Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Phân tích mức độ hấp dẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại hai tỉnh Vĩnh Phúc và Bình Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 102 trang )




TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
  



KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP


ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH MỨC ĐỘ HẤP DẪN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI VÀO HAI TỈNH VĨNH PHÚC VÀ BÌNH DƯƠNG




Họ và tên sinh viên
Lớp
Khoá
Giáo viên hướng dẫn
: NguyÔn ThÞ Hång Ng©n
: Anh 4
: 44 A
: Phan ThÞ V©n










Hà Nội, tháng 5 năm 2009



1
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của KH-KT, của xu hướng
khu vực hóa, toàn cầu hóa, nhu cầu về vốn đầu tư trong xã hội ngày càng
tăng. Vốn trong nước, đặc biệt là các nước đang phát triển không đủ đáp ứng
trong khi đó nguồn vốn đầu tư nước ngoài có hạn. Các nhà đầu tư nước ngoài
luôn lựa chọn nơi đầu tư tốt nhất cho mình, đầu tư vào những nơi ít rủi ro,
đem lại lợi nhuận cao. Chính vì vậy trước khi đầu tư các nhà đầu tư luôn xem
xét đánh giá môi trường đầu tư ở nước mình định đầu tư để có thể đưa ra
quyết định đầu tư đúng đắn nhất. Nhận thức được điều đó, các địa bàn đầu tư
trong một quốc gia luôn tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư nước ngoài, tạo
môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Việc đánh giá môi
trường đầu tư góp phần giúp các tỉnh điều chỉnh môi trường đầu tư của địa
bàn mình cho phù hợp, tạo thuận lợi hơn nữa cho nhà đầu tư nước ngoài.
Vĩnh Phúc và Bình Dương là hai tỉnh có nhiều tiềm năng và thế mạnh
phát triển kinh tế xã hội. Trong những năm gần đây, Vĩnh Phúc, Bình Dương
đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế đáng kể. Hàng loạt các khu công nghiệp
với các nhà máy trong nhiều lĩnh vực mọc lên. Hai tỉnh có môi trường đầu tư
khá tốt, luôn đứng trong top 10 các tỉnh trong cả nước thu hút đầu tư trực tiếp

nước ngoài. Tuy nhiên mức hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài của 2 tỉnh còn
nhiều hạn chế chưa tân dụng được hết thế mạnh, chưa đáp ứng nhu cầu vốn
cho phát triển kinh tế của tỉnh.
Xuất phát từ thực tế đó, em đã chọn đề tài “Phân tích mức độ hấp dẫn
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào hai tỉnh Vĩnh Phúc và Bình Dương” để làm
đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình. Mục đích của đề tài so
sánh mức độ hấp dẫn của hai môi trường đầu tư. Từ đó, khóa luận đưa ra một
số phương hướng và giải pháp thu hút đầu tư cho cả hai tỉnh đồng thời qua
đây các tỉnh trong cả nước cũng học hỏi thêm nhiều bài học kinh nghiệm.


2
2. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đầu tư trực tiếp
nước ngoài và môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung.
Đánh giá thực trạng môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài tại hai tỉnh
Vĩnh Phúc và Bình Dương.
Đề xuất một số giải pháp và phương hướng nhằm cải thiện môi trường
đầu tư trực tiếp nước ngoài tại hai tỉnh và đưa ra bài học kinh nghiệm cho các
tỉnh bạn.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài tại hai
tỉnh Vĩnh Phúc và Bình Dương.
Phạm vi nghiên cứu: tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Bình Dương.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện khóa luận, tác giả đã sử dụng phương pháp
nghiên cứu tổng hợp, phân tích, đánh giá, so sánh….
5. Kết cấu của khóa luận
Khóa luận gồm 3 chương:
Chƣơng I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP

NƢỚC NGOÀI VÀ MÔI TRƢỜNG ĐẦU TƢ
Chƣơng II: SO SÁNH MỨC ĐỘ HẤP DẪN FDI TẠI HAI TỈNH VĨNH
PHÚC VÀ BÌNH DƢƠNG
Chƣơng III: MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VÀ KẾT LUẬN
Để hoàn thành khóa luận với kết quả tốt, em xin gửi lời cảm ơn chân
thành nhất đến cô giáo Phan Thị Vân, người đã nhiệt tình hướng dẫn và giúp
đỡ em. Em cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Kinh Tế Ngoại
Thương và các thầy cô giáo khác trong trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội
đã dạy dỗ em trong suốt 4 năm học qua. Em xin chân thành cảm ơn các cơ


3
quan đoàn thể đã giúp đỡ em có được tài liệu và những lời khuyên bổ ích.
Cuối cùng, em xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình và bạn bè đã động viên em
hoàn thành khóa luận.
Do hoàn thành khóa luận trong thời gian ngắn và gặp một số khó khăn
về nguồn tài liệu cũng như nhận thức và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế,
chắc chắn khóa luận không thể tránh khỏi sai sót. Em rất mong nhận được ý
kiến đóng góp, chỉ bảo của các thầy cô giáo, cũng như những lời nhận xét
đánh giá của gia đình bạn bè và những người quan tâm.


4

Chương I:
TỔNG QUAN VỀ MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ VÀ
CÁC NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH MỨC ĐỘ HẤP DẪN FDI

1. Các khái niệm
1.1. Khái niệm FDI

Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, đầu tư trực tiếp
nước ngoài (foreign direct investment - FDI) đang ngày càng đóng vai trò quan
trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. FDI có thể coi là một trong
những nguồn vốn chủ yếu để đầu tư sản xuất, kinh doanh… Các tổ chức quốc
tế, khu vực và các quốc gia đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về FDI.
Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) đã định nghĩa về FDI như sau: “FDI là một
hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm đạt được những lợi ích lâu dài trong
một doanh nghiệp hoạt động trên một lãnh thổ của nền kinh tế khác nền kinh
tế của nước chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành quyền quản lý thật
sự doanh nghiệp” (BPM5, fifth edition).
Như vậy theo IMF hoạt động FDI thật sự nổi bật với 2 đặc điểm là:
mang lại lợi ích lâu dài và giành quyền quản lý thực sự doanh nghiệp. Lợi ích
lâu dài (hay mối quan tâm lâu dài - lasting interest): khi tiến hành đầu tư trực
tiếp nước ngoài, các nhà đầu tư thường đặt những mục tiêu lợi ích dài hạn.
Mục tiêu lợi ích dài hạn đòi hỏi phải có mối quan hệ lâu dài giữa nhà đầu tư
trực tiếp và doanh nghiệp nhận đầu tư trực tiếp, đồng thời có một mức độ ảnh
hưởng đáng kể đối với việc quản lý doanh nghiệp này. Bên cạnh lợi ích lâu
dài, quyền quản lý thực sự doanh nghiệp (effective voice in management)
chính là: quyền kiểm soát doanh nghiệp (control). Đây chính là quyền tham
gia vào các quyết định quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp như thông qua chiến lược hoạt động của công ty, thông qua và
phê chuẩn kế hoạch hành động do người quản lý hàng ngày của doanh nghiệp


