Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Giáo trình hình thành những giải pháp đẩy mạnh nền kinh tế xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU p3 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.5 KB, 11 trang )

tại nhà hàng và dịch vụ ăn uống càng tăng. Người Bắc Âu không có
truyền thống ăn thủy sản thì nay đang quen dần với nó. Chính những
chuyến nghỉ cuối tuần tới các nước khác góp phần cho các thay đổi
trên. Những khuynh hướng trên hy vọng sẽ đem đến những thay đổi
tích cực trong việc bán thủy sản.
3.2. Các yêu cầu của người nhập khẩu
Thủy sản được nhập khẩu chủ yếu dưới dạng đông lạnh. Hàng
nhập thường là khối đông lạnh, do phần lớn các mẻ lưới được làm
lạnh ngay trên tàu. Các hải sản đánh bắt được làm lạnh trên bờ cả khối
hoặc làm đông lạnh nhanh riêng rẽ (IQF). Nhìn chung sản phẩm đông
lạnh trên tàu được ưa chuộng hơn vì lý do chất lượng. Các nhà nhập
khẩu hải sản được làm đông lạnh, nói chung, thích loại sản phẩm được
làm lạnh theo phương pháp IQF hơn.
Gần đây, nhu cầu nhập khẩu thủy sản đóng gói bán lẻ đang tăng
lên, kể cả ở các thị trường truyền thống như Đức. Tuy nhiên, phần lớn
thủy sản đóng gói bán lẻ trong buôn bán quốc tế được thực hiện ở Tây
Âu cho dù xuất xứ của hàng thô là từ các nước Châu Á.
Thủy sản đóng hộp cũng có chút ít thị trường như ở Hy Lạp
hoặc Đức. Thị trường có thể mở rộng cho loại rau câu, có lẽ nên đóng
lọ thủy tinh hơn là hộp thiếc để hấp dẫn người mua.
3.4. Tiếp cận thị trường
Biểu thuế nhập khẩu chung của EU áp dụng cho tất cả các nước
EU. Tất cả việc nhập khẩu cá và các sản phẩm cá từ các nước ngoài
EU đều phải có giấy phép.
Để tránh sự mất ổn định trong thị trường nội bộ do nhập khẩu,
EU đã đưa ra biểu giá tham khảo cho một số mặt hàng nhất định như
mực ống và mực thẻ. Quy định vệ sinh thực phẩm trong chế biến, kinh
doanh cá và sản phẩm từ cá và là một phần của Luật quốc gia về thực
phẩm của các nước thành viên EU thì chỉ các công ty có giấy phép
mới được nhập hàng này.
Tất cả các thực phẩm đều là đối tượng của Bộ Luật quốc gia về


thực phẩm và có thể khác nhau giữa các nước.
Vấn đề cải thiện chất lượng và đóng gói là rất quan trọng đối với
phần lớn các nước đang phát triển nhằm thâm nhập các thị trường mới
và tăng xuất khẩu các sản phẩm có giá trị, phát triển sản xuất phù hợp
hóa sản phẩm. Muốn thâm nhập vào thị trường EU, cần phải tính đên
sự thống nhất của thị trường này với đồng Euro từ năm 1999, EU cũng
có quy chế ưu đãi riêng đối với nhập khẩu từ các nước ACP với việc
miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu thủy sản theo hệ thống thuế ưu đãi
phổ cập GSP.
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA
NƯỚC TA SANG EU TRONG THỜI GIAN QUA
1. Cấu trúc mậu dịch thị trường thủy sản EU
Phần lớn thủy sản ở EU là hàng nhập khẩu và hầu như không có
nước EU nào có thể tự cung, tự cấp mặt hàng này. Thị trường cá EU
được hình thành bởi nhiều nhà cung cấp. chế biến và phân phối. Tuy
nhiên, càng ít người tham gia thị trường này thì thương mại càng hiệu
quả và tập trung hóa cao hơn.
Những người tham gia thị trường thủy sản EU thường có những
mục đích và hoạt động tương tự như nhau. Chính về thế mà thủy sản
có thể qua nhiều kênh mậu dịch khác nhau trước khi tới địa chỉ cuối
cùng. Sự lựa chọn của các kênh mậu dịch và các bạn hàng thương
mại phụ thuộc vào sản phẩm và dịch vụ có thể được thực hiện bởi các
bạn hàng thương mại đầy tiềm năng. Khi chọn một kênh và bạn hàng
thương mại đặc biệt, các nhà xuất khẩu có thể lựa chọn nhiều kênh
khác nhau trong thị trường. Một số nhà xuất khẩu sẽ giao dịch trực
tiếp với người sử dụng cuối cùng, còn một số khác lại bán cho các nhà
kinh doanh độc lập (các nhà nhập khẩu) hoặc qua các đại lý bán hàng.
Các nhà xuất khẩu tiềm năng cần liên lạc với các nhà nhập khẩu
ở Châu Âu. Những nhà trung gian này thường đã thiết lập những quan
hệ làm ăn lâu dài với người tiêu thụ của họ và có vị trí tốt hơn (so với

