Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Giáo trình hình thành những giải pháp đẩy mạnh nền kinh tế xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU p4 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.23 KB, 11 trang )

+ Vốn huy động: 15.610.000 triệu đồng (chiếm 44%).
+ Vốn tín dụng: 11.710.000 triệu đồng (chiếm 33%).
+ Vốn ngân sách: 4.610.000 triệu đồng (chiếm 13%).
+ Vốn liên doanh với nước ngoài: 3.660.000 triệu đồng (chiếm
10%).
Cơ cấu đầu tư giai đoạn 1999-2010 được chia theo lĩnh vực như
sau:
- Nuôi trồng thủy sản: 9.580 tỷ đồng, chiếm 27%.
-Khai thác hải sản: 10.200 tỷ đồng, chiếm 28,75%.
-Chế biến thủy sản: 9.580 tỷ đồng, chiếm 27%.
-Hạ tầng dịch vụ: 5680 tỷ đồng, chiếm 16%.
-Nghiên cứu khoa học: 300 tỷ đồng, chiếm 0,85%.
-Đào tạo, giáo dục: 88 tỷ đồng, chiếm 0,25%.
-Các lĩnh vực khác: 62 tỷ đồng, chiếm 0,15%.
Qua xem xét, phân tích nguồn vốn đầu tư của ngành thủy sản
của các giai đoạn, ta nhận thấy rằng: muốn đạt được các mục tiêu đặt
ra và hội nhập với nghề cá thế giới, sự huy động nguồn lực trong nước
là cơ bản, nhưng sự giúp đỡ của quốc tế là không thể thiếu và rất quan
trọng. Trong nguồn lực quốc tế, về chỉ đạo chúng ta cần khơi thông
nguồn FDI, sao cho tỷ trọng này ngày càng cao, giá trị ngày càng lớn
và tạo sự phối hợp chặt chẽ giữa 2 nguồn FDI và ODA để bổ sung, hỗ
trợ lẫn nhau.
3. Chính sách về khai thác thủy sản
Tới nay, tổng sản lượng thủy sản của cả nước đã vượt qua mức 1
triệu tấn/ năm, song cũng để lại một vùng biển cạn kiệt nguồn lợi,
năng suất đánh bắt giảm 1/2, giá thàng sản phẩm tăng gấp đôi. Tuy
phát triển nghề cá xa bờ để bảo vệ nguồn lợi ven biển và tăng chất
lượng sản phẩm nhưng lại chưa triển khai đồng bộ, hiệu quả còn thấp.
Hơn 10 năm qua, ngành khai thác hải sản Việt Nam đã tăng
trưởng với nhịp độ khá cao về tổng sản lượng, đạt hơn 1 triệu tấn/ năm
(riêng năm 1998, sản lượng khai thác hải sản đạt 1,13 triệu tấn , bằng


