Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Luận văn : ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HỆ THỐNG LỌC TUẦN HOÀN TRONG SẢN XUẤT GIỐNG TÔM CÀNG XANH (Macrobrachium rosenbergii) TOÀN ĐỰC part 2 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (582.43 KB, 26 trang )

2.8. Vấn đề chăm sóc, quản lý
Hầu hết các vấn đề phát sinh trong nhà giống đều do nguyên nhân quản lý kém
(New và Shigolka, 2000).
2.8.1. Cho ăn
Một khía cạnh không kém phần quan trọng trong sản xuất giống tôm càng xanh
đó là kỹ thuật cho ăn (New và Valenti, 2000) bởi vì thức ăn đóng vai trò quan trọng
quyết định đến tỷ lệ sống, biến thái cũng như môi trường nước ương (Trần Thị Thanh
Hiền và ctv, 2003). Có 2 loại thức ăn được dùng, đó là nauplius Artemia và thức ăn
chế biến (New và Shingolka, 1985).
Thức ăn chế biến có nhiều công thức phối chế rất khác nhau, nhưng chủ yếu
gồm các loại nguyên liệu sau: thịt tôm, thị mực, trứng cá, dầu cá, các vitamine và
khoáng chất (New và Shingolka, 1985). Việc cho ăn nên đảm bảo đầy đủ để tránh ấu
trùng đói, chúng sẽ ăn thịt lẫn nhau. Tuy nhiên nếu thừa nhiều thức ăn (nhất là thức ăn
chế biến) sẽ làm nước bể ương bị dơ, làm cơ sở cho mầm bệnh tấn công (New và
Shingolka, 1985).
2.8.2. Vệ sinh
Đảm bảo bệ sinh tốt sẽ góp phần ngăn ngừa dịch bệnh (New và Valenti, 2000).
Nước thay được xử lý kém hay vệ sinh kém là nguyên nhân xuất hiện nấm
(Zoothanium), ký sinh (Epistylis), hydroid (thuỷ tức) có ảnh hưởng bất lợi tới ấu
trùng. (New và Valenti, 2000).
Theo như đề xuất của New và Shingolka (1985) thì mỗi bể nên có dụng cụ vệ
sinh riêng. Các bể nên được vệ sinh, khử trùng giữa hai chu kỳ ương theo quy trình.
Cọ rữa bể, xử lý bằng 1,5 ppm chrorine. Phun 250 ppm formaline, phơi dưới ánh nắng
mặt trời rồi rữa lại. Nếu không thực hiện tốt việc vệ sinh sẽ làm phát triển rộ các vi
sinh vật trên.
2.9. Tạo đàn tôm toàn đực bằng kỹ thuật vi phẩu
2.9.1. Ưu thế của việc sản xuất đàn toàn đực
Một trở ngại lớn trong nuôi tôm càng xanh thương phẩm là sự phân đàn khi
nuôi chung tôm đực và tôm cái. Tôm đực thường lớn nhanh hơn tôm cái trong một
quần đàn (Ra’anna và Sagi, 1986). Trở ngại này làm ảnh hưởng đáng kể đến kích cỡ
và sản lượng tôm thương phẩm (Smith và ctv, 1978; Brody và ctv, 1980; Cohen và


ctv, 1981; Sagi và ctv, 1986; Nguyễn Vệt Thắng, 1993) trích dẫn bởi Nguyễn Văn
Hảo và ctv, 2004.
Với sự cố gắng bước đầu trong sản xuất đàn tôm càng xanh toàn đực của Sagi,
Ra’anan, Cohen và Wax (1986) trên quy mô nuôi nhỏ đã cho thấy khả năng sản xuất
cao của đàn toàn đực sau 150 ngày nuôi. Năng suất đạt 473 g/m
2
của đàn toàn đực so
với 248 – 260 g/m
2
của đàn tôm bình thường có hỗn hợp đực cái. Việc sản xuất đàn
toàn đực cho năng suất cao và đạt kích cỡ thương mại nhanh hơn (Sagi và Aflalo,
2005).
Sau đó Cohen, Sagi, Ra’anan và Zohar (1988) thực hiện việc thử nghiệm nuôi
đàn toàn đực tập trung trong ao đất (Sagi và Aflalo, 2005) và cho thấy đàn toàn đực
cho năng suất thương mại cao, gia tăng trọng lượng trung bình, lợi nhuận thu được
cũng tăng 18% ở Israel.
2.9.2. Vai trò của tuyến đực trong xác định giới tính ở tôm càng xanh
Không giống như các loài động vật có xương sống, ở giáp xác đực chức năng
nội tiết và sinh giao tử phân biệt thành 2 cơ quan rõ rệt: tuyến đực (androgenic gland)
và sinh tinh trùng (testis) (Ginburger-Vogel  Charniaux – Cotton 1982; Charniaux –
Cotton  Payen 1988) trích bởi Sagi và Aflalo (2005).
Năm 1990, qua quá trình nghiên cứu, Sagi và ctv đã phát hiện ra tuyến đực có
vai trò quan trọng đối với sự hình thành giới tính và các đặc điểm sinh dục phụ thứ
cấp cũng như ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng ở giáp xác.
Năm 2000, Phạm Anh Tuấn và ctv làm thí nghiệm cắt tuyến sinh dục của tôm
càng xanh giống cỡ 3 – 5 cm đã làm thay đổi cấu trúc sinh dục của tôm càng xanh.
Theo tác giả thì cồn 96
0
có thể tác dụng phá hũy cấu trúc của tuyến đực và làm thay
đổi một số đặc điểm sinh dục phụ trên tôm càng xanh đực.