các nhà chế biến nước ngoài) để biết được những nhu cầu của thị
trường địa phương và của người sử dụng cuối cùng. Họ cung cấp trực
tiếp tới các siêu thị, ngành chế biến hoặc các nhà sản xuất thành phẩm.
Họ có khả năng hỗ trợ tài chính, mở các chiến dịch quảng cáo và phục
vụ những nhu cầu đặc biệt.
Hầu hết các mặt hàng thủy sản dùng cho mục đích công nghiệp.
Các nhà sản xuất thành phẩm có thể mua được trực tiếp từ các nhà
xuất khẩu, từ đại lý, nhà nhập khẩu hoặc từ ngành chế biến.
Có rất nhiều công ty hoạt động trong lĩnh vực này. Một số công
ty chỉ chuyên chế biến, đông lạnh cá. Các công ty khác, đặc biệt ở Hà
Lan và Bỉ, chuyên hoạt động tái xuất khẩu thủy sản. Họ nhập khẩu ở
các nước đang phát triển và xuất khẩu sang các nước láng giềng ở
Châu Âu.
Trong trường hợp muốn xuất khẩu thủy sản theo phương thức
phục vụ tới người tiêu dùng hoặc bán buôn thì phải có đại lý hoặc nhà
nhập khẩu trong thị trường EU. Các nhà bán lẻ hoặc bán sỉ rất khó
khăn trong việc nhập khẩu trực tiếp từ nước ngoài, trừ một vài siêu thị
lớn.
Các quầy bán hàng trong siêu thị khác hẳn so với các sạp nhỏ
truyền thống. Các sạp nhỏ thường bán thủy sản tươi nóng hay hun
khói.
2. Cơ cấu thị trường EU nhập khẩu thủy sản của Việt Nam
Thị trường EU luôn là một thị trường hấp dẫn không chỉ của các
nước Châu Á, trong đó có Việt Nam mà còn là mục tiêu của nhiều
nước châu lục khác, kể cả Bắc Mỹ. Bởi không chỉ số dân đông trên
350 triệu dân với mức sống cao, ẩm thực đa dạng, với giá cả hấp dẫn,
mà còn là thị trường uy tín, xuất khẩu được hàng thủy sản vào EU
cũng có nghĩa như có trong tay chứng chỉ về trình độ, chất lượng sản
phẩm cao. Tuy vậy, EU vẫn đang sử dụng vũ khí quan thuế và phi
thuế quan trừng phạt, chia nhóm ra để hạn chế, khống chế các nước

xuất khẩu theo những điều kiện có lợi nhất cho họ. Đối với Việt Nam,
thị trường này đã có một một số cải thiện đáng kể trong việc nhập
khẩu tôm, bạch tuộc, cá ngừ, mực. Trong một số năm, cơ cấu thị
trường EU nhập khẩu thủy sản của nước ta không ngừng gia tăng với
giá trị ngày một cao.
Bảng 4: Các nước EU nhập khẩu thủy sản của Việt Nam
năm 1998-1999
Chênh lệch
Nước nhập
khẩu
Năm 1998
(USD)
Năm1999
(USD)
 USD