5
lập ra, quyết định việc phân chia lợi nhuận doanh nghiệp, quyết định phần
vốn góp giữa các bên tức là những quyền ảnh hưởng lớn đến sự sống còn của
doanh nghiệp.
Cũng tương tự như IMF, tổ chức OECD cũng đưa ra khái niệm tương
tự về FDI, cũng là thiết lập mối quan hệ lâu dài (theo đuổi lợi ích lâu dài) và

tạo ảnh hưởng đối với việc quản lý doanh nghiệp nhưng OECD đã cụ thể hơn
cách thức để nhà đầu tư tạo ảnh hưởng đối với hoạt động quản lý doanh
nghiệp. OECD đưa ra khái niệm như sau:”Đầu tư trực tiếp nước ngoài là
hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu
dài với một doanh nghiệp đặc biệt là những khoản đầu tư mang lại khả năng
tạo ảnh hưởng đối với việc quản lý doanh nghiệp nói trên bằng cách:
1. Thành lập hoặc mở rộng doanh nghiệp hoặc chi nhánh thuộc toàn
quyền quản lý của chủ đầu tư.
2. Mua lại toàn bộ doanh nghiệp đã có.
3. Tham gia vào một doanh nghiệp mới.
4. Cấp tín dụng dài hạn (nhiều hơn 5 năm).
5. Quyền kiểm soát nắm từ 10% cổ phiếu thường hoặc quyền biểu
quyết trở lên.
Theo khái niệm về FDI của Ủy ban thương mại và phát triển của liên
hợp quốc (UNCTAD) nhấn mạnh hơn đến khía cạnh kiểm soát lâu dài của
chủ đầu tư đối với hoạt động đầu tư của mình. Theo đó FDI: “Là đầu tư có
mối liên hệ, lợi ích, và sự kiểm soát lâu dài của một pháp nhân hoặc một thể
nhân (nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc công ty mẹ) đối với một doanh
nghiệp ở một nền kinh tế khác (doanh nghiệp FDI hoặc chi nhánh nước ngoài
hoặc chi nhánh doanh nghiệp)”
Luật đầu tư năm 2005 mà quốc hội khóa XI Việt Nam đã thông qua các
khái niệm về FDI như sau: “Đây là hình thức đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài
bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở Việt Nam hoặc nhà đầu


6
tư Việt Nam bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở nước ngoài
theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.”
1.2. Đặc điểm của FDI
Mặc dù các tổ chức khác nhau đều đưa ra định nghĩa về FDI theo quan

điểm riêng của mình song tất cả đều có những nét tương đồng nhau chỉ ra đặc
điểm của FDI. Theo đó, FDI mang một số đặc điểm như sau:
- Hoạt động FDI tìm kiếm lợi nhuận: FDI chủ yếu là đầu tư tư nhân với
mục đích hàng đầu là tìm kiếm lợi nhuận: theo cách phân loại ĐTNN của
UNCTAD, IMF và OECD thì FDI là đầu tư tư nhân. Do chủ thể là tư nhân
nên FDI có mục đích ưu tiên hàng đầu là lợi nhuận. Các nước nhận đầu tư,
nhất là các nước đang phát triển luôn lưu ý vấn đề này khi tiến hành thu hút
FDI, phải xây dựng cho mình một hành lang pháp lý mạnh và các chính sách
thu hút FDI hợp lý để hướng FDI vào phục vụ cho các mục đích tìm kiếm lợi
nhuận của các chủ đầu tư.
- Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một tỷ lệ vốn tối thiểu
trong vốn pháp định hoặc vốn điều lệ tùy theo quy định của luật pháp từng
bước để giành quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát doanh nghiệp nhận
đầu tư. Luật các nước thường quy định không giống nhau về vấn đề này. Luật
Mỹ quy định tỷ lệ này là 10%, Pháp và Anh là 20%, và theo điều 8 luật đầu tư
nước ngoài 1996, Việt Nam là 30%, tuy nhiên đến 29/11/2005 thì Việt Nam
không quy định vốn tối thiểu của chủ đầu tư nước ngoài nữa. Còn theo quy
định của OECD (1996) thì tỷ lệ này là 10% các cổ phiếu thường hoặc quyền
biểu quyết của doanh nghiệp – mức được công nhận cho phép nhà đầu tư
nước ngoài tham gia thực sự vào quản lý doanh nghiệp.
- Tỷ lệ đóng góp của các bên trong vốn điều lệ hoặc vốn pháp định sẽ
quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, đồng thời lợi nhuận và rủi ro cũng
được phân chia dựa vào tỷ lệ này. Theo luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam,


7
trong doanh nghiệp liên doanh, các bên chỉ định người của mình tham gia vào
hội đồng quản trị theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp vào vốn pháp định
của liên doanh.
- Thu nhập mà chủ đầu tư thu được phụ thuộc vào kết quả kinh doanh

của doanh nghiệp mà họ bỏ vốn đầu tư, nó mang tính chất thu nhập kinh
doanh chứ không phải lợi tức.
- Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự
chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Nhà đầu tư nước ngoài tự lựa chọn lĩnh vực kinh
doanh đầu tư, hình thức đầu tư, thị trường đầu tư, quy mô đầu tư cũng như
công nghệ cho mình, do đó sẽ tự đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ.
Vì thế, hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có
những ràng buộc về chính trị không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế
nước nhận đầu tư.
- FDI thường kèm theo chuyển giao công nghệ cho các nước tiếp nhận
đầu tư. Thông qua hoạt động FDI, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công
nghệ, kĩ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý. Ví dụ trong lĩnh vực bưu
chính viễn thông của Việt Nam, hầu hết công nghệ mới trong lĩnh vực này có
được nhờ chuyển giao công nghệ từ nước ngoài.
1.3. Các hình thức đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
Theo hình thức thâm nhập (quốc tế): hai hình thức chủ yếu là đầu tư
mới (Greenfield investerment-GI) và mua lại và sát nhập qua biên giới
(Cross-bored merger and acquisition-M&A), ngoài ra còn có hình thức
Brownfield investment
1
.
* Đầu tư mới (Greenfield investerment-GI): đầu tư mới là hoạt động
đầu tư trực tiếp vào các cơ sở sản xuất kinh doanh hoàn toàn mới ở nước
ngoài, hoặc mở rộng một cơ sở sản xuất kinh doanh đã tồn tại.


1
Brownfield investment: mua lại một doanh nghiệp nhưng không sử dụng đến các tài sản của doanh nghiệp
đó. Bản chất chỉ là mua lại cái tên.



