Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản sang thị trường EU từ nay đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.17 KB, 33 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Với xu thế toàn cầu hoá hiên nay, chuyển từ đối đầu sang đối thoại
thì thương mại quốc tế đóng một vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển
kinh tế của mỗi quốc gia trên thế giới trong đó hoạt động xuất khẩu đóng
vai trò quan trọng trong hoạt động thương mại. Với một nước mà ngành
nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong GDP như Việt Nam thì xuất khẩu
nông sản là một hướng đi đúng đắn. Nhận biết được điểm mạnh này, ngành
nông nghiệp nước ta đã nỗ lực hết sức để chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật
nuôi sao cho phù hợp với nhu cầu của thế giới về mặt hàng nông sản.
Việt Nam đang trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước
việc xuất khẩu các mặt hàng chủ lực nói chung và nông sản nói chung để
phục vụ cho mục tiêu lớn đó. EU là một thị trương lớn và đầy tiềm năng
cho mặt hàng nông sản của Việt Nam, nhu cầu tiêu thụ nông sản của EU rất
lớn. Nắm bắt được điều này những thuận lợi này Việt Nam đã đẩy mạnh
đầu tư xuất khẩu mặt hàng nông sản sang thị trường EU. Tuy nhiên chúng
ta cũng gặp không ít khó khăn trong việc xuất khẩu nông sản sang thị
trường EU. Vì vậy, để hoạt động xuất khẩu nông sản sang thị trường EU có
hiệu quả và khuyến khích các chủ thể kinh tế đẩy mạnh xuất khẩu sang thị
trường này cần có một phương hướng xuất khẩu nông sản sang thị trường
EU.
Phương hướng xuất khẩu nông sản sẽ quyết định hướng cho việc dự
đoán cơ hội và nguy cơ có thể xảy ra nhằm cung cấp thông tin hữu ích cho
chu thể xuất khẩu.
Với những lý do trên và kết hợp với nhưng gì đã được học em đã lựa
chọn đề tài “Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản sang thị
trường EU từ nay đến năm 2010 ”
1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA XUẤT NHẬP KHẨU
HÀNG HOÁ
I. Khái niệm và vai trò của xuất nhập khẩu.
1. Khái niệm


Kinh tế đối ngoại là một lĩnh vực phong phú và đa dạng của nền kinh
tế quốc dân, thể hiện phần tham gia của nền kinh tế cảu mỗi quốc gia vào
sự phân công lao động quốc tế, sự trao đổi mậu dịch quốc tế. Lĩnh vực kinh
tế đối ngoại được hình thành trên cơ sở sự phát triển của các mối quan hệ
kinh tế đối ngoại. Các mối quan hệ kinh tế đối ngoại là một bộ phận của
các mối quan hệ kinh tế quốc tế với chủ thể là một quốc gia nhất dịnh trong
mối quan hệ với các quốc gia còn lại khác và các tổ chức kinh tế quốc tế.
Văn kiện hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành trung ương Đảng cộng
sản Việt Nam khoá 7 đã chỉ rõ : ” mở rông kinh tế đối ngoại phải nhằm
chiến lược phát triển kinh tế, từng bước đổi mới cơ cấu sản xuất, đẩy mạnh
công nghiệp hoá, tạo điều kiện cho nền kinh tế nước ta phát triển mạnh ”.
Kinh tế đối ngoại có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia.
Không có một quốc gia nào trên thế giới có thể có thể tồn tại riêng
biệt mà không hề ảnh hưởng đến quốc gia khác đặc biệt trên lĩnh vực kinh
tế. Bởi vậy hình thành nên các quan hệ buôn bán tiền tệ hàng hoá giữa các
nước vì vậy quan hệ giữa các nước trong lĩnh vực kinh tế mang tính khách
quan. Mỗi một quốc gia có một vị trí địa lý khác nhau, có những yếu tố khó
khăn và thuận lợi riêng và mỗi khu vực có sự phát triển về kinh tế là khác
nhau.Vì vậy dẫn đến trao đổi hàng hoá đề thoả mãn nhu cầu của nhau tùy
thuộc vào điểm mạnh của từng quốc gia.
Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam việc mở rộng quan
hệ kinh tế ra bên ngoài có lợi trong việc tiếp nhận kỹ thuật mới, tiên tiến
làm cho năng suất lao động tăng. Việc mở rộng quan hệ quốc tế giúp cho
tập trung phát triển thế mạnh của đất nước.
2
Vì vậy, việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế có ý nghĩa thực sự
quan trọng đối với mọi quốc gia đặc biệt là nước ta nơi nền kinh tế còn
chậm phát triển. Đảng và nhà nước ta đã đề ra biện pháp nhằm “ mở cửa
kinh tế “đưa nền kinh tế Việt Nam tham gia mạnh mẽ vào phân công lao