Anh 14.086.283 9.527.170 -4559.113
Áo 293.684 129.385 -164.299
Bỉ 19.076.000 25.466.772 +6.390.772
Bồ Đào Nha 92.873 126.189 +33.316
Đan Mạch 1.625.599 679.329 -946.270
Đức 10.034.280 10.840.216 +805.936
Hà Lan 27.675.547 23.187.799 -4.487.748
Italia 7.388.718 9.923.270 +2.534.808
Phần Lan - 52.268 -
Pháp 8.218.718 5.568.664 -2.650.054
Tây Ban Nha

2.483.196 2.898.832 +415.636
Thụy Điển 563.134 713.565 +150.431

Tổng 91.537.776 89.113.459 -2.424.317
Nguồn : Bộ Thủy sản
Qua bảng số liệu trên đây, ta thấy rằng không phải tất cả 15
nước thành viên EU đều nhập khẩu thủy sản của Việt Nam mà chỉ tập
trung vào 12 nước, ngoại trừ Lúc-xăm-bua, Hy Lạp và Ai-rơ-len.
Trong số các nước Eu nhập khẩu thủy sản của nước ta thì Anh, Bỉ,
Đức, Hà Lan, Pháp, Italia luôn là những nước có giá trị nhập khẩu
thủy sản rất lớn, có thể nói đây là thị trường chính yếu của thủy sản
Việt Nam khi xuất sang EU.
Năm 1997, Việt Nam xuất sang EU với giá trị đạt được là
75.169.809 USD (22.629 tấn thủy sản xuất khẩu). Nhưng đến năm
1998, con số này đã tăng lên rất lớn với giá trị là 91.537.776 USD
(23.081 tấn thủy sản xuất khẩu). So với năm 1997, giá trị kim ngạch
xuất khẩu thủy sản năm 1998 sang thị trường EU đã tăng 16.367.967
USD hay tăng 21,8%. Điều này chứng tỏ rằng hàng thủy sản Việt
Nam ngày càng có được thế đứng vững chắc, được người tiêu dùng
khó tính của EU chấp nhận.
Năm 1998, các nước Anh, Bỉ, Đức, Hà Lan đã nhập khẩu thủy
sản của Việt Nam với giá trị rất lớn (trên 10 triệu USD), đặc biệt là
Anh, Bỉ và Hà Lan (Anh: 14.086.283 USD , Bỉ: 19.076.000 USD, Hà
Lan: 27.675.547 USD). Ngoài ra, Pháp và Italia cũng là những nước
có giá trị nhập khẩu thủy sản khá lớn của EU.
Nói chung, trong 2 năm 1997-1998, EU là thị trường có tốc độ
tăng trưởng ổn định, sức mua cao nên xuất khẩu thủy sản của nước ta
có nhiều thuận lợi.
Đến năm 1999, giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào EU
chỉ đạt 89.113.459 USD, giảm 2.424.317 USD hay giảm 2,65% so với
năm 1998. Các nước EU có giá trị nhập khẩu Việt Nam rất lớn trong
năm 1998, thì năm 1999 đã giảm mạnh, trong đó: Anh giảm 32,4%9
(giảm 4.559.113 USD), Hà Lan: 4.487.748 USD (giảm 16,2%), Pháp:

2.650.054 USD (giảm 32,2%), Áo giảm 55,9%, Đan Mạch giảm
58,2% (giảm 946.270USD). Với giá trị nhập khẩu của từng nước giảm
mạnh như vậy, tất yếu dẫn đến sự suy giảm trong tổng giá trị mhập
khẩu thủy sản của cả EU. Nhưng năm 1999 cũng đánh dấu mức gia
tăng giá trị nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam của Bỉ, Bồ Đào Nha,
Đức, Italia, Tây Ban Nha, Thụy Điển và Phần Lan. Đặc biệt là Bỉ, giá
trị nhập khẩu thủy sản năm 1999 so với năm 1998 đã tăng 6.390.772
USD (tăng 25,1%). Bồ Đào Nha năm 1998, trị giá nhập khẩu thủy sản
Việt Nam là 92.873 USD, đã tăng lên 126.189 USD vào năm 1999
(tăng 26,4%); Đức tăng 7,4% (tăng 805.936 USD). Italia có mức tăng
rất lớn là 2.534.808 USD (tăng 26%); Tây Ban Nha tăng 14,3% (tăng
415.636 USD); Thụy Điển từ mức giá trị nhập khẩu là 563.134 USD
năm 1998, đã tăng lên 713.565 USD năm 1999 (tăng 21%).
Với 5 nước trong tổng số 12 nước nhập khẩu thủy sản của Việt
Nam có mức giá trị nhập khẩu giảm rất mạnh so với năm 1998, đã tác
động rất lớn đến tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của nước ta sang EU
trong năm 1999. Mặt khác, những nước còn lại có tổng mức gia tăng
không đáng kể so với tổng mức suy giảm của 5 nước trên.
Sự suy giảm trong tổng giá trị nhập khẩu thủy sản của EU năm
1999 chịu sự tác động mạnh mẽ của tốc độ tăng trưởng kinh tế các
nước EU. Mặt khác, tiêu chuẩn chất lượng cho hàng thủy sản mà EU
áp dụng vẫn là bài toán nan giải cho thủy sản xuất khẩu Việt Nam.
3. Cơ cấu mặt hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào EU
Năm 1997, Việt Nam được chính thức xuất khẩu thủy sản sang
thị trường EU. Hiện nay EU là thị trường lớn thứ hai về nhập khẩu
thủy sản của Việt Nam. Nhập khẩu chủ yếu là tôm đông, cá đông, cá
hộp, mực, thịt tôm hỗn hợp và các sản phẩm thủy sản khác.
Cho đến nay, phần lớn hàng thủy sản Việt Nam xuất đi EU đều
thông qua các công ty của ASEAN như Singapore, Thái Lan và Hồng
Kông.

Năm 1997, Việt Nam xuất sang EU 22.629 tấn thủy sản các loại,
trong đó: tôm đông là 11.528 tấn, cá đông: 2708 tấn, mực đông: 1.650
tấn, thủy sản khác là 6743 tấn. Cũng trong thời gian này, EU đã thông
qua quyết định bắt đầu từ năm 1997 cấm nhập khẩu nhuyễn thể hai
mảnh vỏ (sò, hến ) từ nhiều nước trong đó có Việt Nam, vì EU chưa
kiểm tra được điều kiện nuôi, đánh bắt và chế biến ở các nước xuất
khẩu. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến khối lượng thủy sản của Việt
Nam sang EU, do đó tác động đến kim ngạch xuất khẩu sang thị
trường này.
Để xem xét cụ thể hơn về cơ cấu sản phẩm thủy sản Việt Nam
xuất sang EU, ta có bảng sau đây:
Bảng 5: Cơ cấu sản phẩm thủy sản Việt Nam xuất sang
EU năm 1997-1998
Năm
Tôm đông
(tấn)
Mực đông
(tấn)
Cá đông
(tấn)
Thủy sản
khác (tấn)
Tổng
(tấn)
1997 11.528 1.650 2.708 6.743
22.629
1998 11.849,5 1.685,64 3.432,5 6.113,36
23.081
Nguồn: Bộ Thủy sản
Qua bảng số liệu trên đây, ta thấy rằng khối lượng sản phẩm