8
* Mua lại và sát nhập qua biên giới (Cross-bored merger and
acquisition-M&A): đây là một hình thức FDI liên quan đến việc mua lại hoặc
hợp nhất với một doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động.
Các hình thức của sát nhập bao gồm:
- Sáp nhập theo chiều ngang: là hình thức sáp nhập diễn ra giữa các
công ty trong cùng một ngành kinh doanh (hay có thể nói là giữa các đối thủ
cạnh tranh).
- Sáp nhập theo chiều dọc: là hình thức sáp nhập của các công ty khác
nhau trong cùng một dây chuyền sản xuất ra sản phẩm cuối cùng. Có hai dạng
sáp nhập theo chiều dọc là: Backward là liên kết giữa nhà cung cấp và công ty
sản xuất, forward là liên kết giữa công ty sản xuất và nhà phân phối.
- Sáp nhập hỗn hợp: là hình thức sáp nhập giữa các công ty kinh doanh
trong các lĩnh vực khác nhau. Mục tiêu của những vụ sáp nhập như vậy là đa
dạng hóa, và chúng thường thu hút sự chú ý của những công ty có lượng tiền
mặt lớn.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam: Theo dự thảo Nghị định hướng
dẫn chi tiết thi hành luật đầu tư năm 2005 của Việt Nam, có các hình thức
FDI tại Việt Nam như sau:
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: đây là loại hình doanh nghiệp
do chủ đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn tại nước sở tại, có quyền điều
hành toàn bộ doanh nghiệp theo quy định của pháp luật nước sở tại.
- Doanh nghiệp liên doanh: đây là loại hình doanh nghiệp được thành
lập do chủ đầu tư nước ngoài góp vốn chung với doanh nghiệp Việt Nam trên
cơ sở hợp đồng liên doanh. Các bên cũng tham gia điều hành doanh nghiệp
phân chia lợi nhuận và rủi ro theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định.
Điều 2 - Luật đầu tư 2005 Việt Nam quy định: Doanh nghiệp liên
doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt



9
Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hợp đồng ký kết giữa chính phủ
nước CHXHCN Việt Nam và chính phủ nước ngoài hoặc là doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh
nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng hợp
tác liên doanh.
- Hoạt động trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh. Đây là hình thức
đầu tư được ký kết giữa hai hoặc nhiều bên để tiến hành hoạt động đầu tư mà
không thành lập pháp nhân mới. Đây là đặc trưng cơ bản để phân biệt hình
thức đầu tư này với hình thức đầu tư khác.
Ngoài ra theo luật đầu tư năm 2005 còn qui định các phương thức đầu
tư khác như: BOT, BTO, BT.
BOT (build-operation-transfer): Hợp đồng xây dựng - kinh doanh -
chuyển giao. Đây là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của
Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng kinh doanh công trình kết
cấu cơ sở hạ tầng trong một thời hạn nhất định. Hết thời hạn, nhà đầu tư nước
ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho nhà nước Việt Nam.
BTO (Build-transfer-operation): Hợp đồng xây dựng – chuyển giao và
kinh doanh. Đây là văn bản ký kết giữa nhà nước Việt Nam và nhà đầu tư
nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu cơ sở hạ tầng. Sau khi xây dựng
xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyên giao công nghệ đó cho nhà nước Việt
Nam, chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện
dự án khác để thu hồi vốn và lợi nhuận hợp lý.
BT (build-transfer): Hợp đồng xây dựng chuyển giao. Đây là văn bản
ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư
nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng trong thời hạn nhất định.
Hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình cho nhà nước
Việt Nam. Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực
hiện dự án khác để thu hồi vốn đâu tư và lợi nhuận hợp lý.



10
- Bên cạnh đó còn các hình thức đầu tư khác như: đầu tư phát triển kinh
doanh, mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư, đâù
tư thực hiện việc sát nhập và mua lại doanh nghiệp, các hình thức đầu tư trực
tiếp khác.
1.4. Khái niệm môi trƣờng đầu tƣ
Môi trường đầu tư là một yếu tố quan trọng tác động đến quyết định
đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài (trong ba nhân tố OLI của học thuyết chiết
trung-electric của học giả nổi tiếng về FDI trên thế giới-Dunning).
Theo cách hiểu chung nhất, môi trường đầu tư được định nghĩa như
sau: “Môi trường đầu tư là tổng hòa các yếu tố về pháp luật, kinh tế, chính trị,
văn hóa xã hội và các yếu tố cơ sở hạ tầng, năng lực thị trường. Lợi thế của
một quốc gia có liên quan, ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động
đầu tư của nhà đầu tư trong và ngoài nước”.
Nếu như xét theo góc độ thu hút vốn đầu tư, môi trường đầu tư là
“Tổng thể các yếu tố vật chất, kinh tế, luật pháp, chính trị… giúp một quốc
gia trở thành điểm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và là địa điểm mà các
doanh nghiệp trong nước dù có quy mô khác nhau hoạt động ở các lĩnh vực
khác nhau đều mong muốn được đầu tư”.
Trong báo cáo “Môi trường đầu tư tốt với mọi người” của Ngân Hàng
Thế Giới 2005 (WBR): “Môi trường đầu tư bao gồm các nhân tố địa điểm
nhất định cấu thành tạo nên những cơ hội và động cơ để các doanh nghiệp có
thể đầu tư một cách có hiệu quả và mở rộng hoạt động của mình”.
2. Tác động của môi trƣờng đầu tƣ đối với FDI
Một môi trường đầu tư thuận lợi cho phép tìm kiếm lợi nhuận cao đáp
ứng được những yêu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài. Nếu một quốc gia có
môi trường đầu tư như vậy sẽ thu hút được khối lượng FDI cao. Cụ thể tác
động của môi trường đầu tư được thể hiện ở những mặt sau:



11
2.1. Tác động đến cơ cấu đầu tƣ theo hình thức đầu tƣ
Ngoài việc tuân thủ theo luật đầu tư các nhà đầu tư nước ngoài luôn
nhìn vào môi trường đầu tư để xác định xem hình thức đầu tư nào phù hợp
nhất. Nếu như một môi trường đầu tư với những quy định ngoặt nghèo, hệ
thống luật rắc rối chưa phát triển, nền chính trị chưa ổn định, thường xuyên
xảy ra bạo động thì hình thức liên doanh đầu tư luôn được các nhà đầu tư lựa
chọn. Ngược lại nếu như một môi trường đầu tư thông thoáng với những
chính sách ưu đãi và thủ tục đơn giản thì các nhà đầu tư luôn luôn chọn hình
thức đầu tư 100% vốn nước ngoài. Tùy theo mỗi nền chính trị khác nhau của
nước sở tại mà nhà đầu tư nước ngoài sẽ quyết định xem nên sử dụng hình
thức nào là an toàn và hiệu quả nhất.
2.2. Tác động đến dung lƣợng thị trƣờng
Nếu một quốc gia có dung lượng thị trường tiêu thụ lớn, cơ sở hạ tầng
phát triển, nguồn lao động dồi dào, nguyên liệu đầu vào rẻ, kinh tế phát triển sẽ
thu hút được nhiều dự án đầu tư FDI với khối lượng và quy mô lớn. Ngược lại,
các nhà đầu tư sẽ e ngại bỏ vốn và như vậy đương nhiên khối lượng đầu tư sẽ
giảm. Một môi trường đầu tư thuận lợi tỷ lệ thuận với chất và lượng các dự án
có tính nước ngoài. Động cơ hàng đầu mà các nhà đầu tư đặt ra đó là lợi nhuận
và tất nhiên các nhà đầu tư luôn luôn chú ý đến cách thức chuyển lợi nhuận đó
về nước họ và cách thức sẽ sở hữu cũng như bảo đảm được sự an toàn của lợi
nhuận và tài sản đó ra sao. Đó chính là những yếu tố do môi trường đầu tư
quyết định. Vì vậy để khai thác hết những thuận lợi của nước tiếp nhận đầu tư,
đạt được hiệu ứng hiệu quả theo quy mô, các nhà đầu tư sẽ quyết định đầu tư
với dung lượng lớn và nếu thành công có thể họ sẽ mở rộng quy mô.
2.3. Tác động đến cơ cấu ngành nghề lĩnh vực đầu tƣ
Lĩnh vực đầu tư bị chi phối bởi môi trường đầu tư, thu hút FDI theo
nhiều khía cạnh khác nhau. Một trong những yếu tố của môi trường đầu tư là



