Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Giáo trình hình thành những giải pháp đẩy mạnh nền kinh tế xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU p2 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.41 KB, 11 trang )









Khi nghiên cứu trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu cần lưu ý:
-Tùy thuộc vào từng hợp đồng mà cán bộ xuất nhập khẩu phải
thực hiện các nghiệp vụ khác nhau. Trình tự thực hiện các nghiệp vụ
cũng không cố định. Trên cơ sở nắm chắc các khâu nghiệp vụ mà tìm
hiểu yêu cầu nghiệp vụ của từng giai đoạn cụ thể trong quá trình thực
hiện hợp đồng.
-Trong khâu nghiệp vụ cụ thể có thể là nghiệp vụ của người bán
hay người mua phụ thuộc vào cách quy định điều kiện cơ sở giao
hàng ghi trong hợp đồng mua bán hàng hóa đã ký kết.
Quá trình thực hiện hợp đồng trong kinh doanh xuất khẩu
gồm:
- Xin giấy phép xuất khẩu hàng hóa
- Chuẩn bị hàng xuất khẩu
- Kiểm nghiệm và kiểm dịch hàng hoá xuất khẩu
- Thuê tàu lưu cước
- Mua bảo hiểm
- Làm thủ tục hải quan
- Giao hàng xuất khẩu
- Thủ tục thanh toán
II. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU THỦY SẢN
Thủ tục hải quan

Ki



m tra hàng
hóa xuất khẩu
Mua b

o hi

m
(nếu được)
Thuê tàu
(nếu có)
Giao hàng cho
tàu
Thủ tục thanh
toán
Xử lý tranh
chấp (nếu có)

1. Lợi thế của ngành thủy sản nước ta
Việt Nam có bờ biển dài 3260 km, 112 cửa sông lạch, vùng đặc
quyền kinh tế rộng khoảng 1triệu km
2
với 4000 hòn đảo lớn nhỏ tạo
nên, nhiều eo, vịnh, vụng, đầm, phá và nhiều ngư trường, trữ lượng
hải sản gần 3 triệu tấn. Thềm lục địa nước ta rộng hơn 1 triệu km
2
(gấp
3 lần diện tích đất liền), diện tích mặt nước 1triệu km
2
, trong đó diện

tích khai thác đạt 553.000 km, nhưng hiện tại mới chỉ khai thác được
khoảng 65% nguồn lực hải sản cho phép.
Tiềm năng phát triển nuôi trồng thủy sản nước ta rất lớn với 1,4
triệu ha mặt nước nội địa, 300.000 ha bãi triều, 400.000 ha hồ chứa,
sông suối, 600.000 ha ao hồ nhỏ ruộng trũng, có thể đưa vào sử dụng
để nuôi trồng thủy sản. Năng suất nuôi trồng thủy sản mới chỉ bằng
10%- 25% năng suất của các nước trong khu vực.
Theo Bộ Thủy sản, Việt Nam có trên 2000 loài cá, trong đó có
khoảng 100 loài có giá trị kinh tế cao. Bước đầu đánh giá trữ lượng cá
biển trong vùng thềm lục địa khoảng trên 4 triệu tấn. Khả năng khai
thác hàng năm khoảng 1,67 triệu/năm. Tình hình cụ thể của các loài
cá:
-Cá tầng đáy: 856.000 tấn, chiếm 51,3%.
-Cá nổi nhỏ: 694.000 tấn, chiếm 41,5%.
-Cá nổi đại dương (chủ yếu là cá ngừ): 120.000 tấn, chiếm 7,2%.
Trong đó, phân bố trữ lượng và khả năng khai thác giữa các
vùng như sau:
-Vịnh Bắc Bộ: trữ lượng: 681.166 tấn, khả năng khai thác:
271.467 tấn (chiếm 16,3%).
-Biển Trung Bộ: trữ lượng: 606.399 tấn, khả năng khai thác
242.560 tấn(chiếm 14,3%).
-Biển Đông Nam Bộ: trữ lượng: 2.075.889 tấn, khả năng khai
thác: 830.456 tấn (chiếm 49,3%).
-Biển Tây Nam Bộ: trữ lượng: 506.679 tấn, khả năng khai thác:
202.272 tấn (chiếm 12,1%).
Việt Nam tuy có vùng biển trải dài khắp cả nước nhưng sản
lượng khai thác không đồng đều ở các vùng. Theo ước tính, vùng biển
đặc quyền kinh tế của Việt Nam có tổng trữ lượng trên 3 triệu tấn cá,
50.000- 60.000 tấn tôm, 30.000- 40.000 tấn mực.
Mặc dù vậy, với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa

dạng như đã nêu trên, trong thời gian hơn một thập kỷ qua, ngành thủy
sản Việt Nam, đứng trước nhu cầu mạnh mẽ của thị trường thế giới
cũng như nhu cầu về thực phẩm của đất nước đã có những bước phát
triển ngoạn mục và trở thành một trong những ngành kinh tế then chốt
của đất nước.
2. Vai trò của ngành thủy sản trong nền kinh tế quốc dân
Thủy sản là một ngành kinh tế- kỹ thuật đặc trưng gồm có các
lĩnh vực: khai thác, nuôi trồng, chế biến, cơ khí hậu cần, dịch vụ
thương mại, là một trong những ngành kinh tế biển quan trọng của đất
nước. Sản xuất kinh doanh thủy sản dựa trên khai thác có hiệu quả, lâu
bền nguồn lợi thủy sinh, tiềm năng các vùng nước, do vậy có mối liên
ngành rất chặt chẽ với sản xuất nông nghiệp, vận tải, dầu khí, hải
quan
Xuất phát từ tiềm năng thiên nhiên to lớn, vai trò quan trọng của
ngành thủy sản trong sự phát triển kinh tế- xã hội, nhất là trong 20
năm qua, với tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng về sản lượng và
giá trị xuất khẩu. Ngành kinh tế thủy sản ngày càng được xác định là
ngành kinh tế mũi nhọn và là một trong những hướng ưu tiên của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
Ngành thủy sản được xác định là giữ vai trò quan trọng trong sự
phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, bởi vì nó khai thác và phát
triển một trong những nguồn tài nguyên có thể tái sinh của đất nước.
2.1. Đóng góp của ngành thủy sản trong tổng sản phẩm quốc dân
Theo số liệu thống kê, GDP của Việt Nam năm 1998 ước tính
khoảng 368.692 tỷ đồng. Điều này tương ứng với mức GDP tính theo
đầu người vào khoảng 270 đôla Mỹ.
-Nghề nuôi trồng thủy sản từ tự cung tự cấp đã đáp ứng được
nhu cầu cho tiêu dùng trong và ngoài nước, đáng kể là sản lượng tôm
nuôi phục vụ xuất khẩu của nước ta đứng vào khoảng thứ 5 trên thế
giới; thủy sản xuất khẩu cũng đã được xác định là đối tượng chủ yếu