động quốc tế và thương mại quốc tế.
Kinh tế đối ngoại là một bộ phận cực kỳ quan trọng đối với nền kinh
tế quốc dân của mỗi quốc gia và hoạt động xuất nhập khẩu là xương sống
vì nó là yếu tố chủ động nhất trong các lĩnh vực kinh tế đối ngoại, XNK
chịu tác động trức tiếp và sâu sắc nhất của các qui luật của thị trường quốc
tế, nó có thể vượt qua trợ ngại phi kinh tế khác ( cấm vận, chính sách
phong toả…)
Hoạt động XNK có tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến hoạt động
đầu tư thể hiện ở chỗ : XNK là tiền đề và nơi thể hiện kết quả đạt được của
hoạt động đầu tư. Hoạt động XNK có tác động rộng lớn, sâu sắc đến khoa
học công nghệ, thể hiện thông qua sự chuyên môn hoá và hợp tác của các
công ty ở những nước khác nhau và ngược lại nhờ hoạt động XNK mà quá
trình chuyên môn hoá và hợp tác hoá được phát triển một cách thuận lợi.
XNK thường xuyên mang lại hiệu quả tích cực cho sự phát triển kinh
tế quốc dân nếu việc tổ chức XNK phù hợp với đòi hỏi của các quy luật
khách quan dựa trên cơ sở lợi thế tương đối và tuyệt đối của các yếu tố cấu
thành sản phẩm có liên quan đến XNK.
Đối với nước ta, XNK nói riêng và kinh tế đối ngoại nói chung sẽ
góp phần to lớn trong việc tạo vốn và công nghệ tiên tiến từ nước ngoài,
tạo điều kiện tốt để ta đổi mới cơ cấu sản xuất trong nước thúc dẩy nâng
cao hiệu quả kinh tế xã hội của đất nước.
2.Mối quan hệ giữa xuất khẩu và nhập khẩu.
Xuất khẩu và nhập khẩu là hai bộ phận cấu thành của ngoại thương,
chúng liên quan một mật thiết đến nhau và thúc đẩy nhau, chúng vừa là tiền
đề vừa là kết quả của nhau.
3
Xuất khẩu và nhập khẩu là hai hoạt động cần thiết của bất kỳ một
nền kinh tế nào xây dựng theo mô hình kinh tế mở vì nó tác động đến cả
tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế quốc dân một cách hài hoà.
Kết hợp giữa xuất khẩu và nhập khẩu để xây dựng, phát triển tạo ra

thêm nhiều nguồn hàng xuất khẩu.
Lấy hoạt động xuất khẩu bù lỗ cho hoạt động nhập khẩu và ngược lại
lấy hoạt động nhập khẩu bù lỗ cho hoạt động xuất khẩu.
3.Sự cần thiết phải mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả của hoạt động XNK
* Vào những năm của thập niên 60 có rất nhiều quốc gia đã sử dụng chính
sách “đóng cửa “để áp dụng vào nước mình. Chính sách “đóng cửa có
những đặc trưng sau :
- Tuy tốc độ phát triển có chậm nhưng vững chắc và ổn định.
- Sự hoạt động của nền kinh tế ít chịu ảnh hưởng của nền kinh tế thế
giới
- Mọi tiềm lực của đất nước không cần phải cần được khai thác và
huy động một cách cao độ.
- Sự độc lập tương đối về kinh tế cho phép các nước thi hành chính
sách “đóng cửa kinh tế “ thực hiện quyền tự quyết định về chính trị.
* Nguyên nhân thất bại của chiến lược”đóng cửa “ :
- Không khai thách được ”lợi thế so sánh “ vì không mở cửa trao
đổi hàng hoá với nước khác.
- Các nước đang phát triển và chậm phát triển vốn là các nước
nghèo nên trình độ sản xuất, phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp, nên
khi chính sách “đóng cửa “ hạn chế khả năng tiếp thu khoa học công nghệ,
kỹ thuật mới áp dụng.
- Để có thể nhập khẩu những tư liệu sản xuất phải có một nguồn vốn
lớn để thoả mãn nhu cầu nhập khẩu, mà các nước chậm và đang phát triển
không có khối lượng về tiền lớn như vậy nên phải dựa vào nguồn vốn từ
nước ngoài.
4
- Một phần lớn các nước thị trường nội địa quá chật hẹp và nhỏ bé
không dủ khả năng cho sự phát triển một nền công nghiệp hiện đại với qui
mô lớn nên khả năng thu hút lao động kém dẫn đến nạn thất nghiệp tăng.
- Việc nhập vật tư từ ngoài vào là chủ yếu để thoả mãn nhu cầu sử