12
hệ thống pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư, ảnh hưởng lớn đến việc thu hút
đầu tư. Chính phủ của nước tiếp nhận đầu tư có thể có nhiều chính sách khác
nhau về FDI, chẳng hạn như họ sẽ cấm đầu tư vào lĩnh vực nào, cho phép đầu
tư hay khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực nào tùy theo đặc điểm kinh tế của
nước mình, hay chính sách ưu tiên đầu tư cho nhà đầu tư nước ngoài, không
phân biết đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Một
hành lang pháp pháp lý thuận lợi sẽ ảnh hưởng tích cực đến lựa chọn đầu tư
FDI về cả lĩnh vực đầu tư. Tùy theo mục đích của mỗi chính phủ mà sẽ tăng
hoặc giảm luồng vốn FDI, ảnh hưởng đến FDI theo ngành nghề lĩnh vực. Xét
theo góc độ từ nước tiếp nhận đầu tư, hành lang pháp lý phù hợp sẽ tận dụng
được thế mạnh quốc gia và lợi thế của chủ đầu tư.
2.4. Tác động đến địa bàn đầu tƣ
Địa bàn đầu tư là một trong những yếu tố của môi trường đầu tư góp
phần vào thu hút FDI bởi không chỉ những chính sách hấp dẫn đầu tư, hệ
thống luật pháp minh bạch, chính sách thuế và sử dụng đất ưu tiên mà còn
thực hiện mục đích của các nhà đầu tư là tìm kiếm lợi nhuận. Chính vì vậy,
các nhà đầu tư sẽ đầu tư vào những nơi có cơ sở hạ tầng tốt, có nguồn nguyên
liệu và nhân công dồi dào gần thị trường tiêu thụ.
Các chủ đầu tư sẽ chú trọng đến việc chi phí mua sắm các nguồn tài
nguyên và tài sản, cân đối với năng suất lao động, các chi phí đầu vào khác
như chi phí vận chuyển và thông tin liên lạc đi đến hoặc trong nước nhận đầu
tư, chi phí mua bán thành phẩm… đều chịu tác động từ các yếu tố cơ sở hạ
tầng, yếu tố kinh tế, tài nguyên và nguồn nhân lực của môi trường đầu tư. Do
vậy, địa bàn đầu tư nào có yếu tố cơ sở hạ tầng, tài nguyên và nguồn nhân lực
thuận lợi sẽ thu hút được nhiều FDI hơn.
Hơn nữa, mỗi địa bàn của một quốc gia sẽ có những ưu đãi riêng phù
hợp với từng chiến lược cụ thể của các nhà đầu tư dẫn đến việc phân bổ FDI

là khác nhau theo địa bàn.


13
3. Các tiêu chí đánh giá mức độ hấp dẫn FDI
Môi trường đầu tư bao gồm nhiều nhân tố cấu thành với nhiều cách
phân loại khác nhau. Cách phân chia theo sự quản lý của chính phủ thì môi
trường đầu tư được chia thành hai nhóm chính là các yếu tố điều hành và các
yếu tố kinh tế cơ sở hạ tầng. Các nhân tố điều hành bao gồm các nhân tố như
chính sách khuyến khích cạnh tranh, hệ thống pháp luật minh bạch, mức độ
tham nhũng…Các nhân tố kinh tế, cơ sở hạ tầng bao gồm quy mô thị trường,
tính chất của nền kinh tế, hệ thống đường, hệ thống điện cảng, sân bay, hệ
thống điện thoại thông tin liên lạc…
Nếu phân chia theo cách truyền thống thì môi trường đầu tư bao gồm
các yếu tố về chính trị xã hội, các yếu tố luật pháp chính sách, các yếu tố kinh
tế, các yếu tố cơ sở hạ tầng, các yếu tố nguồn lực tự nhiên và lao động… Các
yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Dựa
trên những nhân tố đó theo cách truyền thống cũng đưa ra những tiêu chí để
đánh giá mức độ hấp dẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nếu không xét đến khả
năng và nhu cầu về vốn đầu tư của cả bên nước chủ đầu tư lẫn bên nước nhận
đầu tư, và với giả định bối cảnh chung của thế giới ở điều kiện bình thường cả
về tự nhiên và nhân tạo, thì có thể nhận thấy dòng FDI chỉ thực sự mở rộng và
ưa tìm đến những nơi có môi trường đầu tư đảm bảo cho dòng vốn sinh sôi
nảy nở. Và tiêu chuẩn của môi trường đầu tư hấp dẫn, có sức cạnh tranh để
thu hút FDI trước hết bao gồm 5 tiêu chí:
 Sự ổn định về kinh tế và chính trị - xã hội và luật pháp đầu tư.
 Sự mềm dẻo, hấp dẫn của hệ thống chính sách khuyến khích FDI.
 Sự phát triển của cơ sở hạ tầng.
 Sự phát triển của đội ngũ lao động, của trình độ khoa học - công nghệ
và hệ thống doanh nghiệp trong nước và trên địa bàn.

 Sự phát triển của nền hành chính quốc gia và hiệu quả của các dự án
FDI đã triển khai.


14
Theo tổ chức ngân hàng thế giới (WB) đã đưa ra những tiêu chí thu hút
FDI bao gồm bốn yếu tố sau: mức độ ổn định và an toàn, luật định và thuế, tài
chính và cơ sở hạ tầng, thị trường lao động.
Bảng 1: những nhân tố của môi trƣờng đầu tƣ theo World Bank
Mức độ ổn định và
an toàn
Luật định và thuế
Tài chính và cơ sở
hạ tầng
Thị trƣờng lao
động
*Mức độ ổn định
- Đẩy lùi sự bất ổn
từ những cuộc nội
chiến, xung đột
chính trị…
- Duy trì sự ổn
định kinh tế vĩ mô
của nhà nước với
mức lạm phát
thấp, ổn định cán
cân ngân sách,
đảm bảo tỷ giá hôi
đoái thực
*Sự an toàn