Theo nhiều tác giả (Nagamine, Knight, Maggesnti và Pax, 1980) tôm càng
xanh đực đã được biệt hoá ở giai đoạn phát triển còn non. Điều này chứng tỏ tôm càng
xanh đực có mức thuộc cái cao, bao gồm sự phát triển của vòi trứng và ống dẫn trứng
(Sagi và Aflalo, 2005) khi chưa được biệt hoá đực.
Ở tôm càng xanh, theo Veith và Malecha (1983) tuyến đực gồm một sợi các tế
bào bao quanh bởi một lớp mô liên kết hình thành nên một cụm liên kết lỏng lẽo nằm
phía sau của ống dẫn tinh (Sagi và Aflalo, 2005). Theo tác giả có thể thao tác loại
tuyến đực mà không làm hư hại tuyến sinh dục này để ảnh hưởng đến sự biệt hoá giới
tính sớm của tôm càng xanh. Năm 1990, Sagi và ctv đã ghi nhận tôm càng xanh giống
loại bỏ tuyến đực đã chuyển đổi giới tính hoàn toàn thành con cái và phát triển thành
tôm cái thật sự có khả năng giao vỹ và sinh ra thế hệ con 100% đực.
2.9.3. Cơ sở tạo đàn tôm toàn đực
Nghiên cứu bộ gen trên tôm càng xanh của Malecha và ctv (1992) đã xác định
được cặp nhiễm sắc thể giới tính của tôm càng xanh đực là đồng giao tử ZZ và của
con cái là dị giao tử WZ (Sagi và Aflalo, 2005). Việc loại tuyến đực sẽ làm cho con
đực có xu hướng cái hoá và có khả năng mang trứng. Khi đó tôm cái giả (kiểu gen
ZZ) giao phối với tôm đực bình thường (kiểu gen ZZ) sẽ cho đàn toàn đực (kiểu gen
ZZ).
Ở Việt Nam, năm 2004, Nguyễn Văn Hảo và ctv đã nghiên cứu bước đầu sản
xuất đàn toàn đực bằng kỹ thụât vi phẩu, tôm đực PL 30 – 60 ngày tuổi được chọn làm
thí nghiệm, dùng kỹ thuật vi phẩu như mô tả của Sagi và Cohen (1990) để loại tuyến
đực đạt được một số kết quả bước đầu. Trong 43 quần đàn phát hiện 7 quần đàn 100%
toàn đực, 7 tôm cái giả có thể cho sản xuất toàn đực. Theo tác giả, sau vi phẩu tôm
được thả nuôi và kiểm tra đàn con F
1
. Nếu F
1
100% toàn đực thì ta kết luận vi phẩu
thành công và con cái tạo ra được gọi là cái giả.
2.10. Các qui trình nuôi tôm càng xanh trong sản xuất giống

Hiện nay, các qui trình được sử dụng trong sản xuất giống tôm càng xanh (theo
Nguyễn Việt Thắng, 1993) như:
- Qui trình nước xanh hệ hở (do Fujimura nghiên cứu vào năm 1974)
- Qui trình nước trong hệ hở (do Ling (1969) và Aquacop (1983))
- Qui trình nước trong hệ kín (được nghiên cứu từ năm 1977 đến năm 1986)
2.11. Qui trình nước trong hệ kín
2.11.1. Giới thiệu
Được nghiên cứu từ năm 1977 đến năm 1986 qui trình căn bản được hoàn thiện
và đưa vào sử dụng. Theo Nguyễn Việt Thắng (1993) đây là hệ thống ở đó nước nuôi
được tái xử lý bằng các biện pháp xử lý nước (lọc cơ học, lọc sinh học, hấp thụ vật lý,
tẩy uế, sục khí…) để tái sử dụng nguồn nước này.
Trong tuần hoàn kín, hệ thống lọc sinh học là một hệ thống quan trọng nhất.
Lọc sinh học được sử dụng chủ yếu để loại bỏ chất thải nitơ, chủ yếu từ ammonia do
ấu trùng và thức ăn tươi (Artemia…) trong quá trình bài tiết và từ sự phân hủy vật liệu
hữu cơ.

Hình 2.4. Sơ đồ tác động của vi sinh vật trong hệ thống tuần hoàn.
Nguồn: Nguyễn Việt Thắng (1996)
Sản phẩm độc Khoáng hoá Nitrate hoá Sản phẩm vô hại
Vi sinh vật
Nước nuôi

Hình 2.5. Sơ đồ qui trình nước tuần hoàn kín.
Nguồn: Nguyễn Thị Thanh Thuỷ (2002)
Về cơ bản việc ứng dụng qui trình nuôi tôm theo mô hình tuần hoàn kín mang
lại một số ưu điểm là: tiết kiệm lượng nước nuôi, giảm thiểu tác hại của môi trường,
tiết kiệm công sức lao động. Nhưng đây là qui trình khó, đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao,
trang thiết bị tốn kém và vốn đầu tư lớn (Nguyễn Việt Thắng, 1993; Nguyễn Thị
Thanh Thuỷ, 2002). Và một trong các điểm yếu của qui trình này là nếu có sự cố xảy
ra như bệnh trên một bể trong hệ thống thì nó sẽ lan truyền cho cả hệ thống nuôi. Một

hạt hữu cơ rơi vào hệ lọc cũng có thể là nguyên nhân gây bệnh cho hệ thống (New và
Shingolka, 1985).
2.11.2. Các quá trình sinh hóa xảy ra trong lọc sinh học
2.11.2.1. Quá trình khoáng hoá
Là giai đoạn đầu tiên của quá trình lọc sinh hoc, các chất thải chứa nitơ được
các vi khuẩn dị dưỡng hấp thụ và chuyển thành ammonia đơn giản.
Sự khoáng hoá bằt đầu bằng việc phân giải các hợp chất protein và acid nucleic
để tạo nên các acid amine và bazơ hữu cơ có chứa nitơ. Tiếp đó quá trình khoáng hoá
sẽ khử amine bởi các vi khuẩn, trong đó một nhóm amino sẽ tách ra để hình thành
ammonia.
2.11.2.2. Quá trình nitrate hoá
Gây nuôi vi
khuẩn
Nitrosomonas
Nitribacter
Nước lợ
12‰ đã qua
xử lý


HỆ THỐNG BỂ ƯƠNG

Post larvae
Ngọt hóa
0‰


Ấu
trùng


Thức
ăn

Chăm
sóc
Phòng và
kiểm
soát bệnh
THEO NHẬT KÝ SẢN XUẤT GIỐNG
LỌC SINH HỌC CÂN BẰNG VỚI HỆ THỐNG