để phát triển nuôi trồng.
-Công nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu mà chủ yếu là công
nghiệp đông lạnh thủy sản, với 164 cơ sở với tổng công suất là 760
tấn/ngày đã đóng vai trò to lớn hàng đầu về công nghiệp chế biến thực
phẩm trong cả nước và thu hút nguyên liệu để sản xuất hàng hóa xuất
khẩu.
-Sự đóng góp đáng kể của khoa học công nghệ, trước hết phải kể
đến kỹ thuật sinh sản nhân tạo để tạo nguồn tôm giống vào cuối những
năm 80, cung cấp hơn 1 tỷ tôm giống các cỡ. Trong công nghiệp đánh
cá, dần dần tạo ra các công nghệ để chuyển dịch cơ cấu nghề khai thác
theo hướng hiệu quả cao, du nhập nghề mới từ nước ngoài để có thể
vươn ra khai thác xa bờ.
-Hoạt động hợp tác quốc tế trên cả ba mặt: thị trường xuất khẩu,
nguồn vốn nước ngoài và chuyển giao công nghệ đều đạt những kết
quả khích lệ. Từ cơ chế “ lấy phát triển xuất khẩu để tự cân đối, tự
trang trải, tạo vốn đầu tư cho khai thác và nuôi trồng “, qua các thời
kỳ, Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa đến nay, sản phẩm thủy
sản nước ta đã có mặt tại hơn 50 nước và vùng lãnh thổ với một số sản
phẩm bắt đầu có uy tín trên các thị trường quan trọng. Trao đổi quốc
tế trên lĩnh vực công nghệ đã góp phần để có kết quả vừa nêu. Là
thành viên của NACA từ năm 1988, của SEAFDEC từ năm 1994,
tham gia vào hoạt động của ICLARM, quan sát viên của INFOFISH,
cũng như sự hiện diện của nghề cá thế giới. Đó là những nhân tố tạo
tiền đề cho sự phát triển của chúng ta.
Dự tính toàn bộ sự đóng góp của ngành thủy sản đối với nền
kinh tế quốc dân sẽ tăng từ mức hiện nay năm 1998 từ 18.434,6 tỷ
đồng lên 40.000 tỷ đồng vào năm 2010. Tỷ trọng tương ứng của
ngành thủy sản trong GDP sẻ giảm do có sự tăng trưởng mạnh trong
các ngành khác của nền kinh tế. Song sự đóng góp của ngành thủy sản
đối với ổn định xã hội và an toàn quốc gia là quan trọng vì tiềm năng

phân phối thu nhập của ngành thủy sản ở các vùng nông thôn. Một bộ
phận dân cư ở nông thôn, thường là các vùng nghèo vẫn tiếp tục sống
dựa vào nghề cá và nuôi trồng thủy sản, bao gồm cả thiểu số ở vùng
cao.
2.2. Vai trò của ngành thủy sản đối với hoạt động xuất khẩu
Nếu trong GDP, ngành thủy sản đóng góp tương đối yếu thì
ngành đã có sự bù đắp lại bởi sự đóng góp mạnh mẽ vào kim ngạch
xuất khẩu cả nước. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản nước ta qua các
năm đã không ngừng tăng lên, điều đó thể hiện rõ nét qua bảng số liệu
sau:
Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam qua một
số năm
Năm

1995 1996 1997 1998 1999
Giá trị xuất khẩu cả
nước (triệu USD)
5448,9 7255,9

8900 9356 10930
Giá trị xuất khẩu thủy
sản (triệu USD)
550,6 670 776,46

858,68

971,12
Tỷ trọng xuất khẩu
thủy sản so với cả
nước (%)

10,1 9,23 8,27 9,18 8,9
Nguồn: - Bộ Thủy sản.
-Số liệu thống kê nông, lâm nghiệp và thủy sản thời kỳ 1990-
1998 và dự báo năm 2000.
Qua bảng số liệu trên đây ta thấy rằng: kim ngạch xuất khẩu
thủy sản nước ta đã tăng rất đáng kể qua các năm, trung bình mỗi năm
tăng gần 100 triệu USD. Từ năm 1995 đến 1999, giá trị xuất khẩu
thủy sản tăng 420,52 triệu USD, hay tăng 76,37%, đóng vai trò là một
trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong một số
năm qua và trong nhiều năm tiếp theo.
Giá trị xuất khẩu thủy sản các năm qua đã đóng góp một phần
không nhỏ vào tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Từ năm 1995 đến
1999, năm nào kim ngạch xuất khẩu thủy sản cũng chiếm tỷ trọng trên
dưới 10% so với tổng giá trị xuất khẩu, đặc biệt năm 1995, tỷ trọng
này là 10,1%.
Xuất khẩu thủy sản chủ yếu là tôm và một số lượng lớn mực
nang và mực đông. Năm 1998, tổng sản lượng thủy sản xuất khẩu đạt
193.000 tấn (tăng 25% so với năm 1995), kim ngạch xuất khẩu đạt
858,68 triệu USD.
Dự kiến xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sẽ tăng từ 971,12 triệu
USD năm 1999 lên 1,1 tỷ USD năm 2000, 2tỷ USD năm 2005 và 2-
2,2 tỷ USD vào năm 2010.
2.3 Vai trò của ngành thủy sản trong việc tạo công ăn việc làm
Công nghiệp đánh bắt và nuôi trồng thủy sản đảm bảo việc làm
thường xuyên cho khoảng 3 triệu lao động, đặc biệt là từ năm 1995, số
lao động thủy sản là 3,03 triệu người. Khoảng 3,8 triệu người sống
trong các hộ gia đình làm nghề đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Như
vậy, khoảng 6,8 triệu người chiếm 8,7% dân số sống phụ thuộc vào
ngành thủy sản như một nguồn sinh sống.
Tổng số lao động có thu nhập từ đánh bắt và nuôi trồng thủy sản