- Giảm tình trạng
trộm cướp, gian
lận, và xâm hại tài
sản
- Chấm dứt tình
trạng không được
đền bù từ xâm hại
tài sản
- Đơn giản thủ tục
hợp đồng
*Luật định
- Đảm bảo bộ máy
tốt bằng cách cân
bằng thị trường và
chính phủ
- Cắt giảm các
hàng rào để tạo
nên sự cạnh tranh
công bằng
- Các quy định
được trình bày rõ
ràng và khả thi
*Thuế
- Mở rộng nền
tảng thuế
- Gia tăng hệ
thống thuế tự
động
- Giảm tham
nhũng

- Đơn giản hệ
thống thuế
- Cải thiện hệ
thống hải quan
*Tài chính
- Khuyến khích
cạnh tranh trong
lĩnh vực ngân hàng
- Kiểm soát mức dộ
rủi ro ngân hàng và
các cơ quan tài
chính khác.
- Bảo đảm quyền
lợi của người đi vay
và cho vay, của các
cổ đông
- Bảo mật thông tin
thẻ tín dụng, quy
định cụ thể về luật
tín dụng
*Cơ sỏ hạ tầng
- Bảo vệ quyền tài
sản của chủ đầu tư,
khuyến khích cạnh
tranh và phát triển
khu vực đầu tư tư
nhân
- Nâng cao quản lý
cơ sở hạ tầng công
cộng

- Khuyến khích
nguồn lao động có
kỹ năng và học
thức bằng cách
mở rộng hệ thống
giáo dục, nâng cao
chất lượng giáo
dục
- Cân bằng lực
lượng lao động ở
nông thôn và
thành thị
- Can thiệp vào
lực lượng lao
động thủ công,
khu vực lao động
chính thức và
không chính thức
bằng cách thiết lập
hệ thống lương,
luật dịnh về thuê
nhân công và điều
kiện làm việc
(Nguồn: World Bank 2004, note: shade areas are those the DB indicators attempt
to measure)


15
Mặc dù có rất nhiều tiêu chí với những quan điểm khác nhau, tuy nhiên
trong bài này ta sẽ sử dụng những nhân tố của môi trường đầu tư theo cách

phân chia của UNCTAD để đánh giá mức độ hấp dẫn FDI. Như vậy, theo
UNCTAD bài khóa luận sẽ dựa theo 3 tiêu chí chính: khung chính sách, các
nhân tố kinh tế và các nhân tố hỗ trợ kinh doanh.
3.1. Khung chính sách về FDI
3.1.1. Những điều luật và quy định về hoạt động FDI
Những quốc gia khác nhau có những quy định luật khác nhau về việc
thu hút đầu tư nước ngoài có thể theo hướng khuyến khích đầu tư hay hạn chế
đầu tư tùy theo đặc điểm của từng quốc gia. Các luật đầu tư nước ngoài bao
gồm các chính sách điều chỉnh việc thâm nhập và hoạt động của các nhà đầu
tư nước ngoài, những tiêu chuẩn đối xử dành cho những nhà đầu tư nước
ngoài. Các chính sách này có thể cấm hoàn toàn FDI thâm nhập vào nước
mình cho đến không phân biệt đối xử giữa những nhà đầu tư trong nước và
ngoài nước, thậm chí trong một vài trường hợp còn đối xử ưu đãi hơn với các
nhà đầu tư nước ngoài nhằm đạt những mục đích nhất định. Nếu một quốc gia
thay đổi đột ngột những chính sách từ đóng cửa sang mở cửa với sự quảng bá
rộng lớn và hoành tráng thì chưa chắc đã thu hút được nhiều FDI như mong
muốn bởi các nhà đầu tư không muốn mạo hiểm đi vào những thị trường mới
đầy rủi do này. Trong khi đó các chính sách hạn chế như quốc hữu hóa tài sản
của các công ty nước ngoài hay hạn chế việc di chuyển tiền hay tài sản ra
nước ngoài có thể làm các nhà đầu tư nước ngoài từ bỏ kế hoạch đầu tư và tìm
một môi trường khác thông thoáng hơn. Những khung chính sách khác nhau
với nhiều hiệp định khác nhau sẽ tạo nên những sắc thái khác nhau về FDI.
Bên cạnh đó, một số các quy định chính sách trong một số ngành, lĩnh
vực khác cũng có ảnh hưởng đến quyết định của chủ đầu tư như:
- Chính sách thương mại có ảnh hưởng lớn đến quyết định lựa chọn địa
điểm đầu tư FDI gắn với sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ. Ví dụ như các


16
nước theo đuổi chiến lược phát triển sản xuất trong nước để thay thế nhập

khẩu sẽ thu hút được nhiều FDI vào sản xuất các hàng tiêu dùng phục vụ nhu
cầu trong nước nhưng sau đó một thời gian khi thị trường đã bão hòa nếu
trước đó không thay đổi chính sách sẽ không hấp dẫn được FDI.
- Chính sách tư nhân hóa liên quan đến việc cổ phần hóa, bán lại các
công ty: những nước cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào quá
trình tư nhân hóa sẽ tạo cho các nhà đầu tư nước ngoài nhiều cơ hội, nhiều lựa
chọn hơn trước khi quyết định đầu tư.
- Chính sách tiền tệ và chính sách thuế có ảnh hưởng quan trọng đến sự
ổn định nền kinh tế. Các chính sách này ảnh hưởng đến tốc độ lạm phát, khả
năng cân bằng ngân sách nhà nước, lãi suất thị trường. Như vậy những chính
sách này ảnh hưởng rất nhiều đến quyết định đầu tư. Các chủ đầu tư đều
muốn đầu tư vào thị trường có tỷ lệ lạm phát thấp. Lãi xuất trên thị trường
nước nhận đầu tư sẽ ảnh hưởng đến chi phí vốn, từ đó ảnh hưởng đến thu
nhập của chủ đầu tư nước ngoài. Thuế thu nhập đối với người có thu nhập
cao, thuế tiêu thụ đặc biệt… ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành phẩm. Nhìn
chung các chủ đầu tư đều tìm cách đầu tư ở những nước có các loại thuế thấp.
- Chính sách tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến giá các tài sản ở nước nhận
đầu tư, giá trị các khoản lợi nhuận các chủ đầu tư thu được và năng lực cạnh
tranh các hàng hóa xuất khẩu của các chi nhánh nước ngoài. Một nước theo
đuổi các chính sách đồng tiền quốc gia yếu sẽ có lợi trong việc thu hút FDI và
xuất khẩu hàng hóa. Chính vì vậy chính sách này ảnh hưởng đến FDI.
- Chính sách liên quan đến cơ cấu các ngành nghề kinh tế và các vùng
lãnh thổ: khuyến khích vào ngành nào, vùng nào và ngành nào đã bão hòa
không cần khuyến khích.
- Chính sách lao động: có hạn chế hay không hạn chế sử dụng lao động
nước ngoài, ưu tiên hay không ưu tiên sử dụng lao động trong nước.
- Chính sách giáo dục đào tạo, chính sách y tế… ảnh hưởng đến chất
lượng nguồn lao động cung cấp cho các dự án FDI.