thủy sản xuất khẩu sang EU năm 1998 so với năm 1997 có tăng nhưng
tăng không đáng kể, chỉ tăng 452 tấn hay tăng 1,96%, trong khi giá trị
kim ngạch xuất khẩu tăng 21,8% (tăng 16.367.967 USD). Điều đó là
do cơ cấu từng loại sản phẩm đã gia tăng về khối lượng và giá trị.
Năm 1997, Việt Nam xuất sang EU được 11.528 tấn tôm, nhưng
năm 1998, khối lượng này đã tăng lên là 11.849,5 tấn với kim ngạch
trị giá là 68.585.541 USD. Về khối lượng tôm, thì năm 1998 so với
năm 1997 chỉ tăng 321,5 tấn hay tăng 2,79%, nhưng về giá trị kim
ngạch thì đã tăng 28% hay tăng 15.003.088 USD. Điều này chứng tỏ,
sản phẩm thủy sản xuất khẩu mạnh nhất của Việt Nam sang tất cả các
thị trường trên thế giới vẫn là con tôm. Năm 1998, xuất khẩu tôm
đông lạnh đạt giá trị 450 triệu USD, chiếm 55% tổng giá trị xuất khẩu
thủy sản của Việt Nam. Vì tôm là một mặt hàng có giá trị cao và nhu
cầu tăng trưởng mạnh trên thế giới, do đó có rất nhiều doanh nghiệp
Việt Nam tập trung kinh doanh duy nhất mặt hàng này. Năm 1998,
Việt Nam đã xuất sang Nhật Bản 30.842 tấn tôm, Mỹ: 6.125 tấn, EU
được 11.849 tấn (nếu khai thông hoàn toàn thị trường này hẳn giá trị
còn tăng hơn nữa, vì vào thời điểm này vẫn còn quá nhiều doanh
nghiệp Việt Nam chưa có “ CODE “ xâm nhập vào EU), Hồng Kông:
7.132 tấn, Trung Quốc: 313 tấn và các thị trường khác là 8.712 tấn.
Về sản phẩm mực đông, năm 1998 tăng so năm 1997 là 35,64
tấn hay tăng 2,16%, nhưng về giá trị kim ngạch xuất khẩu chỉ bằng
80% so với năm 1997 hay chỉ đạt 4.067.693 USD. Điều này là do
công nghệ chế biến mực hiện nay của ta đã có nhiều cải tiến, song
việc tạo ra những sản phẩm có giá trị cao vẫn còn hạn chế, chủ yếu là
xuất nguyên liệu.
Về sản phẩm cá đông lạnh, năm 1998 sản lượng xuất khẩu là
3432,5 tấn, tăng 724,5 tấn so với năm 1997 trong khi giá trị kim ngạch
là 15.176.655 USD, tăng 81,27% so với năm 1997 và bằng 230% các
chỉ tiêu tương ứng của 5 năm trước. Có được sự gia tăng này là do mặt

hàng cá đông lạnh của Việt Nam ngày càng đáp ứng được nhu cầu cao
của thị trường EU (nhất là cá bơn, cá ba sa Việt Nam), cho nên đã tác
động tốt tới giá cả xuất khẩu, tới tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu.
Năm 1998 là năm mà sản phẩm cá đông lạnh Việt Nam có sự tăng
trưởng cao ở thị trường EU và thị trường Mỹ.
Các sản phẩm thủy sản khác như: mực khô, bạch tuộc, cá hộp,
cá hun khói năm 1998 giảm 629,64 tấn so với năm 1997 là bởi vì
các sản phẩm này có giá trị không cao, ít doanh nghiệp Việt Nam
tham gia kinh doanh. Các doanh nghiệp chỉ tập vào các sản phẩm có
giá trị cao như tôm đông, cá đông nên đã tác động rất lớn đến tổng giá
trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang EU năm 1998.
Năm 1999, giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang EU của
Việt Nam giảm 2,65% hay giảm 2.424.317 USD so với năm 1998.
Điều này là do các sản phẩm thủy sản nước ta xuất đi EU phần lớn là
thông qua các công ty của ASEAN. Đây là vấn đề bức xúc đối với
ngành thủy sản nước ta trong việc giao dịch xuất khẩu, phải làm sao
hạn chế các trung gian, tăng cường xuất khẩu trực tiếp với các nước
EU.
III ẢNH HƯỞNG CỦA HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH ĐẾN HOẠT
ĐỘNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN SANG EU
1. Chính sách thuế, lệ phí
Thuế là công cụ điếu tiết nền kinh tế, đồng thời là nguồn thu
ngân sách cho Nhà nước. Đối với nghề cá, tính từ khâu đầu là sản xuất
tạo ra nguyên liệu đến sản phẩm cuối cùng phục vụ cho tiêu dùng
hoặc xuất khẩu, thông thường chịu các loại thuế: môn bài, tài nguyên,
thuế sử dụng đất cho nuôi trồng thủy sản và nhiều loại phí như: phí
trước bạ, đăng kiểm tàu đánh bắt, giấy di chuyển ngư trường, bến bãi.
Ngoài ra, ngư dân còn phải nộp nhiều khoản khác như tham gia bảo
hiểm thân tàu, bảo hiểm nhân mạng Để phù hợp với thực tiễn và
khuyến khích sản xuất phát triển, thuế và lệ phí đối với nghề cá đã