170% năm 1988).
Từ khi có Nghị định số 13/CP của Chính phủ (ký ngày
02/3/1993), tiếp đến là Thông tư liên bộ số 02 LB/TT hướng dẫn thi
hành Nghị định số 13/CP cho thấy công tác khuyến ngư đã tác động
rất hiệu quả đến phong trào nuôi trồng, khai thác và sơ chế bảo quản
thủy sản. Vì trước hết, khuyến ngư là chủ trương đúng đắn, hợp với
điều kiện hiện nay của các ngư dân và rất được đông đảo ngư dân ủng
hộ, hưởng ứng. So với lĩnh vực khai thác và sơ chế bảo quản thủy sản
thì hiệu quả của khuyến ngư trong nuôi trồng đa dạng và phong phú
hơn, nhờ có hoạt động khuyến ngư mà diện tích và năng suất tăng lên
đáng kể. Từ các loại cá thông thường đến các loại đặc sản có giá trị
kinh tế cao ngày càng được phát triển mạnh. Có thể nói Nghị định
13/CP của Chính phủ đã khơi dậy tiềm năng của cả miền biển, đồng
bằng và miền núi. Trong những năm qua, Nghị định 13/CP đã đi sâu
vào thực tiễn và có tác dụng đối với việc phát triển sản xuất thủy sản
của đất nước. Tuy nhiên, qua thực hiện Nghị định này còn bộc lộ
những hạn chế cả về lý luận lẫn thực tiễn. Chính vì vậy mà cần có sự
hoàn thiện và điều chỉnh Nghị định này theo tinh thần tập trung kinh
phí cho những vùng khai thác, sản xuất thủy sản có giá trị kinh tế cao.
Đối với việc đánh bắt xa bờ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 400/ Ttg ngày 7/8/1993 cho miến thuế tài nguyên, thuế
doanh thu, thuế lợi tức và hoàn thuế xuất khẩu trong 3 năm đầu đối
với tàu thuyền đánh bắt hải sản xuất khẩu ở Biển Đông Trường Sa.
Chính sách ưu đãi trên đã có tác dụng tích cực thúc đẩy sự phát
triển nghề cá khai thác xa bờ, góp phần bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của
Tổ quốc. Đồng thời, cũng hạn chế việc đánh bắt hải sản gần bờ khi mà
nguồn hải sản gần bờ đang bị cạn kiệt.
Đầu năm 1997, Chính phủ đã chỉ đạo ngành thủy sản thực hiện
chương trình đánh cá xa bờ. Đến hết năm 1998, cả nước đã có trên
300 tàu công suất lớn (90-350 CV) đưa vào sử dụng, năng lực khai

thác xa bờ đã có bước chuyển biến đáng kể. Nhưng theo đó lại nổi lên
nhiều vấn đề về ngư trường và dự báo khai thác vùng khơi, trình độ sử
dụng tàu lớn của thuyền trưởng, chế biến và tiêu thụ sản phẩm khai
thác được, nhất là khâu tiêu thụ sản phẩm. Điều đáng lo ngại là chỉ có
khoảng 20% sản lượng khai thác xa bờ có thể dùng để xuất khẩu. Còn
lại 80% dùng tiêu thụ nội địa hay làm bột cá, phơi khô và làm nước
mắm. Cá đánh được nhiều mà bán giá lại rẻ và khó bán thì hiệu quả
thấp. Lại chưa có cơ quan dự báo ngư trường và khai thác ngắn hạn để
hướng dẫn các tàu đi đánh bắt cá xa bờ đi đến đúng nơi có cá mà
đánh. Trình độ các thuyền trưởng non yếu, sử dụng tàu lớn và máy
móc khá hiện đại sẽ gây ra những sự cố hỏng hóc. Nhất là vào thời vụ
chính, cá về nhiều lại không có kho lạnh dự trữ hải sản, điều kiện trên
tàu bảo quản kém, bến bãi thiếu càng làm cho sản lượng bị thất thoát
nhiều và giá hạ hơn.
Rõ ràng là có nhiều vấn đề đang đặt ra để bảo đảm cho việc đầu
tư đóng tàu khai thác hải sản xa bờ có hiệu quả. Đó không phải là việc
một sớm, một chiều có thể giải quyết được .
Tóm lại, chương trình đánh bắt hải sản xa bờ không chỉ là việc
đóng tàu đi khơi, mà nó là dây chuyền đồng bộ từ khai thác, bảo quản,
chế biến và tiêu thụ sản phẩm thật tốt.
4. Vấn đề đảm bảo chất lượng thủy sản chế biến cho xuất khẩu
Để đảm bảo an toàn vệ sinh và chất lượng hàng thủy sản xuất
khẩu, tháng 6/1995, Bộ Thủy sản đã ban hành Chỉ thị số
13/CT/KHCN. Tuy nhiên, trong thời gian qua những hiện tượng tạp
chất vào hàng thủy sản xuất khẩu vẫn có chiều hướng gia tăng do một
số doanh nghiệp thiếu nguồn hàng vì chỉ nghĩ đến lợi nhuận vẫn mua
hàng có cho thêm tạp chất về chế biến, làm thiệt hại cho người tiêu
dùng trong nước, làm giảm uy tín của sản phẩm thủy sản Việt Nam
trên thị trường thế giới. Và chính vì một trong những nguyên nhân
như vậy, mà hàng thủy sản Việt Nam có nguy cơ bị mất dần, đặc biệt