17
3.1.2. Các hiệp định đầu tư quốc tế
Ngày nay, các quy định này thường tạo thuận lợi cho FDI vì nó bảo vệ
quyền lợi cho các nhà đầu tư hướng tới không phân biệt các chủ đầu tư theo
quốc tịch. Trong thời đại toàn cầu hóa và quốc tế hóa hiện nay tính liên kết
giữa các nền kinh tế quốc gia và khu vực ngày càng tăng. Điều này lý giải tại
sao số lượng các hiệp định, hiệp ước song phương và đa biên ngày càng tăng.
Các hiệp định này đã cung cấp một không gian quốc tế cho các chính sách
FDI quốc gia. Các hiệp định ở các cấp độ khác nhau cũng có những tác động
khác nhau tới khung chính sách pháp luật về FDI của một quốc gia.
- Các hiệp định đầu tư song phương (BITs) được ký kết giữa các nước
đang phát triển và các nước phát triển với quan điểm xúc tiến đầu tư giữa các
nước trong hiệp định. Hiện nay BITs cũng được ký kết giữa các nước đang
phát triển, hay giữa các nước phát triển với nhau… Các hiệp định này củng cố
các tiêu chuẩn song phương về bảo hộ và đối xử với các nhà đầu tư nước ngoài
và xây dựng thống nhất cơ chế giải quyết tranh chấp. Do đó nó có ảnh hưởng
đến khung chính sách FDI, góp phần vào việc cải thiện môi trường đầu tư.
- Khung hội nhập khu vực (RIFs): tác động của RIFs lên khung chính
sách FDI thể hiện bằng việc các nước thành viên phải đảm bảo cam kết tuân
thủ theo một khung chính sách tự do đã có sẵn, hoặc tự do hóa khung chính
sách này nếu chúng còn hạn chế, hài hòa các chính sách, tham gia vào những
thay đổi tự do hóa, củng cố các tiêu chuẩn về đối xử và bảo hộ, khuyến khích
các chính sách đảm bảo chức năng hoạt động của thị trường.
Ảnh hưởng của RIFs đối với khung chính sách FDI có nhiều mức độ.
Trong phần lớn các RIFs nhân tố trung tâm và quan trọng nhất tác động tới
FDI định hướng thị trường là việc tự do hóa các rào cản thương mại và mở
cửa cho các nước thành viên. Tự do hóa thương mại giữa các nước thành viên
tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn vì đây là cơ hội thuận lợi hơn cho các
công ty nước ngoài trong khu vực tiếp cận thị trường thành phẩm và sản phẩm



18
trung gian của khu vực. Trong trường hợp của liên minh thuế quan và khu
vực thương mại tự do, việc phân biệt đối xử với các nước ngoài khu vực bằng
hàng rào thuế quan khiến cho quy mô thị trường khu vực càng trở nên hấp
dẫn hơn. RIFs cũng có thể ảnh hưởng đến tốc độ tự do hóa chính sách FDI và
thương mại. Muốn tham gia một hiệp định nào đó các nước phải đảm bảo một
số yêu cầu nhất định, trong đó có yêu cầu về tự do hóa khung chính sách FDI.
Đây có thể coi là một động lực để các nước đẩy nhanh quá trình tự do hóa
khung chính sách FDI của mình, tạo điều kiện thu hút nhiều hơn vốn FDI.
Ngay cả khi áp lực tự do hóa không thực sự tác động đến chính sách
FDI, chúng cũng có thể ảnh hưởng đến khung chính sách chung của nước
thành viên theo hướng khuyến khích FDI.
Như vậy các quốc gia đều nhận thức được tầm quan trọng của hành
lang pháp lý về FDI đối với thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn này. Hầu
hết các quốc gia đều có cái nhìn thông thoáng hơn về FDI. Các chủ đầu tư
ngày càng có nhiều địa điểm để lựa chọn và do đó ngày càng chọn lọc và khắt
khe hơn khi xem xét môi trường đầu tư của nước tiếp nhận đầu tư. Sự cạnh
tranh gay gắt giữa các quốc gia cho thấy nếu chỉ có khung pháp lý thôi chưa
đủ mà họ cần phải áp dụng nhiều biện pháp hơn nữa để thu hút FDI.
3.2. Các nhân tố kinh tế
Chú trọng nhiều đến các yếu tố kinh tế của môi trường đầu tư, các nhà
đầu tư thường quan tâm đến mô hình kinh tế của quốc gia nhận đầu tư, sự ổn
định và tăng trưởng của nền kinh tế quốc gia, quy mô thị trường, hệ thống tài
chính và khả năng tiếp cận tài chính. Hệ thống kinh tế thay đổi khác nhau ở
từng quốc gia trên thế giới, được thiết lập nhằm phân phối tối ưu các nguồn
nhân lực có hạn, tạo sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế. Theo
UNCTAD, các nhân tố của môi trường kinh tế bao gồm: FDI định hướng
nguồn nguyên liệu và tài sản, FDI định hướng thị trường, FDI định hướng
hiệu quả



19
3 2.1. FDI định hướng nguồn nguyên liệu và tài sản (resourse/ asset- seeking)
Các nguồn lực tự nhiên là động cơ truyền thống của FDI định hướng
nguồn nguyên liều và tài sản. Việc sẵn có của các nguồn lực tài nguyên thiên
nhiên phong phú đa dạng đã từng là yếu tố cơ bản thu hút FDI của các nước.
Cho đến đại chiến thế giới thứ hai, 60% tổng FDI trên thế giới liên quan đến việc
tìm các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Nhưng từ những năm 1960, tầm quan
trọng tương đối của các nguồn tài nguyên thiên nhiên này trong thu hút FDI
giảm dần. Trong phần lớn các nước chủ đầu tư, chỉ 11% tổng vốn FDI ra trong
năm 1990 dành để tìm kiếm các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Đối với các nước
công nghiệp phát triển hàng đầu như Đức, Nhật, Anh, Mỹ trong giai đoạn 1991-
1995, tỷ lệ chỉ còn dưới 5%. Nguyên nhân là do các nước có nhiều tài nguyên
thiên nhiên chấp nhận thu hút đầu tư bởi họ có tài nguyên nhưng lại thiếu một
lượng vốn đủ lớn hoặc không có một trình độ công nghệ cần thiết để khai thác.
Thêm vào đó, các điều kiện cơ sở hạ tầng cần thiết để đưa những nguyên liệu thô
này ra khỏi nước nhà đến tay người tiêu dùng chưa sẵn có hoặc đang cần tạo ra.
Cùng với trình độ phát triển ngày càng cao của các nước nhận đầu tư, nhiều công
ty trong nước lớn đã xuất hiện. Đây thường là các công ty thuộc sở hữu nhà
nước, có đủ vốn và kỹ thuật để có thể tự khai thác nguyên liệu. Hơn nữa cơ sở hạ
tầng cũng dần được cải thiện giúp cho những quốc gia này có thể tự sản xuất và
phân phối sản phẩm thô cũng như chế biến. Khi đó lợi thế so sánh của quốc gia
sẽ làm tăng kim ngạch ngoại thương đặc biệt là kim ngạch xuất khẩu nguyên vật
liệu hơn là gia tăng FDI vào. Ngoài ra còn do sự giảm sút tỷ trọng các lĩnh vực
cơ bản trong sản lượng thế giới, điều này khiến cho nhu cầu về nguồn lực tự
nhiên không còn quan trọng như trước nữa và một môi trường dồi dào nguồn lực
tự nhiên không còn là lợi thế tuyệt đối của một quốc gia.
Nguồn nhân lực hay nguồn lao động của một quốc gia bao gồm số
người trong độ tuổi lao động và những người ngoài độ tuổi lao động nhưng