được sửa đổi tích cực.
Về Luật thuế tài nguyên, khung thuế suất 2-7%, theo Nghị định
của Chính phủ, Thông tư số 30 BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn
thống nhất thuế suất là 4% với khai thác hải sản và 3% với khai thác
cá sông.
Đối với khai thác hải sản xa bờ, năm 1993 tại Quyết định số 400
Ttg của Chính phủ đã cho miễn thuế tài nguyên, thuế lợi tức 3 năm
đầu.Và trong năm 1997, ngày 29/5/1997, Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 358/ Ttg cho tàu thuyền khai thác hải sản xa bờ được
giảm 50% thuế tài nguyên và thuế doanh thu phải nộp trong 3 năm
đầu, thuế lợi tức cũng được giảm trong 3 năm đầu kể từ khi có lợi tức
chịu thuế. Về lệ phí trước bạ, chỉ phải nộp 1% trên giá trị tài sản.
Ngày 3/9/1998, Chính phủ đã quy định tại Nghị định 68/NĐ-CP về
thuế suất phải nộp và chính sách miễn giảm thuế tài nguyên thủy sản.
Nếu khai thác ở vùng biển xa bờ bằng phương tiện có công suất lớn
được miễn thuế tài nguyên 5 năm đầu kể từ khi được cấp giấy phép
khai thác và giảm 50% trong 5năm tiếp theo. Đối với sản phẩm qúy
khai thác là ngọc trai, bào ngư, hải sâm là 10% còn tôm, cá, mực và
các loại thủy sản khác là 2%.
Hiện nay để cạnh tranh với các nhà sản xuất xuất khẩu thủy sản
của các nước trên thế giới và đặc biệt đối với các nước khu vực
ASEAN, ngày 2/6/1998, Bộ Tài chính đã ký Quyết định số 103
QĐ/BTC về việc đánh thuế 0% đối với hàng thủy sản xuất khẩu. Việc
đánh thuế 0% này đã làm tăng sức cạnh tranh về giá cả hàng thủy sản
của Việt Nam trên thị trường thế giới, đồng thời với mức thuế này là
sự phù hợp của nó với công nghệ sản xuất và chất lượng hàng thủy
sản xuất khẩu hiện nay của nước ta so với các nước xuất khẩu thủy
sản khác.
2. Chính sách đầu tư và quản lý vốn
Trong thời gian hơn 10 năm vừa qua, ngành thủy sản có mức

tăng trưởng bình quân hàng năm về tổng sản lượng khoảng 4% và giá
trị kim ngạch xuất khẩu tăng từ 10-15%. Nhưng, nếu so với tiềm năng
lớn của vùng biển đặc quyền kinh tế rộng trên 1 triệu km
2
thì con số
này mới chỉ là biểu hiện bước đầu, chưa đáng kể. Muốn thủy sản có vị
trí xứng đáng trong nền kinh tế đất nước, cần phải tăng cường cơ sở
vật chất kỹ thuật trực tiếp phục vụ sản xuất kinh doanh của ngành,
đồng thời Nhà nước cần ban hành những chính sách mới để khuyến
khích, kêu gọi đầu tư vào lĩnh vực thủy sản, nhất là trong khu vực
nuôi trồng và đánh bắt xa bờ.
Bảng 6: Cơ cấu vốn đầu tư vào ngành thủy sản giai đoạn
1986-1998(triệu đồng)
Chỉ tiêu
1986-
1990
1991-
1995
1996-
1998
Tổng số
Tỷ
lệ(
%)

1.Tổng mức
đầu tư
853.200 2.829.340

4.112.700


7.795.200

100

-Trong nước 614.310 2.352.350

3.546.857

6.513.317

83,
6
+Ngân sách 41.420 275.620 656.857 973.897
12,
5
+Tín dụng - 236.730 2.130.000

2.666.730

30,
4
+Huy động 572.890 1.840.000

760.000 3.172.890

40,
7
-Ngoài nước 238.890 476.990 560.843 1.281.723


16,
4
+ODA 30.650 111.200 183.700 325.550
4,1
7
+FDI 98.685 320.290 368.765 787.740
10,
1
+Doanh nghiệp
tự vay
109.555 45.500 13.387 168.443
2,1
7
2. Theo lĩnh
vực
853.200 2.829.340