ƯƠNG
Sau đó, nhờ quá trình nitrate hóa, ammonia được chuyển thành dạng nitrate vô
hại đối với ấu trùng của tôm (Spotte 1979). Kaiser, Wheatgon (1983) và Brock (1994)
đã mô tả quá trình nitrate hóa ammonia bắt nguồn từ hoạt động của chuỗi vi khuẩn
nitrate hóa. Nhóm đầu tiên oxi hóa ammonia thành NO
2
-
, đại diện là giống
Nitrosomonas và Nitrosococus. Nhóm thứ 2 oxi hóa NO
2
-
thành NO
3
-
, thuộc giống
Nitrobacter, Nitrospira, Nitrococcus (Brock và ctv, 1994). Quá trình nitrate hóa liên
quan đến cả sự oxi hóa và tổng hợp, kết quả dẫn đến việc tiêu thụ O
2
và loại bỏ tính

kiềm. Nhóm vi khuẩn Nitrosomonas và Nitrobacter là các nhóm chính của những vi
khuẩn tự dưỡng thực hiện sự nitrate hóa ở cả môi trường nước ngọt, nước lợ, nước
mặn. Phương trình của sự nitrate hóa như sau :
NH
4
+
+ OH
-
+
2
3
O
2
= H
+
+ NO
2
-
+ H
2
0 (1)
NO
2
-
+
2
1
O
2
= NO

3
-
(2)
2.11.2.3. Quá trình khử nitrate
Ngoài ra trong hệ lọc sinh học còn có quá trình khử nitrate. Đây là một quá
trình kỵ khí xảy ra ở phần bể lọc thiếu oxy bởi vi khuẩn kỵ khí thật sự hoặc là các loài
hiếu khí chuyển sang hô hấp kỵ khí khi điều kiện thiếu oxy. Kết quả sự khử nitrate là
đã chuyển nitơ về dạng oxy hóa thấp hơn (N
2
O, N
2
…). Ở trạng thái oxy hóa hoàn toàn
(N
2
), một số nitơ có thể tách khỏi dung dịch đi vào không khí, vì thế quá trình khử
nitrate làm giảm lượng nitơ của dung dịch.
Trong 3 quá trình sinh hóa quan trọng của sự lọc sinh học thì 2 quá trình
khoáng hóa và nitrate hóa có ý nghĩa quan trọng cho việc ‘tái sinh nước’, giữ được
chất lượng nước ổn định. Quá trình khử nitrate xảy ra ở những phần của bể lọc bị
thiếu oxy và sản phẩm của quá trình này thường làm nhiễm bẩn môi trường. Vì vậy,
hàm lượng oxy trong bể lọc rất có ý nghĩa.
Nguồn : Nguyễn Việt Thắng (1996).
2.11.3. Vi sinh vật trong lọc sinh học
Hai nhóm vi khuẩn chủ yếu cần thiết trong hệ lọc sinh học thuộc hai nhóm
sinh vật dị dưỡng và tự dưỡng đặc biệt là nhóm vi khuẩn tự dưỡng Nitrosomonas và
Nitrobacter là 2 nhóm quan trọng thực hiện quá trình nitrate hoá. Các vi khuẩn
Pseudomonas… có ý nghĩa cho việc khử nitrate.
Ngoài ra nười ta cũng nhận thấy sự có mặt của Protozoa, Amoeba, Rotifer, và
một số lượng lớn Mematodes…
Các vi sinh vật trong hệ lọc sống lơ lửng hoặc tạo thành một màng nhầy như

một quần thể sinh vật. Màng nhầy này có vai trò chuyển NH
4
+


NO
2
-
thành NO
3
-

theo sơ đồ ở hình 2.6.

Hình 2.6. Quá trình nitrate hoá ở màng nhầy sinh học
Kết quả của quá trình nitrate hoá sẽ acid hoá môi trường vì sự hình thành H
+

(xem phương trình 1 và sơ đồ màng nhầy), vì vậy để ổn định pH môi trường, thường
phải cung cấp vật liệu cho bể lọc các đá san hô, đá vôi tạo ra được Alkalinity (HCO
3
-
)
để trung hoà H
+
:
H
+
+ HCO
3

-
 CO
2
 + H
2
O
Người ta gọi đó là hệ thống đệm bicacbonate, nhờ đó mà môi trường nước nuôi
giữ được độ kiềm ổn định.
Nguồn: Nguyễn Việt Thắng (1996)
NO
2
Màng nhầy
NO
3
-

O
2
NO
2
H
+

HCO
3
-
Alkalinity
H
2
O

O
2
H
2
O
CO
2

H
2
O
Chương 3: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
3.5. Địa điểm nghiên cứu
Thí nghiệm được thực hiện tại “Trại Thực Nghiêm Nuôi Thuỷ Sản Thủ Đức”-
Phòng Sinh Học Thực Nghiệm (658 Kha Vạn Cân, Thủ Đức). Và “Trung Tâm Quan
Trắc Môi Trường và Dịch Bệnh Thuỷ Sản” trực thuộc Viện Nghiên Cứu và Nuôi
Trồng Thuỷ Sản II (116 Nguyễn Đình Chiểu, Quận 1)
3.6. Thời gian nghiên cứu
Đề tài được thực hiện từ 7/3/2005 – 7/8/2005.
3.7. Vật liệu
3.7.1. Nguồn nước
Sử dụng nguồn nước lấy từ giếng khoan và nguồn nước máy làm nguồn nước
ngọt, nước biển được mang về từ Vũng Tàu. Hai nguồn nước này được xử lý và pha
trộn để có độ mặn 12‰.
3.7.2. Ấu trùng
Tôm mẹ mang trứng có nguồn gốc từ tôm đực đã được vi phẩu loại tuyến đực
có khả năng mang trứng để sản xuất đàn ấu trùng dùng cho các thí nghiệm. Các tôm
mẹ mang trứng xám được bắt từ bể nuôi tôm bố mẹ vào trong nhà giống để ấp. Ấu
trùng nở ra sau 1 – 2 ngày được bố trí cho vào bể ương.
3.7.3. Nhà giống