thực tế có làm việc. Dân số và cấu thành dân cư trong địa phương là cơ sở cho


20
sự hình thành và phát triển nguồn lao động. Dân số đông sẽ cung cấp một lực
lượng lao động dồi dào, và càng hấp dẫn các nhà đầu tư. Lực lượng lao động
dồi dào và giá rẻ ở nhiều nước đang phát triển cũng thu hút được sự quan tâm
của các chủ đầu tư nước ngoài. Lực lượng này đáp ứng được nhu cầu của các
doanh nghiệp chế tạo cần nhiều lao động. Ngược lại, những ngành, lĩnh vực,
những dự án đầu tư đòi hỏi công nghệ cao thường kèm theo yêu cầu về lao
động có trình độ cao, có tay nghề và được đào tạo bài bản.
3.2.2. FDI định hướng thị trường (Market-seeking)
Nhân tố kinh tế ảnh hưởng đến dòng FDI định hướng thị trường là dung
lượng thị trường được quy định bởi qui mô dân số, thu nhập bình quân trên đầu
người và tốc độ tăng trưởng của thị trường. Thị trường càng lớn càng hấp dẫn
các nhà đầu tư. Thị trường lớn có thể tạo điều kiện cho nhiều công ty và giúp
các công ty tiêu thụ được nhiều sản phẩm để phát huy tính kinh tế của qui mô.
Thu nhập bình quân/người cho biết sức mua của người dân và tốc độ tăng
trưởng cho thấy triển vọng phát triển của nền kinh tế đó. Một mức độ tăng
trưởng cao sẽ khuyến khích các nhà sản xuẩt trong nước mở rộng đầu tư.
Thị trường quốc gia là yếu tố hướng tới của FDI như một cách thức
khôn ngoan để tránh hàng rào thuế quan bảo vệ hàng trong nước khỏi cạnh
tranh quốc tế. Đối với các TNCs hoạt động trong ngành dịch vụ thì nguyên
nhân chính tiến hành FDI không phải là hàng rào thuế quan mà là do các dịch
vụ thường khó xuất khẩu. Vì thế cách duy nhất để đem dịch vụ đó ra nước
ngoài là thành lập một công ty ở nước ngoài. Do đó ba yếu tố trên thị trường
quốc gia là: dung lượng thị trường, thu nhập bình quân và tăng trưởng thị
trường trở thành yếu tố quan trọng khi đánh giá môi trường đầu tư của một
nước. Các TNCs đầu tư loại hình FDI định hướng thị trường mong muốn tìm
kiếm và khai thác ở nước chủ nhà những lợi thế vể quy mô thị trường theo

nghĩa tuyệt đối cũng như tương đối… Các thị trường lớn sẽ có chỗ cho nhiều
công ty hoạt động hơn, và giúp các công ty tận dụng tính kinh tế của quy mô
thông qua sản xuất nhiều sản phẩm hơn.


21
Các liên minh liên kết mang tính khu vực, dung lượng thị trường không
chỉ bó hẹp trong phạm vi của một quốc gia nữa mà ngày càng mở rộng, tỷ lệ
với các hiệp định khu vực mà quốc gia đó tham gia. Như khi quốc gia tham
gia vào một RIFs, qui mô thị trường không chỉ là qui mô của thị trường quốc
gia nữa mà là qui mô của cả thị trường khu vực. Các nhà đầu tư khi đầu tư
vào một quốc gia là thành viên của RIFs, sẽ có cơ hội tiếp cận một thị trường
rộng lớn hơn rất nhiều so với một thị trường riêng lẻ. Điều này sẽ thu hút
mạnh mẽ dòng FDI thay thế nhập khẩu. Tuy nhiên mức độ thu hút này phụ
thuộc vào mức độ bảo hộ của thị trường trong khu vực khi thực hiện RIFs và
vào việc các TNCs đã đầu tư vào thị trường quốc gia thành viên nào trước khi
thực hiện RIFs hay chưa. Kể cả khi chưa có sự bảo hộ cao dành cho các nước
thành viên thì thị trường khu vực vẫn là một địa điểm hấp dẫn đầu tư nước
ngoài vì RIFs đã dỡ bỏ các rào cản phi thương mại, tạo điều kiện giao lưu
hàng hóa nội bộ khối.
Thêm vào đó, các nước đầu tư cũng được hưởng những ưu đãi với tư
cách là nhà đầu tư tại một khu vực như hưởng lợi từ các quy tắc xuất xứ.
Cùng với việc mở rộng dung lượng thị trường tiêu thụ, việc đầu tư vào các
quốc gia thành viên của RIFs còn giúp các TNCs tận dụng được tính kinh tế
của quy mô trong tất cả các công đoạn của chuỗi giá trị. Các công ty có thể
lựa chọn nhiều lợi thế địa điểm một lúc mà không phải hi sinh lợi thế này cho
lợi thế khác.Ví dụ khi đầu tư vào các thành viên của NAFTA, TNC vừa có thể
tận dụng nguồn nhân lực rẻ của Việt Nam, vừa có cơ hội tiếp cận với thị
trường rộng lớn của Đông Nam Á.
3.2.3. FDI định hướng hiệu quả (efficiency-seeking)

Các chủ đầu tư chú trọng đến chi phí mua sắm các nguồn tài nguyên và
tài sản cân đối với năng suất lao động, các chi phí đầu vào khác như chi phí
vận chuyển và thông tin liên lạc đi đến hoặc trong nước nhận đầu tư, chi phí