là thị trường tôm nguyên liệu, trước tình hình cạnh tranh gay gắt với
các nước trong khu vực.
Theo dự báo của các chuyên gia, nhu cầu trên thế giới đối với
nhiều loại sản phẩm thủy sản mà Việt Nam có khả năng sản xuất đang
và sẽ tăng lên mạnh chủ yếu theo các hướng: sản phẩm giá trị cao; sản
phẩm ăn liền đóng gói nhỏ và các loại thủy sản tưới sống. Tuy nhiên,
thị trường xuất khẩu cũng đặt ra những thách thức mới, nhất là các qui
định về an toàn vệ sinh thực phẩm; yêu cầu chất lượng tiêu dùng ngày
càng cao hơn và những yêu cầu, qui định này cũng khác nhau ở từng
thị trường. Thực tiễn đòi hỏi ta phải chủ động nắm bắt và đáp ứng
những qui định này một cách linh hoạt, nếu muốn mở rộng thị trường
xuất khẩu.
Theo Trung tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh thủy sản
(NAFIQACEN) thì: EU và Mỹ là những thị trường đòi hỏi tiêu chuẩn
chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm thủy sản rất cao.
Đối với EU, việc kiểm soát phải được thực hiện dưới sự giám sát
của chính họ mới có giá trị và được công nhận. Để xuất khẩu thủy sản
vào thị trường EU, các nước phải có đủ ba điều kiện sau:
 Xây dựng hệ thống pháp luật hữu hiệu về kiểm soát chất
lượng, an toàn vệ sinh thủy sản tương đương với EU.
 Có cơ quan kiểm soát an toàn vệ sinh cấp quốc gia
tương đương EU về tổ chức, trang thiết bị kiểm soát (ở Việt
Nam, cơ quan này là NAFIQACEN).
 Các doanh nghiệp ở nước xuất khẩu phải tương đương
về điều kiện sản xuất, quản lý chất lượng với các doanh nghiệp
sản xuất những sản phẩm cùng loại của EU.
Số doanh nghiệp Việt Nam hội tụ đủ ba điều kiện trên chỉ có
33/186 doanh nghiệp được EU công nhận đủ tiêu chuẩn hàng thủy sản
vào thị trường của họ. Các doanh nghiệp này đã phải nâng cấp điều
kiện sản xuất bao gồm: nhà xưởng, dây chuyền công nghệ, các trang

thiết bị đi kèm; áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn
GMP (Giấy chứng nhận về tập quán sản xuất tốt áp dụng từ tháng
7/1997) và HACCP (Hệ thống quản lý an toàn thực phẩm, tập trung
vào việc phòng ngừa các mối nguy hại đã biết và nguy cơ xảy ra
chúng ở một số điểm đặc biệt trên dây chuyền sản xuất thực phẩm).
Hiện nay, không chỉ thị trường Mỹ mà EU cũng chỉ chấp nhận mua
sản phẩm từ những cơ sở chế biến có áp dụng HACCP. Áp dụng GMP
và HACCP có nghĩa là thực hiện an toàn vệ sinh thủy sản từ nuôi
trồng-đánh bắt-chế biến, để cho ra sản phẩm đạt các chỉ tiêu đặc trưng
cho chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm.
Hiện nay, EU đánh giá chất lượng sản phẩm thủy sản theo 3 chỉ
tiêu sau:
-Chỉ tiêu cảm quan: trạng thái tự nhiên, mùi vị, màu sắc của sản
phẩm.
-Chỉ tiêu hóa học: qui định hàm lượng Nitơ dưới dạng Amôniắc,
độ pH trong một gam sản phẩm.
-Chỉ tiêu vi sinh: qui định loại, lượng khuẩn có trong sản phẩm
như khuẩn hóa khí, khuẩn hiếm khí, khuẩn Ecôli, Coliforime
Trong thời gian vừa qua, Bộ Thủy sản đã xây dựng và ban hành
hàng loạt tiêu chuẩn trong quản lý chất lượng, đó là tiêu chuẩn về Cơ
sở chế biến thủy sản, về Chương trình quản lý chất lượng và an toàn
thực phẩm theo HACCP và các tiêu chuẩn đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm trong các cơ sở sản xuất kinh doanh.
Với sự cố gắng và nỗ lực không ngừng của ngành thủy sản
trong việc vệ sinh an toàn thủy sản cho xuất khẩu, ngày 20/10/1999,
Ủy ban Thú y thường trực của EU đã bỏ phiếu nhất trí đưa Việt Nam
vào danh sách 1 được phép xuất khẩu vào EU ở cấp liên minh và ngày
16/11/1999, Cộng đồng Châu Âu (EC) đã phê chuẩn 18/33 doanh
nghiệp nói trên được xuất khẩu ở cấp liên minh vào EU. Tính đến nay
cả nước có 60 cơ sở áp dụng HACCP và 33 cơ sở đủ tiêu chuẩn xuất