dụng trong nước khiến sản xuất đắt đỏ, kém hiệu quả và tạo ra hiều quả
làm ngược lại so với mục đích tiết kiệm ngoại tệ.
Vì những nguyên nhân trên đây mà chính sách “đóng cửa “được thay
bằng chính sách “ mở cửa “ kinh tế.
Nhờ đẩy nhanh xuất khẩu mà tăng thu nhập ngoại tệ
. Tăng khả năng nhập khẩu máy móc trang thiết bị và công nghệ tiên tiến.
. Cải thiện tình hình mất cân đối về thu chi của ngân sách nhà nước.
. Tăng khả năng thu hút lao động.
. Chất lượng hàng hoá tăng.
. Tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, có lợi thế của một
đất nước.
* Những hạn chế của chính sách “ mở cửa “.
- Lệ thuộc vào nước khác về kinh tế.
- Tập trung chiến lược “ hướng về xuất khẩu” làm cho nền kinh tế
phát triển lệch mất cân đối.
- Ưu tiên ngoại thương cùng sự phát triển mạnh mẽ của cơ chế thị
trường làm xảy ra sự bất bình đẳng giữa các tầng lớp dân cư.
Đối với các nước phát triển thì mở rộng quan hệ kinh tế ra ngoài
giúp cho việc bành trướng sức mạnh kinh tế của mình như tìm hiểu thị
trường để tiêu thụ sản phẩm, xuất khẩu hàng hoá và đầu tư đem lại hiệu quả
cao cũng như có lợi nhuận cao, giảm được chi phí về nhân công, tài nguyên
rẻ của các nước đang phát triển.
Nhìn chung tốc độ XNK của thế giới gia tăng nhanh tốc độ tăng của
GDP. Những nước có tốc độ thương mại cao là do tăng cường chính sách
hướng ngoại đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút vốn dầu tư nước ngoài.
5
Một số nước gặp khó khăn trong buôn bán quốc tế là do một mặt ảnh
hưởng của sự suy thoái kinh tế chung trên toàn cầu, mặt khác bản thân các
nước này gặp khủng hoảng về kinh tế, chính trị, nội chiến, tôn giáo.
II.Đặc điểm của xuất khẩu hàng nông sản.

1. Một số lý luận về xuất khẩu nông sản.
Trong quá trình đổi mới, hội nhập kinh tế, hàng nông sản Việt Nam
đã có mặt trên nhiều nước và đã góp phần thu ngoại tệ để phát triển đất
nước. Lợi thế phát triển hàng hóa nông sản xuất khẩu của ta có nhiều
nhưng cũng không ít khí khăn, bất lợi - mà điều bất lợi đó chúng ta có thể
khắc phục được nếu như chúng ta có biện pháp thích hợp và kiên quyết.
Trong bối cảnh mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động xuất
nhập khẩu của các nước là thước đo đánh giá kết quả của quá trình hội
nhập quốc tế và phát triển trong mối quan hệ tùy thuộc vào nhau giữa các
quốc gia. Sự độc lập phát triển của mỗi quốc gia là sự phụ thuộc của quốc
gia đó vào thế giới phải cân bằng với sự phụ thuộc của thế giới vào quốc
gia đó.
Hoạt động xuất nhập khẩu còn là yếu tố quan trọng nhằm phát huy
mọi nguồn nội lực, tạo thêm vốn đầu tư để đổi mới công nghệ, tăng thêm
việc làm, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Xuất khẩu là một bộ phận của hoạt động ngoại thương, trong dó
hàng hoá và dịch vụ bán cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ tăng tích luỹ
ngân sách nhà nước, đồng thời phát triển sản xuất kinh doanh và nâng cao
đời sống cho nhân dân. Hoạt động xuất khẩu phức tạp hơn nhiều so với
việc buôn bán trong nước vì hoạt động này diễn ra trên một thị trường rộng
lớn và nhà xuất khẩu phải có những hiểu biết nhất định về thị trường và
những nhân tố ảnh hưởng đến việc xuất khẩu của doanh nghiêp như văn
hoá, thói quen, cách nghĩ, lối sống...Có nhiều hình thức hợp tác trong kĩnh
vực kinh tế quốc tế nhưng có thể chia thành các hoạt động sau:
- Thương mại quốc tế.
6
- Đầu tư quốc tế.
- Nhập khẩu sức lao động.
- Hợp tác trong lĩnh vực tiền tệ.
- Các hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ quốc tế.