22
mua bán thành phẩm, tham gia các hiệp định hội nhập khu vực tạo thuận lợi
cho việc thành lập mạng lưới các doanh nghiệp toàn khu vực.
Khi các chủ đầu tư chú trọng đến việc giảm chi phí thì một trong những
chi phí được các chủ đầu tư chú ý nhiều đó là chi phí lao động. Điều này đặc
biệt đúng trong những ngành, những lĩnh vực sử dụng nhiều lao động. Các chủ
đầu tư sẽ tìm đến những thị trường có nguồn lao động rẻ phù hợp. Tất nhiên
chủ đầu tư cũng phải tính toán cân đối giữa tiền lương, chi phí đào tạo, các chi
phí khác liên quan đến việc sử dụng lao động với năng suất lao động để quyết
định đầu tư ở địa điểm nào có hiệu quả sử dụng lao động cao nhất. Các ngành
có tỷ trọng chi phí nguyên vật liệu cao trong giá thành sản phẩm lại chú ý nhiều
đến việc giảm chi phí liên quan đến việc mua các nguyên vật liệu….
Các điều kiện cơ sở hạ tầng trong môi trường đầu tư của một quốc gia
bao gồm hệ thống đường xá, cầu cống, sân bay, cảng , mức độ thỏa mãn các
dịch vụ điện nước, bưu chính viễn thông, khách sạn, khả năng thuê đất và sở
hữu nhà, đền bù giải tỏa, thuê nhà, dịch vụ vận tải, thông tin liên lạc cũng ảnh
hưởng nhiều đến hiệu quả hoạt động đầu tư. Chính vì vậy, khi lựa chọn địa điểm
đầu tư nước ngoài phải cân nhắc vấn đề này.
3.3. Các yếu tố hỗ trợ kinh doanh
Thu hút FDI luôn được các nước đang phát triển và kém phát triển đặc
biệt chú ý. Vì vậy ngoài những nhân tố như khung chính sách, các nhân tố
kinh tế, thì việc tạo lập những biện pháp tích cực và chuyên nghiệp nhằm mục
tiêu tạo điều kiện cho những hoạt động kinh doanh mà các chủ đầu tư tiến
hành tại nước chủ nhà.
Các yếu tố hỗ trợ trong kinh doanh bao gồm chính sách xúc tiến đầu tư,

các biện pháp ưa đãi, khuyến khích đầu tư, giảm các tiêu cực phí bằng cách
giải quyết nạn tham nhũng, cải cách thủ tục hành chính để nâng cao hiệu quả
hoạt động của các bộ máy quản lý nhà nước, nâng cao chất lượng các dịch vụ


23
tiện ích cho xã hội để đảm bảo chất lượng cuộc sống cho các chủ đầu tư nước
ngoài (các trường song ngữ, chất lượng cuộc sống,….). Các dịch vụ hậu đầu
tư. Từ lâu các nước nhận đầu tư đã ý thức được tầm quan trọng của các nhân
tố này, vì vậy các nước thường phải tìm cách cải tiến các yếu tố này nhằm tạo
điều kiện thuận lợi hơn cho các chủ đầu tư.
3.3.1. Hoạt động xúc tiến đầu tư
Xúc tiến đầu tư bao gồm các hoạt động xây dựng và giới thiệu hình ảnh
đất nước, đặc biệt giới thiệu môi trường đầu tư, cơ hội đầu tư cho các nhà đầu
tư nước ngoài, các hoạt động hỗ trợ đầu tư và các dịch vụ tạo thuận lợi cho
đầu tư. Xúc tiến đầu tư đặc biệt quan trọng đối với những nước mới mở cửa
thu hút FDI hoặc vừa thay đổi những chính sách liên quan đến FDI chuyển từ
hạn chế sang mở cửa khuyến khích FDI. Hoạt động xúc tiến đầu tư lúc này sẽ
giúp các chủ đầu biết đến những chính sách thuận lợi dành cho FDI mới được
ban hành ở nước nhận đầu tư. Từ đó chủ đầu tư sẽ cân nhắc và đi đến quyết
định có đầu tư hay không vào nước đó. Thực tế cho thấy một số nước đang
phát triển không thành công trong thu hút FDI mặc dù đã đưa ra nhiều cải tiến
về chính sách có liên quan đến FDI theo hướng tạo thuận lợi và ưu đãi cho
FDI, lý do vì các chủ đầu tư nước ngoài không biết đến các thay đổi này. Như
vậy hoạt động xúc tiến đầu tư giúp các chủ đầu tư nước ngoài biết đến và
phản ứng kịp thời với những thay đổi trong chính sách FDI của nước nhận
đầu tư, đặc biệt hoạt động này giúp các nước chủ đầu tư có thể nhận ra được
cơ hội đầu tư mới mà nếu tìm hiểu sẽ mất nhiều thời gian mà có khi không
tìm ra được những cơ hội này. Xúc tiến đầu tư sẽ rút ngắn khoảng cách địa lý
giữa nước nhận đầu tư và nước chủ đầu tư vì thông tin đến chủ đầu tư kịp

thời. Việc giới thiệu môi trường đầu tư, cơ hội đầu tư có thể được tiến hành
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, cũng có thể qua các cuộc tiếp
xúc riêng với nhà đầu tư. Thậm chí đối với các chủ đầu tư là các TNC, MNC
lớn, công tác xúc tiến đầu tư có thể đựợc tiến hành với riêng từng chủ đầu tư.


24
Các hoạt động hỗ trợ đầu tư và các dịch vụ tạo thuận lợi cho đầu tư
cũng có ảnh hưởng nhiều đến chất lượng xúc tiến đầu tư và từ đó ảnh hưởng
nhiều đến dòng FDI chảy vào một nước. Các hoạt động hỗ trợ này có thể là
hỗ trợ trong nghiên cứu thị trường, tìm kiếm đối tác, cơ hội đầu tư, hỗ trợ
trong việc lập hồ sơ dự án và xin phép đầu tư, hỗ trợ trong quá trình triển khai
dự án, hỗ trợ trong suốt quá trình hoạt động của dự án và hỗ trợ khi dự án làm
thủ tục để chấm dứt hoạt động. Ngày nay nhiều nước đã áp dụng cơ chế một
cửa để giúp các nhà đầu tư nước ngoài chỉ cần thông qua một đầu mối có thể
hỗ trợ về mọi mặt và trong suốt quá trình từ khi tìm kiếm cơ hội đầu tư đến
khi kết thúc dự án. Cơ chế này đã tạo nhiều thuận lợi cho các nhà đầu tư, giúp
họ tiết kiệm được thời gian và chi phí. Với chính sách xúc tiến đầu tư tốt,
dòng vốn FDI chảy vào một nước có thể tăng lên rất nhiều.
3.3.2. Hoạt động ưu đãi đầu tư
Theo UNCTAD, các biện pháp ưu đãi đầu tư là: “Là các biện pháp ưu
đãi mà bất kỳ lợi thế kinh tế có thể đo lường được chính phủ giành cho một số
các công ty hoặc một số loại hình công ty nhất định để khuyến khích các công
ty này hoạt động theo một cách thức nhất định”. Các ưu đãi đầu tư như ưu đãi
về thuế, ưu đãi tài chính, ưu đãi khác cũng là một công cụ được nhà nước sử
dụng để tăng cường thu hút FDI. Các ưu đãi này giúp cho các chủ đầu tư tăng
tỷ suất lợi nhuận, giảm chi phí hoặc hạn chế rủi ro. Thông thường các chính
sách này đuợc áp dụng riêng cho một hoặc một số doanh nghiệp hoạt động
trong một ngành một lĩnh vực được nhà nước ưu tiên khuyến khích phát triển
như muốn điều chỉnh cơ cấu ngành, lãnh thổ, khuyến khích chuyển giao công

nghệ cao…Như vậy, ưu đãi đầu tư có thể giúp các nước tăng cường thu hút
FDI có trọng điểm ví dụ như các nhà đầu tư hướng về xuất khẩu thích những
chính sách ưu đãi mở cửa còn những nhà đầu tư hướng theo chiến lược thay
thế nhập khẩu lại thích hàng rào thuế quan bảo hộ sản phẩm trong nước.

×