khẩu vào EU. Tuy nhiên, số doanh nghiệp này vẫn còn quá ít, nếu
muốn đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản đòi hỏi các doanh nghiệp phải đầu
tư, đổi mới theo tiêu chuẩn chất lượng GMP và HACCP, đảm bảo vệ
sinh an toàn thủy sản xuất khẩu.
Bên cạnh những việc làm được, công tác quản lý chất lượng và
an toàn vệ sinh thực phẩm thủy sản còn nhiều tồn tại: Hệ thống văn
bản pháp qui của Nhà nước, của Bộ chưa đầy đủ, đồng bộ và còn
chồng chéo; tổ chức quản lý Nhà nước về chất lượng chưa hoàn chỉnh,
đặc biệt ở các địa phương; việc quản lý điều kiện đảm bảo an toàn vệ
sinh thực phẩm thủy sản chưa được thực hiện ở các công đoạn: nuôi
trồng, đánh bắt, thu hoạch, vận chuyển và các khâu khác của dây
chuyền sản xuất thủy sản
IV. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
THỦY SẢN SANG EU TRONG NHỮNG NĂM QUA
1. Những thành tựu đạt được
Việt Nam hiện là nước thứ 29 trên thế giới, đứng thứ 4 trong
khối ASEAN về xuất khẩu thủy sản và mặt hàng thủy sản của Việt
Nam hiện đã xuất khẩu được sang hơn 50 nước và khu vực.
Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU trong
những năm qua đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, cụ thể là :
 Kim ngạch xuất khẩu thủy sản không ngừng tăng lên
qua các năm, từ mức chỉ chiếm tỷ trọng dưới 10% trong tổng giá
trị xuất khẩu thủy sản (năm 1997) thì nay tỷ trọng này đã tăng
lên rất đáng kể (11,3% vào năm 1998).
 Thủy sản của Việt Nam đã và đang được ưa chuộng ở
khắp các thị trường, trong đó có EU. Thủy sản Việt Nam đã
khẳng định được vị trí của mình trên thị trường này ngày một
mạnh mẽ, trở nên quen thuộc đối với người tiêu dùng EU.
 Thị phần xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào EU đã tăng
lên rất đáng kể, từ mức 11% năm 1997 lên 18% năm 1998 trong