Trong đó ra đời sớm nhất và hiện nay vẫn giữ vai trò quan trọng là hoạt
động thương mại quốc tế. Thương mại quốc tế là hoạt động mua bán và
trao đổi hàng hoá và dịch vụ được diễn ra giữa các quốc gia. Như vậy, khi
mua hàng hoá hay dịch vụ của một bên nước ngoài được hiểu là hoạt động
nhập khẩu và khi bán hàng hoá hay dịch vụ cho bên nước ngoài được hiểu
là hoạt động xuất khẩu.
Ở một số nước thị trường trong nước là hữu hạn thậm chí với một số
nước còn quá nhỏ bé nên thị trường thế giới rộng lớn là mục tiêu để các
nước này vươn ra để xuất khẩu hàng hoá của nước mình. Vì thế ngày nay
khuyến khích xuất khẩu là chính sách mà các quốc gia đều ưu tiên và nhiều
khi nhập khẩu là để phục vụ xuất khẩu.
Không ngoài xu thế chung của thế giới Việt Nam cũng có nhiều
chính sách khuyến khích các cá nhân, doanh nghiệp tăng cường xuất khẩu.
Trong điều 2 Nghị Định số 57/1998/NĐ – CP quy định : “ Hoạt động xuất
nhập khẩu hàng hoá là hoạt đông mua, bán hàng hoá của các thương nhân
Việt Nam với các thương nhân nứơc ngoài theo các hợp đồng buôn bán bao
gồm cả tạm nhập tái xuất, hàng hoá chuyển khẩu. Thương nhân là các cá
nhân, tổ chức hay doanh nghiệp thực hiện hành vi thương mại bao gồm:
mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và xúc tiến thương mại “
1.1. Cơ sở tồn tại của hoạt động xuất khẩu.
Mỗi một quốc gia muốn xuất khẩu một măt hàng nào đó phải phụ
thuộc vào tiềm năng của mỗi nước. Điều đó phụ thuộc vào lợi thế tuyệt đôi
và lợi thế tương đối của mỗi quốc gia.
7
1.1.1. Lợi thế tuyệt đối
Là lợi thế có thể được dựa trên việc so sánh chi phí sản xuất bỏ ra để
sản xuất ra một loại hàng hoá.
Theo A.Smith nếu mỗi quốc gia tập trung vào sản xuất mặt hàng mà
mình có hiệu quả hơn và xuất khẩu mặt hàng mình có thế mạnh này sang
nước khác sau đó nhập khẩu mặt hàng mình không có ưu thế thì sản lượng