- Cấu trúc máy che bằng tole xi măng
- Vách làm bằng bạc nhựa nilông
- Nền được tráng xi măng
3.7.4. Bể
Có 20 bể composite thể tích 100 lít dùng cho các thí nghiệm ương ấu trùng.
Ngoài các bể ương ấu trùng còn có các bể chứa nước biển (10 m
3
), bể xử lý nước 0,5
m
3
và 1 m
3
. Các xô ấp cho tôm mẹ mang trứng để thu ấu trùng, keo thuỷ tinh 10 lít để
ấp Artemia.
3.7.5. Hệ lọc sinh học và hệ thống bể ương
- 4 bể lọc san hô dung tích 0,5m
3
/bể
- Máy tách đạm (fresh protein skimmer)
- Máy tạo khí Ozon (O
3
)
- Hệ thống đường ống và dây dẫn khí
- Hệ thống dường ống dẫn nước
- Hệ thống đèn tròn chiếu sáng
- Đá bọt sủi khí
- Máy nén khí
- Máy bơm
- Vợt
3.7.6. Các vật liệu khác

- Các loại hoá chất dung cho việc vệ sinh và xử lý nước hàng ngày: formol,
Chlorine, thuốc kháng sinh,…
- Kính hiển vi soi nổi với độ phóng đại quang học từ 10 – 100 lần
- Đĩa Petri nhựa và thuỷ tinh
- Môi trường TCBS
- Đèn cồn, que cấy
- Tủ ấm 37
0
C
- Cồn 70
0
và 99
0
,5
- Lọ nhựa để thu mẫu nước
3.8. Phương pháp nghiên cứu và bố trí thí nghiệm
Việc bố trí thí nghiệm được thực hiện trên hệ tuần hoàn với 20 bể ương trong
hệ thống. Chúng tôi thực hiện thí nghiệm để đánh giá hiệu quả của hệ lọc.
3.8.1. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm có 3 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức có 5 bể ương.
 Nghiệm thức 1: mật độ dưới 50 ấu trùng/lít
 Nghiệm thức 2: mật độ 50 – 100 ấu trùng/lít
 Nghiệm thức 3: mật độ trên 100 ấu trùng/lít
Thông qua kết quả có được của thí nghiệm trên cộng với khoả sát thêm của
chúng tôi trên 7 bể ương khác, chúng tôi tiến hành đánh giá biến động môi trường
nước ương dựa vào mật độ thả ấu trùng: <50 ấu trùng/lít, từ 50 – 100 ấu trùng/lít và
trên 100 ấu trùng/lít. Trong mỗi mật độ ương chúng tôi tiến hành phân nhóm các bể có
tỷ lệ sống khác nhau. Mỗi mật độ được phân thành 2 nhóm. Nhóm có tỷ lệ sống thấp
và nhóm có tỷ lệ sống cao.
Kết quả phân nhóm các nghiệm thức dựa vào tỷ lệ sống của thí nghiệm này

như sau:

Mật độ < 50
úng/l

Mật độ 50-100
Mật độ > 100
Nhóm 1: 0% (n=3 bể)
Nhóm 2: 11-25,2% (n=4 bể)
Nhóm 1: 0-2% (n=5 bể)
Nhóm 2: 5,8-21% (n=5 bể)
Không phân nhóm: 0% (n=4 bể)
Không phân nhóm: 21% (n=1 bể)

Hình 3.1: Sơ đồ bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm ở các mật độ ương khác nhau:
- mật độ ương <50 ấu trùng/lít
- mật độ ương từ 50-100 ấu trùng/lít
- mật độ cao hơn 100 ấu trùng/lít
Nguồn cấp và thoát
của hệ thống
- pH
- NH
3
-N
- NO
2

-


Vibrio

t
ổng số

Sự phát triển của ấu trùng
tôm
- Biến thái của ấu
trùng
- Tỷ lệ sống

Môi trường bể ương
- Nhiệt độ
- pH
- NH
3
-N
Đánh giá môi trường
đầu vào và đầu ra
của hệ lọc

Ảnh hưởng của môi
trường và tỷ lệ sống
lên biến thái của ấu
trùng
Đánh giá biến động
môi trường bể ương
Hiệu quả của hệ thống
sản xuất giống bằng
phương pháp lọc tuần

hoàn
Kết luận và đề xuất

3.8.2. Sơ đồ bố trí và vận hành hệ thống
3.8.2.1. Bố trí hệ thống lọc tuần hoàn
- Hệ thống lọc tuần hoàn gồm 20 bể 100 lít được bố trí như hình vẽ.
- Nước tuần hoàn ra từ các bể ương được chuyển vào một bể chứa 2 m
3
(NV)
và bơm vào trong hệ lọc (nước vào hệ lọc).
- Nước được qua bộ phận tách đạm fresh protein skimmer (Sm) và xử lý ozon
(O
3
), sau đó được qua bể có chứa than hoạt tính (Th) để khử lương Ozone
dư thừa.
- Nước được lọc qua 4 bể lọc san hô (L1, L2, L3, L4) dung tích 0,5 m
3
mỗi bể
đóng vai trò như một hệ lọc sinh học.
- Sau khi nước được lọc qua hệ thống san hô, một phần nước được cấp lại
cho bể ương, một phần được bơm trở lại bể chứa (NV) để duy trì sự hoạt
động liên tục của hệ lọc.
- Nguồn nước mới cũng được cấp thường xuyên vào hệ lọc để bù lượng nước
vệ sinh mất đi hàng ngày.