tổng kim ngạch xuất khẩu.
 EU luôn là một trong 3 thị trường hàng đầu của thủy sản
Việt Nam, luôn đứng vị trí thứ 2 sau Nhật Bản trong việc nhập
khẩu thủy sản Việt Nam trong những năm qua.
 Các sản phẩm thủy sản của Việt Nam như: tôm, nhuyễn
thể chân đầu, cá đáy, cá nước ngọt thịt trắng ít xương; các sản
phẩm truyền thống như: nước mắm, bánh phồng tôm, cua, ghẹ,
tôm và đặc biệt là tôm sú đã đang và sẽ có sức cạnh tranh rất cao
trong EU trong thời gian tới.
 Xuất khẩu thủy sản sang EU nói riêng hay ra các thị
trường trên thế giới trong những năm qua đã đóng góp không
nhỏ trong việc tăng thu ngoại tệ cho đất nước, phục vụ công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đồng thời xuất khẩu thủy
sản nói chung đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hàng
triệu lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định đời sống
cho nhiều vùng nông thôn ven biển.
 Đã đạt được sự ưu đãi về thuế của EU: theo qui chế mới
của EU bắt đầu từ tháng 7/1999 đến tháng 12/2000 thì hàng thủy
sản đông lạnh của Việt Nam thuộc nhóm hàng khuyến khích
nhập khẩu nên sẽ được hưởng mức thuế bằng 35% mức thuế
Tối huệ quốc.
 Ủy ban Thú y thường trực của EU đã bỏ phiếu nhất trí
đưa Việt Nam vào danh sách 1(ngày 20/10/1999) được phép
xuất khẩu thủy sản vào EU ở cấp liên minh và ngày 16/11/1999
EU đã chấp thuận 18/33 doanh nghiệp đã kiểm tra đủ điều kiện.
Cũng theo quyết định này, tổ chức của Việt Nam có thẩm quyền
trong việc chứng nhận chất lượng, điều kiện vệ sinh an toàn thực
phẩm của các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản là Trung tâm
kiểm tra chất lượng và vệ sinh thủy sản (NAFIQACEN). Điều
này khẳng định uy tín của các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản

Việt Nam, uy tín về chất lượng của các mặt hàng thủy sản và uy
tín của NAFIQACEN trên trường quốc tế. Đến nay, Việt Nam
đang có 29 doanh nghiệp được phép xuất khẩu thủy sản vào EU.
Các doanh nghiệp còn lại muốn xuất khẩu sang EU, không còn
con đường nào khác ngoài việc phải thực hiện nghiêm ngặt các
yêu cầu về an toàn vệ sinh theo tiêu chuẩn của EU.
 Ngày 10/5/2000, Ủy ban Châu Âu đã ra quyết định cho
phép Việt Nam xuất khẩu nhuyễn thể hai mảnh vỏ, loài da gai,
loài có vỏ và chân bụng biển từ Việt Nam. Việc được vào nhóm
1 các nước xuất khẩu nhuyễn thể sang EU sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam.
 Được sự hỗ trợ của dự án SEAQIP nhằm giúp đỡ các
nhà máy thủy sản đông lạnh đạt tiêu chuẩn HACCP là giấy
thông hành vào EU.
 Việt Nam đã mở gian hàng thủy sản đầu tiên tại Hội chợ
thủy sản quốc tế Bruc-xen với sự tham gia của 11 doanh nghiệp.
 Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam mặc
dù mới thành lập nhưng đã có đóng góp tích cực trong việc mở
rộng thị trường, tăng khả năng cạnh tranh của hàng thủy sản Việt
Nam trên thị trường thế giới.
 Nhiều nhà máy chế biến thủy sản đã đầu tư theo chiều
sâu, nâng cấp điều kiện sản xuất, thực hiện quản lý chất lượng
theo HACCP, nên hiện nay đã có 60 cơ sở áp dụng HACCP và
33 cơ sở chế biến đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào EU.
2. Những khó khăn, tồn tại cần khắc phục
Bên cạnh những thành tựu to lớn mà xuất khẩu thủy sản sang
EU đạt được trong những năm qua, không phải là tất cả đều thuận lợi,
vẫn còn những khó khăn, những vướng mắc đang tồn tại đòi hỏi được
khắc phục càng sớm càng tốt, cụ thể là:
 Hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang EU phần lớn là