của cả hai mặt hàng sẽ tăng lên và cả hai nước cùng có lợi qua hoạt động
trên.
1.1.2 Lợi thế tương đối ( lợi thế so sánh )
Là lợi thế thông qua việc mua bán giữa các quốc gia dựa trên cơ sở
chi phí so sánh để sản xuất hàng hoá.
Theo D.Ricardo thì khi một quốc gia thực hiện chuyên môn hoá sản
xuất mặt hàng có lợi thế so sánh và đem trao đổi cho một quốc gia khác thì
tất cả các quốc gia đều có lợi.
2. Các hình thức xuất khẩu nông sản chủ yếu.
Kinh doanh xuất khẩu diễn ra dưới các hình thức khác nhau. Do vậy,
hoạt động này được diễn ra trong một doanh nghiệp ngay cả trong một
doanh nghiệp đã đa dạng hoá hình thức kinh doanh của mình. Các hình
thức kinh doanh thể hiện ở nhiều mặt như : xuất khẩu hàng hoá hữu hình là
xuất khẩu những mặt hàng có thể di chuyển ở khối lượng lớn bằng các
phương tiện vận chuyển khác nhau. Bên cạnh đấy còn xuất khẩu hàng hoá
vô hình là hình thức xuất khẩu dịch vụ vận tải, thông tin, tài chính ...
Nhìn từ nhiều khía cạnh ta thấy hoạt động xuất nhập khẩu được chia
thành các hình thức khác nhau như sau :
2.1.Xuất khẩu trực tiếp.
Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá - dịch vụ do chính doanh
nghiệp sản xuất trong nước tới khách hàng nước ngoài thông qua tổ chức
của mình. Việt Nam có hai hình thức xuất khẩu trực tiếp :
8
- Xuất khẩu chính ngạch : Là hợp đồng xuất khẩu theo giấy phép của Bộ
Thương mại, lưu thông qua các cửa khẩu quốc tế và quốc gia, phải chấp
hành đầy đủ các thủ tục xuất khẩu theo thông lệ và tập quán quốc tế.
- Xuất khẩu tiểu ngạch : Là hình thức xuất khẩu theo giấy phép của
UBND các tỉnh biên giới.
2.2.Xuất khẩu gia công uỷ thác.
Đây là hình thức trong đó một đơn vị đứng ra nhập nguyên liệu hoặc

bán thành phẩm cho xí nghiệp để gia công sau đó thu hàng thành phẩm về
để xuất khẩu cho bên nước ngoài. Đơn vị nhận uỷ thác được hưởng phí uỷ
thác theo thoả thuận với các xí nghiệp khác.
2.3.Gia công quốc tế.
Đây là hình thức kinh doanh trong đó bên nhận gia công nhập
nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của bên gia công để chế biến ra thành
phẩm rồi giao lại cho bên đặt gia cồng để nhận được phí gia công. Hình
thức này áp dụng chủ yếu cho các nước đang phát triển có nhiều tài
nguyên, lao động dồi dào với giá rẻ nhưng lại thiếu vốn, kém về công nghệ.
Qua gia công cả hai bên cùng có lợi. Bên đặt gia công lợi dụng được giá rẻ
về nhân công, nguyên phụ liệu của nước gia công, không đòi hỏi nhiều
vốn. Nước nhận gia công tạo được việc làm cho lao động trong nước, nhập
được máy móc thiết bị, công nghệ mới.
2.4. Tái xuất khẩu
Là hình thức nhập khẩu tạm thời hàng hoá vào nước mình sau đó lại
xuất khẩu sang nước thứ ba. Hình thức này thường xuyên xảy ra ở những
nước trung gian xuất khẩu, có vị trí địa lý thuận lợi, thị trường và uy tín
kinh doanh xuất khẩu.
2.5. Xuất khẩu uỷ thác.
Đây là hình thức mà trong đó một đơn vị đóng vai trò là người trung
gian cho đơn vị sản xuất kí kết hợp đồng mua bán ngoại thương, tiến hành
9
các thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hoá cho nhà sản xuất để qua đó
hưởng tỷ lệ phần trăm.
2.6. Xuất khẩu tại chỗ.
Trong hình thức này hàng hoá chưa xuất khẩu ra khỏi biên giới quốc
gia. Đó là việc cung cấp hàng hoá cho các đoàn ngoại giao, đoàn khách du
lịch nước ngoài hay hàng hoá bán ra khỏi khu chế xuất của nước đó. Từ
hình thức này hình thành nên thị trường xuất khẩu tại chỗ. Với ưu điểm của
hình thức này là giảm bớt các chi phí cho bao bì vận chuyển, cước phí vận