Chú thích:
Đường ống dẫn nước từ bể ương qua hệ lọc
Đường ống dẫn nước đã qua hệ lọc vào bể ương
Hình 3.2: Sơ đồ bố trí hệ lọc tuần hoàn và hệ thống bể ương

3.8.2.2. Cách vận hành hệ thống tuần hoàn
Nước được tuần hoàn từ bể ương qua hệ lọc làm sạch rồi cấp trở lại cho bể
ương.
Ấu trùng nhỏ hơn 5 ngày tuổi, bể không chạy tuần hoàn, thay nước 20%/ngày.
Sau 5 ngày tiến hành cho chạy tuần hoàn, thời gian chạy tuần hoàn khoảng 9 –
10 giờ sáng đến 3 – 4 giờ chiều (khoảng 45 giờ). Kết thúc chạy tuần hoàn khi tiến
hành làm vệ sinh bể ương.
3.8.3. Qui trình ương ấu trùng
L1
L2
L4
L3
NV
NR
Sm
Ozon
Th
Hệ thống bể ương

19
12
18 17 16 20
13 14 15 11
10

1
9 8 7 6
2 3 4 5
Hệ thống lọc
3.8.3.1. Chế độ dinh dưỡng

Ấu trùng còn nhỏ (<10 ngày tuổi) chỉ cho ăn Artemia 2 lần vào lúc 6 – 7 giờ
sáng, 5 – 6 giờ chiều, mật độ 5 Artemia/ml, ấu trùng lớn hơn (>10 ngày tuổi) cho ăn
thêm 3 lần thức ăn chế biến: 9 giờ, 11 giờ, 2 giờ.
Trứng Artemia được ấp trong 24 giờ bằng cách sục khí liên tục.
Thức ăn chế biến được phối chế từ nhiều loại nguyên liệu: thịt tôm, thịt mực,
dầu cá, trứng gà, các vitamin và khoáng chất. Xay nhuyễn hỗn hợp, hấp chín, phơi
khô và chà nhỏ thức ăn qua một tấm lưới có kích thước lỗ phù hợp với từng giai đoạn
của ấu trùng. Một ấu trùng cho một viên thức ăn chế biến.
3.8.3.2. Chế độ chăm sóc sức khoẻ ấu trùng
Thường xuyên theo dõi tình trạng sức khoẻ của ấu trùng, ngày 2 lần, phát hiện
các ấu trùng yếu để có chế độ chăm sóc khác hay loại chúng khỏi bể ương.
Kiểm tra dây sục khí, độ lớn của dòng khí. Những ngày mưa bão nhiệt độ
giảm, thắp thêm các đèn để tăng nhiệt độ nước trong bể ương.
Tiến hành siphone thức ăn thừa, tôm yếu ở đáy bể và vỏ Artemia ở thành bể
vào lúc chiều (khoảng 4 – 5 giờ chiều).
3.8.4. Phương pháp thu mẫu và phân tích số liệu
3.8.4.1. Thu mẫu và phân tích mẫu nước
a. Nhiệt độ
 Vị trí đo nhiệt độ: trong bể ương.
 Thời gian đo: 8 giờ sáng và 2 giờ chiều.
 Số lần đo: mỗi ngày 2 lần.
 Dụng cụ đo: dùng rượu kế treo ngâm vào trong bể nuôi.
b. pH
 Vị trí lấy mẫu: nước trong bể ương, nước đầu vào và đầu ra hệ
lọc.
 Thời gian lấy mẫu: 8 giờ sáng và 2 giờ chiều.
 Số lần lấy mẫu: mỗi ngày 2 lần
 Dụng cụ phân tích: máy đo pH Scanner
c. Ammonia (NH
3

-N)
 Vị trí lấy mẫu: nước trong bể ương, nước đầu vào và đầu ra hệ
lọc.
 Thời gian lấy mẫu: 2 giờ chiều
 Số lần lấy mẫu: 3 lần/tuần
 Dụng cụ phân tích: bộ test Zera cho kiểm tra NH
4
-
/NH
3
với bảng
so màu.
d. Nitrite (NO
2
-N)
 Vị trí lấy mẫu: nước trong bể ương, nước đầu vào và đầu ra hệ lọc.
 Thời gian lấy mẫu: 2 giờ chiều
 Số lần lấy mẫu: 3 lần/tuần.
 Dụng cụ phân tích: bộ test Zera cho kiểm tra NO
3
-
/NO
2
với bảng so
màu.
e. Vibrio tổng số
 Vị trí lấy mẫu: nước trong bể ương, nước đầu ra hệ lọc.
 Thời gian lấy mẫu: 1giờ 30 sau khi nước được tuần hoàn trở lại bể
khoảng 3 giờ.
 Số lần lấy mẫu: 2 lần/tuần vào thứ hai và thứ năm hàng tuần cho

đến khi thuần nước ngọt.
 Dụng cụ phân tích: mẫu được trãi đếm trên môi trường TCBS ở hai
độ pha loãng; 10
0
và 10
-1
ở hai thể tích cấy 50µl và 100µl mẫu.
3.8.4.2. Thu mẫu ấu trùng
 Chọn một số bể xem hình thái ấu trùng ở các hệ thống ương.
 Thời gian xem: 10 giờ sáng mỗi 2 ngày cho đến khi ấu trùng
chuyển thành hậu ấu trùng hoàn toàn.
 Số con xem: 20 ấu trùng/bể
 Tính chỉ số trung bình giai đoạn LSI (Larvae stage index) theo
Nguyễn Việt Thắng, 1993:
N
3n2n1n
LSI



với:
- n là số con xác định của từng giai đoạn.
- 1, 2, 3 giai đoạn phát triển
- N là tổng số con xem được.
3.8.4.3. Thu thập số liệu và phân tích
Số liệu thu thập được tiến hành phân tích và xử lý dựa vào phần mềm
Excel, dùng trắc nghiệm t bắt cặp (t-test paired two samples for mean) để so sánh các
chỉ tiêu trong các nghiệm thức.
Chương 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.5. Đánh giá biến động môi trường ở đầu vào và đầu ra của hệ thống lọc tuần

