn
34% giá trị sản lượng sản xuất công nghiệp, gần 7% nguồn thu ngân
sách của cả nước, tăng thu thêm nguồn thu từ xuất khẩu, dịch vụ thu
ngoại tệ và đóng góp vào ngân sách.
Bốn là: Bước đầu tạo ra công ăn việc làm cho người lao động,
góp phần giải quyết vấn đề khó khăn về việc làm cho người lao động.
Tính đến tháng 4 năm 2001 sử dụng 35 vạn lao động trực tiếp và hơn
10 vạn người phục vụ cho hợp tác đầu tư. Đồng thời thu hút hơn 4000
cán bộ Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Nhiều cán bộ đã phát huy năng lực, vươn lên đảm nhiệm các
công việc quan trọng, có uy tín đối với đối tác nước ngoài. Sự đóng
góp này tuy nhỏ bé, song lại đáng quý trong điều kiện thiếu nhiều việc
làm ở nước ta.
Trên đây là những lợi ích ban đầu mà chúng ta thu được thông
qua việc thu hút FDI. Tuy còn rất khiêm tốn nhưng nó cũng đã góp

một phần quan trọng vào sụ nghiệp đổi mới của nước ta.

×