chuyển, rủi ro trong quá trình vận chuyển và thời gian thanh toán nhanh.
2.7. Buôn bán đối lưu.
Đây là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chăt chẽ
với nhập khẩu, người bán thường đồng thời là người mua và lượng hàng
hoá mang ra trao đổi thường có giá trị tương đương với giá hàng xuất khẩu
chứ không có mục đích thu ngoại tệ.
2.8. Xuất khẩu theo nghị định thư.
Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá thường để gán nợ được ký theo
nghị định thư giữa hai Chính phủ. Thực tế, hình thức xuất khẩu này thường
rất ít, thường trong một số nước XHCN trước đây và chỉ trong một số
doanh nghiệp nhà nước.
Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ và sự hợp tác quốc tế
ngày càng sâu rộng thì hình thành nên xu hướng của xuất khẩu như sau :
- Tốc độ tăng trưởng của hoạt động xuất khẩu nhanh hơn các hoạt
động sản xuất khác.
- Tốc độ tăng của xuất khẩu các sản phẩm dịch vụ nhanh hơn xuất khẩu
các sản phẩm hàng hóa do nhu cầu về sản phẩm dịch vụ ngày càng tăng.
- Chu kỳ sống của các sản phẩm xuất khẩu ngày càng ngắn đòi hỏi các
nhà xuất khẩu phải nhậy bén với môi trường xuất khẩu cũng như sự nhậy
bén về khoa học công nghệ áp dụng trong việc chế biến sản phẩm xuất
khẩu.
10
- Sự liên minh trong hoạt động xuất khẩu ngày càng tinh vi hơn và phức
tạp hơn. Cạnh tranh ngày càng đa dạng không chi dừng lại ở giá cả và chất
lượng mà còn phụ thuộc vào kiểu dáng, mẫu mã và các dịch vụ đi kèm
khác.
- Hoạt động xuất khẩu đồng thời chịu tác động của hai xu hướng :
Hợp tác quốc tế ngày càng mở rộng tạo điều kiện cho thương mại tự do
cạnh tranh, liên minh kinh tế cũng như hàng rào mậu dịch ngày càng tinh vi
tại mỗi quốc gia khiến cho hoạt động xuất khẩu gặp nhiều khó khăn.

2.9. Để hoạt động xuất khẩu diễn ra một cách thuận lợi và mang lại
lợi nhuận lớn cho đất nước, nhà nước cần xây dựng kế hoạch một cách có
hệ thống và việc xây dựng các kế hoạch 5 năm về xuất nhập khẩu nói
chung và xuất khẩu nói riêng là cần thiết. Đối tượng của kế hoạch 5 năm về
xuất khẩu là hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nền kinh tế
quốc dân. Kế hoạch xuất khẩu là một bộ phận quan trọng trong hệ thống kế
hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội. Nó hướng các hoạt động xuất khẩu của
các quốc gia đi theo một mục tiêu nhất định đồng thời đưa ra các chính
sách và giải pháp cần thiết nhằm đạt được mục tiêu phát triển xuất khẩu
một cách có hiệu quả.
Xây dựng kế hoạch 5 năm về xuất khẩu nông sản là một yêu cầu hết
sức quan trọng và cần thiết bởi vì :
Hiện nay có nhiều thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất khẩu
nông sản và chúng ta đã thừa nhận kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là tất
yếu, mọi thành phần kinh tế đều được tự do kinh doanh trong khuôn khổ
pháp luật, cho nên việc có nhiều thành phần kinh tế tham gia hoạt động
xuất khẩu nông sản là tất yếu. Nhà nước cần sử dụng các hình thức kế
hoạch hoá đa dạng thích hợp với từng thành phần kinh tế để giải phóng mọi
năng lực sản xuất, tạo môi trường cho các thành phần kinh tế kinh doanh
năng động với hiệu quả cao, đảm bảo chức năng điều tiết vĩ mô với các
thành phần kinh tế.
11
- Hoạt động xuất khẩu nông sản tuân theo sự điều tiết của thị trường.
Thừa nhận kinh tế hàng hoá tất yếu thừa nhận thị trường kinh tế hàng hoá
càng phát triển thì thị trường cũng ngày càng mở rộng và càng khẳng định
vai trò của nó đến đời sống kinh tế xã hội. Kế hoạch hoá nền kinh tế quốc
dân về xuất khẩu trên cơ sở sử dụng đúng đắn quan hệ thị trường, tăng
cường mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực làm cho hoạt động xuất khẩu trở
lên sôi nổi nhưng không làm rối loạn các hoạt động xuất khẩu của thị
trường. Nghiên cứu sự vận động của thị trường hiện tại và xu hướng phát