hoàn trong ương ấu trùng tôm càng xanh toàn đực
4.5.1. Độ pH nước đầu vào và đầu ra hệ lọc
So sánh chỉ số pH nước đầu vào và nước đầu ra của hệ lọc là khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p = 0,032 < 0,05).
Độ pH trung bình giữa nước đầu vào và nước đầu ra của hệ lọc lần lượt là 8,09
± 0,13; 8,05 ± 0,13.
Độ pH nước ra (là nước cấp trực tiếp vào bể nuôi) nằm trong ngưỡng thích hợp
của ấu trùng, theo đề xuất của New và Shingolka (1985) pH thích hợp cho tôm từ 7,0-
8,5.
Độ pH trung bình của nước đầu vào cao hơn nước đầu ra là do nước vào hệ lọc
là nước thải từ bể nuôi. Một số quá trình xảy ra trong bể ương như sự hoạt động của
ấu trùng, Artemia và chủ yếu là lượng thức ăn thừa và cặn ở đáy bể phân huỹ đã ảnh
hưởng đến pH trong bể ương (New và Valenti, 2000).
4.5.2. Biến động NH
3
-N đầu vào và đầu ra hệ lọc
0.2
0.1
0.2
0
0.05
0.1
0.15
0.2
0.25
Nước đầu
vào hệ lọc
Nước đầu ra
hệ lọc
Nước bể

ương
mg/lít
NH3-N

Biều đồ 1. So sánh chỉ tiêu NH
3
-N trung bình của nước đầu vào và đầu ra
hệ lọc với NH
3
-N trung bình trong bể ương
Tính toán của chúng tôi cho thấy sự khác biệt giữa hàm lượng NH
3
-N nước đầu
vào và đầu ra hệ lọc là rất có ý nghĩa thống kê học (p = 1,66x10
-28
<< 0,05).
Nước trong bể ương được thay hàng ngày bằng nước đầu ra của hệ lọc và nước
đầu vào hệ lọc phản ánh chất lượng nước trong bể ương, do nước đầu vào hệ lọc là
nước thải ra của tất cả các bể ương.
Lượng NH
3
-N đầu ra hệ lọc so với đầu vào hệ lọc cho biết hệ lọc có khả năng
xử lý NH
3
-N thể hiện cụ thể qua chỉ số NH
3
-N của nước đầu vào gấp 2 lần (0,2/0,1)
nước đầu ra của hệ lọc (biểu đồ 1).
Thực tế cho thấy lượng NH
3

-N trong bể cao hơn ngưỡng thích hợp, theo một số
tác giả New (2002) và Lee  Wickins (1992) lượng NH
3
-N trong ương nuôi ấu trùng
tôm càng xanh phải nhỏ hơn 0,1 mg/l.
Hệ lọc có khả năng xử lý được lượng NH
3
-N nhưng hiệu quả không cao, có thể
do vi sinh vật chuyển hóa ammonia thấp, thiếu một số chủng vi khuẩn hoặc hệ lọc đã
quá tải, sự hoạt động của Ozone kém hiệu quả. Và do đó khả năng xử lý NH
3
-N của
hệ lọc chưa xử lý hết lượng NH
3
-N để tạo một môi trường sống tốt cho ấu trùng.
4.5.3. Biến động NO
2
-N
1.93
0.044
0.32
0
0.5
1
1.5
2
2.5
Nước đầu vào hệ
lọc
Nước đầu ra hệ

lọc
Nước bể ương
mg/lít
NO2-N

Biểu đồ 2. So sánh chỉ tiêu NO
2
-N của nước đầu vào và đầu ra hệ lọc với
NO
2
-N trong bể ương
Chất lượng nước đầu ra hệ lọc có lượng NO
2
-N khá thấp (0,044 mg/lít) trong
khi đó lượng NO
2
-N này trong nước đầu vào hệ lọc lại ở mức rất cao (1,93 mg/lít).
So sánh thống kê về sự khác biệt giữa hàm lượng NO
2
-N nước đầu vào và đầu
ra hệ lọc là rất có ý nghĩa thống kê (p = 8,9x10
-17
<<0,05).
Do nước đầu vào hệ lọc chính là nước thải tập trung ở đáy của nhiều bể ương
(do thức ăn thừa và xác Artemia và ấu trùng chết làm chất lượng môi trường bị ô
nhiễm). Điều này cho thấy hàm lượng NO
2
-N trong các bể ương rất cao, sự hoạt động
của ozone cũng như hệ lọc chưa giải quyết được lượng NO
2

-N trong bể ương.
Theo New và Shingolka (1985) thì không nên lấy nước nuôi có lượng NO
2
-N
cao hơn 0,1 mg/lít. Hàm lượng NO
2
-N trong bể ương đã cao gấp 3,2 lần (0,32/0,1)
ngưỡng của New và Shingolka (1985). Thực tế cho thấy lượng NO
2
-N trong nước ra
hệ lọc có những ngày tăng đến 0,2 mg/lít (Phụ lục) là cao hơn so với đề nghị của New
và Shingolka (1985) đối với nguồn nước cấp vào bể ương.
Thêm nữa lượng NO
2
-N trung bình của nước đầu vào hệ lọc chính là nước thải
ra từ tầng đáy của các bể ương. Với mức NO
2
-N trung bình 1,93 mg/l là rất cao và
ngưỡng trên của ấu trùng đối với NO
2
-N theo một số tác giả Aquacop (1977, 1983),
Griessinger (1986), Liao và Mayo (1972) là 0,35 mg/l. Như vậy lượng NO
2
-N trung
bình ở đáy bể ương đã cao hơn ngưỡng sinh lý của ấu trùng 5,5 lần (1,93/0,35).
Chúng ta thấy rằng nếu có cơ hội trộn lẫn lượng NO
2
-N này vào bể ương sẽ
làm cho lượng NO
2