4.112.700

7.795.200

100

-Nuôi trồng 226.098 850.490 899.299 1.975.887

25,
4
-Khai thác 237.364 891.896 1.327.103

2.456.363


31,
5
-Chế biến 255.960 735.350 1.075.382

2.066.692

26,
5
-Hạ tầng, hậu
cần dịch vụ
115.320 311.110 785.000 1.211.430

15,
5
-Giáo dục, đào
tạo
3.532 5.020 7.760 16.212
0,2
1
-Nghiên cứu 12.660 32.650 15.080 60.390
0,7
7
-Lĩnh vực khác
(quy hoạch, điều
tra nguồn lợi và
phúc lợi)
2.266 2.824 3.176 8.266
0,1
1

Nguồn: Bộ Thủy sản
Theo bảng số liệu trên đây cho thấy, mức đầu tư vào ngành thủy
sản đã tăng đáng kể trong 3 giai đoạn từ năm 1986 đến 1998: giai
đoạn 1(1986-1990), mức đầu tư bình quân năm là 170.640 triệu đồng,
giai đoạn 2 (1991-1995) đạt 565.868 triệu đồng và giai đoạn 3 lên tới
1.370.900 triệu đồng, tăng gấp hơn 8 lần so với giai đoạn đầu.
Xem xét cả giai đoạn 1986-1998, thì vốn trong nước vẫn giữ vai
trò chủ đạo, chiếm đến 83,56% trong tổng vốn đầu tư (tổng vốn đầu tư
cả 3 giai đoạn là 7.795.200 triệu đồng). Tỷ trọng vốn ngân sách đầu tư
cho thủy sản cả 3 giai đoạn chỉ được 12,49%, khoảng 974.000 triệu
đồng. Vốn tín dụng ưu đãi cũng chỉ đạt trên 30%, trong đó vốn trung
và dài hạn ít, còn phần lớn là vốn ngắn hạn với lãi suất cao nên không
khuyến khích người vay. Rất ít doanh nghiệp vay vốn để đầu tư đổi
mới công nghệ; sản phẩm có giá trị gia tăng mới chỉ chiếm 6-7% kim
ngạch xuất khẩu.
Bên cạnh nguồn vốn trong nước, chúng ta đã khai thác khá mạnh
các nguồn lực bên ngoài. Với những chính sách thích hợp, từ năm
1991 đến nay nguồn lực bên ngoài đầu tư cho ngành tăng nhanh. Thời
kỳ 1991-1995, nguồn vốn này đạt bình quân 95.398 triệu đồng/năm,
sang thời kỳ 1996-1998 tăng lên 188.614,3 triệu đồng/năm, tăng
97,7%/năm so với bình quân thời kỳ 1991-1995.
Với nguồn tài trợ và đầu tư trên, chủ yếu là nguồn ODA, các
nước và các tổ chức quốc tế đã tập trung giúp Việt Nam xây dựng quy
hoạch phát triển ngành; nghiên cứu nguồn lợi biển; phát triển cơ sở hạ
tầng nghề cá; tăng cường năng lực chế biến thủy sản và nâng cao chất
lượng sản phẩm; phát triển nguồn nhân lực và tăng cường thể chế cho
ngành thủy sản. Tuy nhiên, do chưa có quy hoạch phát triển ngành cụ
thể, thiếu số liệu điều tra khảo sát và thiếu các dự án khả thi, nên
nguồn vay từ ODA và FDI mới chỉ đạt khoảng 6,2% và 8%, mặc dù
có không ít các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến tiềm năng thủy

sản của Việt Nam. Cho đến nay, chỉ còn khoảng 42 dự án FDI với số
vốn hơn 144 triệu USD và 10 dự án ODA (150 triệu USD) đã được
cấp phép còn tiếp tục hoạt động.
Về đầu tư lĩnh vực, trong cả 3 thời kỳ đã có sự đầu tư đáng kể
vào lĩnh vực nuôi trồng, chế biến và khai thác thủy sản. Tuy nhiên, sự
đầu tư này còn rất nhỏ bởi nguồn vốn đầu tư còn hạn hẹp, phải có sự
huy động vốn nhiều hơn nữa thì sự đầu tư này mới có hiệu quả cao.
Dự kiến trong thời kỳ 1999-2010, tổng mức đầu tư cho phép
phát triển ngành thủy sản sẽ là 35.590.000 triệu đồng:
-Trong đó:

×