triển trong thời gian tới, từ đó lựa chọn các giải pháp hợp lý để hướng dẫn
và điều tiết các hoạt động xuất khẩu nông sản thông qua thị trường đưa kế
hoạch vào cuộc sống. Như vậy, sự vận động của hoạt động xuất khẩu nông
sản trong cơ chế thị trường được định hướng và điều tiết của các kế hoạch
kinh tế quốc dân về xuất khẩu.
- Hoạt động xuất khẩu nông sản giữa các nước được tiến hành trên
cơ sở tự do, bình đẳng theo giá cả thị trường. Trước đây, hoạt động xuất
khẩu nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng chủ yếu là xuất khẩu sang
thị trường các nước xã hội chủ nghĩa và được sự giám sát theo các hiệp
định của Chính phủ thì nay không còn nữa. Ngày nay, nền kinh tế thế giới
bao gồm các nước có chế độ chính trị khác nhau nhưng tất cả đều muốn mở
rộng quan hệ kinh tế nhưng điều đó phải được tiến hành trên cơ sở tự do,
các bên cùng có lợi. Do đó, kế hoạch hoá kinh tế quốc dân về xuất khẩu
nông sản làm cho thị trường nước ta gắn liền với thị trường thế giới, phát
huy những ngành, lĩnh vực mà nước ta có thế mạnh để mở rộng sự hợp tác
và phân công lao động với các nước nhằm tăng nhanh nguồn thu ngoại tệ,
thu hút mọi nguồn vốn và tiến bộ kỹ thuật của nước ngoài để phát triển có
hiệu quả đối với nền kinh tế quốc dân.
3. Hoạt động xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu hàng hoá nông sản.
Nông sản được hiểu là toàn bộ sản phẩm của quá trình sản xuất tại
các ngành nông, lâm, thuỷ sản. Cụ thể, nông sản chủ yếu và phổ biến như
12
các sản phẩm từ trồng trọt, chăn nuôi, sản phẩm từ rừng trồng, sản phẩm từ
hoật động khai thác, đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản.
Nông sản xuất khẩu là một loại hàng hoá xuất khẩu. Nông sản xuất
khẩu khác so với hàng nông sản trong nước vì nó phải thoả mãn được yều
cầu của nước nhập khẩu và người tiêu dùng tai nước nhập khẩu về thông số
dinh dưỡng, an toàn thực phẩm cũng như các thông số kỹ thuật, môi trường
đồng thời phải đạt được tính cạnh tranh cao so với các sản phẩm cùng loại
tại các nước nhập khẩu.

Thị trường nông sản xuất khẩu là nơi diễn ra các giao dịch hàng
nông sản đáp ứng nhu cầu của nước ngoài về nông sản. Trên thị trường
xuất khẩu nông sản người mua và người bán thoả thuận giá cả theo các hợp
đồng, thanh toán chủ yếu bằng các ngoại tệ mạnh và phải có các thủ tục hải
quan của các nước. Một điểm chú ý là thị trường xuất khẩu không chỉ giới
hạn trong thị trường nước ngoài mà còn có một bộ phận khác đó là thị
trường xuất khẩu tại chỗ.
Thị trường sản xuất gạo gồm thị trường của từng mặt hàng nông sản
xuất khẩu nhất định như thị trường sạo, cà phê, cao su ... Giá cả của từng
loại nông sản xuất khẩu phụ thuộc vào tình hình cung cầu của mặt hàng đó.
Trên thị trường nông sản xuất khẩu thì yếu tố cung khó thay đổi do tính
mùa vụ của sản xuất nông nghiệp và đặc tính sinh học rõ rệt của các loại
nông sản.
3.1 . Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu nông sản.
3.1.1.Môi trường quốc tế
Trong xu thế toàn cầu hoá thì tình hình biến động về mặt kinh
tế,chính trị, xã hội của nước này ảnh hưởng nhất định đến các nước xung
quanh. Hoạt động xuất khẩu nông sản có quan hệ trực tiếp với các chủ thể
nước ngoài, chịu sự tác động và phân phối của các nhân tố ở nước ngoài
nên nó càng nhậy cảm đối với các doanh nghiệp xuất khẩu. Bất kỳ một sự
thay đổi nào về các mặt như chính sách xuất nhập khẩu, tình hình lạm phát,
13

×