-N bể ương tăng cao đến mức nguy hiểm cho ấu trùng. Đó là
những lúc khi tiến hành làm vệ sinh đáy bể sẽ khuấy động đến lượng chất thải ở đáy.
Những lúc như thế này có lẽ sẽ làm cho ấu trùng dễ bị stress với lượng NO
2
-N trong
bể đột ngột tăng cao do lượng NO
2
-N trong bể cũng đã khá cao là 0,32 mg/l (biểu đồ
2).
Tuy nhiên, nhìn nhận từ khía cạnh làm giảm tác hại của NO
2
-N thì hệ lọc đã có
hiệu quả. Nếu so sánh lượng nước vào và ra hệ lọc thì sau khi qua hệ lọc NO
2
-N đã
giảm được 1,93/0,044 = 43,8 lần (phụ lục 4), tuy nhiên sự góp phần của hệ lọc chưa
tạo điều kiện tốt cho ấu trùng tôm càng xanh thể hiện qua việc chưa loại bỏ hết hàm
lượng NO
2
-N trong bể ương.
4.5.4. Biến động Vibrio
22812
3314
0
5000
10000
15000
20000
25000
Vibrio bể ương Nước đầu ra hệ lọc

Cfu/ml
Vibrio

Biểu đồ 3. So sánh hàm lượng Vibrio tổng số nước đầu ra hệ lọc với Vibrio tổng
số của bể ương
Qua kết quả khảo sát chất lượng Vibrio bằng cách nuôi cấy Vibrio trên môi
trường thạch TCBS. Kết quả cho thấy lượng Vibrio trong bể ương biến động rất lớn,
mật độ Vibrio trung bình trong bể là 22812 ± 24936 cfu/ml. Trong khi đó mật độ này
ở nước đầu ra hệ lọc (nước cấp vào bể) là 3314 ± 3989 cfu/ml (biểu đồ 3).
Theo tiêu chuẩn nghành (1995) của Bộ Thuỷ Sản đối với nước ương giống tôm
càng xanh thì mật độ Vibrio tổng số trong bể ương phải thấp hơn 1000 cfu/ml. Nước
đầu ra hệ lọc (là nước đầu vào bể ương) đã cao hơn tiêu chuẩn này 3,3 lần
(3314/1000).
Kết quả nghiên cứu của Hoa và ctv (2002) cho thấy ở mật độ Vibrio từ 10
5

10
7
cfu/ml ấu trùng tôm càng xanh chết 18 – 80% sau 48 giờ. Mức Vibrio trung bình
trong bể ương (22812  2,3x10
4
cfu/ml) tuy chưa đạt đến ngưỡng gây chết của Hoa
nhưng với mức Vibrio trung bình trong bể cao đả ảnh hưởng không nhỏ đến sức khoẻ
ấu trùng.
Nguyên nhân nước trong bể ương có mật độ Vibrio cao có thể là do môi trường
nước trong hệ lọc bị nhiễm Vibrio, hiệu quả của ozone cùng với sự hoạt động của
fresh protein skimmer không có khả năng diệt Vibrio được thể hiện qua chỉ tiêu Vibrio
của nước đầu ra cao.
 Nhật xét
Qua sự khảo sát biến động môi trường hệ lọc, chúng tôi có một số ghi nhận sau

đây:
- Độ pH nước đầu ra hệ lọc phù hợp dùng để ương ấu trùng tôm càng xanh.
- Lượng NH
3
-N, NO
2
-N nước đầu ra hệ lọc thấp hơn nước đầu vào hệ lọc (2 lần)
và (43,8 lần) cho thấy hệ lọc có khả năng xử lý được NH
3
-N và NO
2
-N.
 từ đó cho thấy hệ vi sinh vật trong hệ lọc và Ozone đã phát huy tác dụng tuy nhiên
việc xử lý NH
3
-N và NO
2
-N chưa mang lại một môi trường sống tốt cho ấu trùng.
Điều này cho thấy mức NO
2
-N và NH
3
-N trong bể ương đã vượt quá khả năng lọc của
vi sinh vật và khả năng khử NH
3
-N, NO
2
-N của Ozone.
- Có sự nhiễm Vibrio trong bể ương (hàm lượng trung bình 22812 cfu/ml) và
nước đầu ra hệ lọc (hàm lượng trung bình 3314 cfu/ml) chứng tỏ kỹ thuật quản lý

chưa tốt, nhất là kỹ thuật chăm sóc và cho ăn hàng ngày. Vibrio cao trong bể ương
chứng tỏ nước bể ương bị nhiễm bẩn và nước bể ương nhiễm bẩn là do thức ăn thừa
trong bể ương.
 Kỹ thuật quản lý chưa tốt.
4.6. Biến động các chỉ tiêu môi trường chính của bể ương ở các mật độ ương
khác nhau
4.6.1. Biến động nhiệt độ
Bảng 4.1. Giá trị p của trắc nghiệm t đối với nhiệt độ sáng (trên đường chéo) và
nhiệt độ chiều (dưới đường chéo) của các nghiệm thức trong thí nghiệm 1 (
0
C)
Các nghiệm thức Nghiệm thức 1 Nghiệm thức 2 Nghiệm thức 3
Nghiệm thức 1


1,25
(4)
±0,63
0,073
(30,16
(1)
±0,09;
30,34
(2)
±0,48)
0,019
(30,16
(1)
±0,09;
30,40

(3)
±0,52)
Nghiệm thức 2
0,250
(31,75
(1)
±0,49;
31,61
(2)
±0,48)


1,1
(4)
±0,55
0,642
(30,34
(2)
±0,48;
30,40
(3)
±0,52
Nghiệm thức 3
0,039
(31,75
(1)
±0,49;
31,79
(3)
±0,66)

0,195
(31,61
(2)
±0,48;
31,79
(3)
±0,66)