thông qua các công ty của ASEAN như Singapore, Thái lan và
Hồng Kông.
 Chủng loại sản phẩm thủy sản xuất khẩu chủ yếu là tôm,
mực đông lạnh sơ chế, tỷ lệ sản phẩm có giá trị cao gia tăng thấp
chủ yếu là xuất nguyên liệu.
 Cơ cấu sản phẩm thủy sản xuất khẩu vào EU cũng như
vào các thị trường khác có sự mất cân đối (hơn 90% là dạng sản
phẩm tươi, ướp đông, đông lạnh). Điều này làm mất lợi thế cạnh
tranh của thủy sản nước ta, cũng như sự yếu kém của công nghệ
chế biến thủy sản.
 Giá cả sản phẩm xuất khẩu nhìn chung là thấp (chỉ bằng
khoảng 70% mức giá sản phẩm cùng loại của Thái Lan và
Inđônêxia) nhưng vẫn không cạnh tranh nổi với hàng của các
nước xuất khẩu khác.
 Số lượng doanh nghiệp được xuất khẩu thủy sản sang
EU và số doanh nghiệp thực hiện theo tiêu chuẩn GMP và
HACCP còn quá ít.Vẫn còn hàng trăm doanh nghiệp chưa đổi
mới được công nghệ, cải thiện điều kiện sản xuất và nâng cao
chất lượng sản phẩm, chưa được các đoàn thanh tra của Châu Âu
chấp nhận. Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản vẫn còn biết
rất ít thông tin về thị trường EU.
 Nhiều doanh nghiệp chế biến không có khả năng tài
chính để thay đổi công nghệ và các điều kiện tiêu chuẩn theo
GMP và HACCP, để có thể chế biến sản phẩm thủy sản xuất
khẩu sang EU.
 Giữa các doanh nghiệp xuất khẩu đã không có được sự
cạnh tranh lành mạnh, làm suy yếu sức cạnh tranh của hàng thủy
sản Việt Nam khi sang thị trường EU nói riêng, cũng như sang
tất cả các thị trường khác.
 Nguồn nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu còn bị thiếu

trầm trọng, các nhà máy chế biến mới chỉ sử dụng hết 60-70%
công suất, nguồn nguyên liệu phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên,
do đó ảnh hưởng đến sản phẩm chế biến cho xuất khẩu.
 Hàng thủy sản của Việt Nam vào EU, bên cạnh những
yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh thực phẩm, mã số nhập
khẩu (Code) , thuế nhập khẩu hàng thủy sản của Việt Nam vào
EU còn cao hơn một số nước. Thuế suất EU đang áp dụng cho
Việt Nam là 6%, trong khi đó Bănglađét là 0% và Ấn Độ chỉ
khoảng 3%. Điều này đã làm giảm sức cạnh tranh của hàng thủy
sản Việt Nam trong thị trường EU.
 Trình độ khoa học công nghệ và cơ sở hạ tầng yếu kém,
thiếu kinh nghiệm trong quản lý khiến cho lợi thế so sánh trong
xuất khẩu thủy sản không đạt được hiệu quả mong muốn vì quá
thấp.
 Cơ sở hạ tầng nghề cá còn yếu kém nên không đáp ứng
được nhu cầu tổ chức bảo quản sau thu hoạch, số lượng tàu
thuyền nhỏ dưới 90 CV còn chiếm tỷ trọng cao từ 65-70%.
 Mối quan hệ hữu cơ giữa khai thác, nuôi trồng, chế biến
và tiêu thụ chưa được liên kết chặt chẽ để tạo một chiến lược sản
phẩm xuyên suốt qua tất các khâu. Các doanh nghiệp chế biến
chưa coi việc góp phần thúc đẩy sản xuất nguyên liệu là trách
nhiệm của mình.
 Chưa có được một kế hoạch và chương trình tổng thể
xúc tiến hàng thủy sản Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt là ở EU.