1,35
(4)
±0,48
Chú thích: (1) nhiệt độ trung bình nghiệm thức 1, (2) nhiêt độ trung bình nghiệm thức
2, (3) nhiệt độ trung bình nghiệm thức 3, (4) độ lệch trung bình nhiệt độ trong ngày.
Dao động nhiệt độ các nghiệm thức được trình bày trong bảng 4.1. So sánh sự
khác biệt về nhiệt độ sáng và chiều trong các nghiệm thức cho thấy phần lớn không có
sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê (p > 0,05) ngoại trừ nghiệm thức 1 và 3.
Sự không khác biệt nhiệt độ giữa các nghiệm thức là do các nghiệm thức cùng
được bố trí trong cùng một nhà giống nên ta thấy giá trị nhiệt trung bình cũng không
chênh lệch nhiều (bảng 4.1).
Thực tế cho thấy nghiệm thức 1 (mật độ ương thấp) thì việc duy trì mức nước
thấp trong bể để giảm thể tích khi cho ấu trùng ăn Artemia, tạo điều kiện cho ấu trùng
bắt mổi dễ dàng và cũng giảm chi phí Artemia nên đã làm cho mức nước trong bể
ương xa nguồn đèn tròn chiếu sáng nên đã làm cho nhiệt độ trung bình sáng nhỏ hơn
nghiệm thức 3 (30,40 so với 30,16 ở bảng 4.1).
Tuy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nghiệm thức 1 và 3 nhưng giá trị
nhiệt độ trung bình chênh lệch không đáng kể (30,4-30,16 = 0,24
0
C vào buổi sáng và
31,79-31,75 = 0,04

0
C vào buổi chiều).
Theo New và Valenti (2000) thì khoảng nhiệt độ tối ưu cho ấu trùng tôm càng
xanh là 26-31
0
C. Nhiệt độ ở các nghiệm thức đã vượt qua khỏi ngưỡng giới hạn của
hai tác giả trên là 31
0
C (trung bình vào buổi chiều cao trên 31,5
0
C ở bảng 4.1).
Theo New và Shingolka (1985) thì sự biến động nhiệt độ 1
0
C có thể làm chết
ấu trùng nếu sự biến động nhanh. Aquacop (1984) thì cho rằng nếu nhiệt độ bể ương
cao trên 30
0
C thì ấu trùng có tỷ lệ sống thấp. Sự biến động nhiệt độ trong ngày của các
nghiệm thức đều trên 1
0
C (bảng 4.1) và nhiệt độ cao trên 31,5
0
C (bảng 4.1) là không
tốt cho sự phát triển của ấu trùng.
Sư biến động của nhiệt độ có thể do dung tích bể ương nhỏ nên khi thời tiết
thay đổi kéo theo nhiệt độ bể ương thay đổi, tuy nhiên cấu trúc nhà giống cũng góp
phần đến sự biến động nhiệt độ trong bể ương, đó là cấu trúc vách bằng nilông hấp thụ
và giữ nhiệt, thực tế cho thấy nhiệt độ trong nhà giống luôn cao hơn nhiệt độ môi
trường ngoài.
4.6.2. Biến động pH

Bảng 4.2. Giá trị p của trắc nghiệm t đối với pH sáng (trên đường chéo) và pH
chiều (dưới đường chéo) của các nghiệm thức trong thí nghiệm 1
Các nghiệm thức Nghiệm thức 1 Nghiệm thức 2 Nghiệm thức 3
Nghiệm thức 1



0,201
(7,93
(1)
±0,09;
7,97
(2)
±0,12)
0,857
(7,93
(1)
±0,09;
7,94
(3)
±0,12)
Nghiệm thức 2
0,259
(7,96
(1)
±0,09;
7,98
(2)
±0,09)



0,304
(7,97
(2)
±0,12;
7,94
(3)
±0,12)
Nghiệm thức 3
0,781
(7,96
(1)
±0,09;
7,96
(3)
±0,10)
0,410
(7,98
(2)
±0,09;
7,96
(3)
±0,10)


Ghi chú: (1) pH trung bình nghiệm thức 1, (2) pH trung bình nghiệm thức 2, (3) pH
trung bình nghiệm thức 3
Ở các nghiệm thức sự khác biệt pH trong bể ương không có ý nghĩa thống kê (p
> 0,05) (bảng 4.2).
Theo New (2002) khoảng pH tối ưu cho ấu trùng dao động từ 7,0-8,5. Khoảng

dao động pH trong bể ương từ 7,4-8,5 (phụ lục) là nằm trong khoảng đề nghị của
New.
4.6.3. Biến động NH
3
-N
Bảng 4.3. Giá trị p (in nghiêng) và giá trị trung bình (gạch dưới) của trắc nghiệm
t đối với NH
3
-N giữa các nghiệm thức trong thí nghiệm 2 (mg/l)
Các nghiệm thức Nghiệm thức 1 Nghiệm thức 2 Nghiệm thức 3
Nghiệm thức1 0,284±0,105 0,48 0,75
Nghiệm thức 2 0,259±0,130 0,67
Nghiệm thức 3 0,274±0,125
Mức NH
3
-N tối ưu cho ương nuôi ấu trùng tôm càng xanh theo New (2002),
Lee và Wickins (1992) thì không được cao hơn 0,1 mg/l. Theo thực tế cho thấy lượng
NH
3
-N trung bình của các nghiệm thức đã cao hơn mức đề nghị của 2 tác giả trên
(0,284; 0,259; 0,67 lần lượt đối với nghiệm thức 1, 2 và 3 ở bảng 4.3) và như vậy
NH
3
-N trong 3 nghiệm thức đã có ảnh hưởng tới sức khoẻ của ấu trùng thể hiện cụ thể
qua tỷ lệ sống của 3 nghiệm thức đều chưa cao (biểu đồ 5).
Mức NH
3
-N cao trong bể ương một phần do hiệu quả xứ lý yếu của hệ lọc và
khi nước ra từ hệ lọc cấp vào bể ương đã có một lượng NH
3

-N (0,1 mg/l) cộng với sự
trao đổi chất trong quá trình hoạt động của ấu trùng, Artemia, thức ăn dư thừa đã làm
cho NH
3
-N bể ương cao.
 Nhận xét
Qua sự khảo sát các yếu tố môi trường chính của các mật độ nuôi khác nhau
chúng tôi có một số ghi nhận như sau:
- Nhiệt độ trung bình vào buổi chiều của các nghiệm thức khá lớn (trên 31
0
C) và
nhiệt độ lệch trung bình trong ngày cao trên 1
0
C chưa tốt cho sự phát triển của ấu
trùng. Khi đó mức pH trung bình trong các nghiệm thức lại rất thích hợp với ngưỡng
sinh lý của ấu trùng

×