CHƯƠNG III
NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU THỦY
SẢN CỦA VIỆT NAM SANG EU TRONG NHỮNG NĂM TỚI


I. CHỦ TRƯƠNG, ĐƯỜNG LỐI CỦA NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT
ĐỘNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN TRONG NHỮNG NĂM TỚI
1.Những quan điểm và định hướng phát triển xuất khẩu thủy sản
1.1. Quan điểm
Thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nghề
cá với môi trường kinh tế mở, tích cực và chủ động trong xu thế hòa
nhập quốc tế, lấy xuất khẩu thủy sản là mũi nhọn, tiếp tục chuyển đổi
cơ cấu nghiêng về xuất khẩu, vừa khai thác tiềm năng nguồn lợi có
hiệu quả, vừa quản lý bảo vệ môi trường, phát triển tái tạo nguồn lợi
để duy trì tốc độ tăng trưởng cao của kinh tế thủy sản, tạo khả năng
tích lũy nhanh chóng trong nội bộ ngành, đồng thời đóng góp ngày
càng nhiều hơn cho nền kinh tế quốc dân.
Phát triển kinh tế thủy sản theo tuyến, theo vùng sinh thái nhằm
phát huy lợi thế đặc thù, tạo thành hệ thống liên hoàn giữa các khâu
khai thác-nuôi trồng-chế biến-tiêu thụ- cơ khí hậu cần dịch vụ, với sự
phối hợp liên ngành, giữa kinh tế Trung ương với kinh tế địa phương
theo một quy hoạch thống nhất, bảo đảm phát triển ổn định, bền vững.
Huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước, mọi thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước cùng kinh tế tập thể giữ vai trò nền
tảng. Khuyến khích các chủ vựa, chủ thuyền, chủ trang trại, chủ hộ
mạnh dạn bỏ vốn đầu tư sản xuất kinh doanh nghề cá, đưa nghề cá
nhân dân phát triển trên cơ sở một nền công nghệ tiên tiến, hiện đại.
Phát triển kinh tế thủy sản gắn liền với xây dựng cơ sở vật chất

kỹ thuật hạ tầng và giải quyết các vấn đề xã hội nông thôn ven biển,
hải đảo, tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống nhân
dân, năng cao dân trí, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, giữ vững trật
tự xã hội, xây dựng các làng cá văn minh, giàu đẹp.
Phát triển kinh tế- xã hội thủy sản gắn kết với yêu cầu an ninh và
quốc phòng kết hợp với các chương trình phát triển kinh tế biển và hải
đảo; tạo ra những cơ sở hậu cần dịch vụ thuận lợi cho nhân dân sản
xuất an toàn, phòng tránh thiên tai.
Không ngừng tăng phần đóng góp của ngành thủy sản vào công
cuộc phát triển kinh tế xã hội đất nước. Tăng cường khả năng thu
ngoại tệ cho đất nước, đáp ứng ngày càng nhiều mặt hàng thủy sản
phong phú cho nhu cầu thủy sản nội địa góp phần đảm bảo an toàn
thực phẩm.
1.2. Các định hướng cho từng lĩnh vực
Hợp lý hóa khai thác thủy sản, bao gồm phát triển có hiệu quả
khai thác hải sản xa bờ và điều chỉnh hợp lý nghề cá ven bờ; vừa khai
thác, vừa bảo vệ, phát triển và tái tạo nguồn lợi, đảm bảo phát triển
nghề cá ổn định, bền vững. Mở rộng hợp tác với nước ngoài để du
nhập công nghệ mới, thúc đẩy khai thác hải sản xa bờ và tiến tới nghề
cá viễn dương. Xây dựng đồng bộ ngành công nghiệp khai thác hải
sản (đội tàu, bến, cảng cá, cơ khí đóng, sửa chữa tàu thuyền, dệt lưới,
dịch vụ hậu cần an toàn trên biển ), trong mối quan hệ thống nhất với
các lĩnh vực khác, các ngành nghề khác.
Đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản là một hướng phát triển chiến
lược; tạo ra bước ngoặt lớn trong lĩnh vực nuôi trồng, đặc biệt là nuôi
biển. Xây dựng các vùng nuôi công nghiệp tập trung ở những vùng
điều kiện sinh thái cho phép; đồng thời mở rộng diện tích mặt nước
nuôi trồng thủy sản ở các vùng eo, vụng, vịnh ven biển, các vùng còn
hoang hóa, vùng sâu, vùng xa, ruộng trũng Tập trung mọi lực lượng
nghiên cứu và du nhập công nghệ mới tạo được bộ giống nuôi thủy

sản có chất lượng cao.
Phát triển công nghiệp chế biến theo hướng chiến lược sản phẩm
và định hướng thị trường, gia tăng giá trị thương mại. Khai thác và sử
dụng tối ưu nguồn nguyên liệu (kể cả nguyên liệu nhập khẩu), hết sức
coi trọng công nghệ bảo quản sau thu hoạch. Quy hoạch lại và nâng

×