cũng như từ các ngành và các hoạt động hỗ trợ thủy sản ước tính lên
tới 8 triệu người. Ngoài ra, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản còn đảm
bảo việc làm không thường xuyên và thu nhập phụ cho hơn 20 triệu
người.
Theo dự tính, số lao động trong ngành thủy sản năm 2000 sẽ là
3,4 triệu người (trong đó: khai thác hải sản khoảng 420.000 người,
nuôi trồng thủy sản khoảng 559.364 người, chế biến thủy sản: 58.768
người, lao động dịch vụ nghề cá khoảng 1.991.868 người). Do vậy số
đân số dựa vào nghề cá sẽ tăng lên khoảng 8,1 triệu người vào năm
2000 và 10 triệu người vào năm 2010. Hơn nữa, thu nhập trực tiếp của
những người lao động thường xuyên trong nghề cá và nuôi trồng thủy
sản dự tính sẽ tăng trung bình 16%/năm trong thời gian nêu trên. Trên
1,2 triệu người trong các hộ gia đình phụ thuộc vào nghề cá và nuôi
trồng thủy sản sẽ có thêm thu nhập vào năm 2000. Điều đó có nghĩa là
số dân được ngành thủy sản hỗ trợ sẽ tăng 3 triệu người.

III. NHỮNG YÊU CẦU VỀ LUẬT PHÁP VÀ TIÊU CHUẨN CHẤT
LƯỢNG SẢN PHẨM CỦA EU ĐỐI VỚI HÀNG THUỶ SẢN CỦA
VIỆT NAM:
EU là thị trường khó tính, chọn lọc, với những yêu cầu nghiêm
ngặt với tiêu chuẩn chất lượng, an toàn, vệ sinh thực phẩm cao. Chỉ thị
91/493/EEC ban hành tháng 6 năm 1993 quy định các doanh nghiệp
tại nước xuất khẩu phải có điều kiện sản xuất tương đương như các
doanh nghiệp của nước nhập khẩu và phải được cơ quan kiểm tra chất
lượng của EU công nhận. Đối với hàng thực phẩm đóng gói phải ghi
rõ tên sản phẩm, thành phần, trọng lượng, thời gian và cách sử dụng
sản phẩm nơi sản xuất, các điều kiện để bảo quản và sử dụng, mã số
và mã vạch để nhận dạng lô hàng. Đặc biệt cấm nhập những sản phẩm
thủy sản bị nhiễm độc do tác động của môi trường hoặc do các chất
phụ gia không được phép sử dụng.

Do có những khó khăn từ đặc điểm của thị trường EU: như lượng
hàng cung cấp phải ổn định quanh năm, trong thanh toán quốc tế phải
mở L/C trả chậm 6 tháng hoặc 1 năm, sự khác biệt về luật lệ và thói
quen mua bán, chi phí vận chuyển và bảo hiểm cao Nhưng cản trở
lớn nhất hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng
thủy sản sang EU vẫn là chất lượng sản phẩm. Yêu cầu chất lượng
hàng thủy sản chia làm hai hướng: hoặc là giữ nguyên trạng thái ban
đầu (thủy sản tươi sống) hoặc là chế biến theo những công nghệ nhằm
duy trì tốt chất lượng nguyên thủy và tạo ra sản phẩm tiện lợi cho
người tiêu dùng.
Hiện nay EU đánh giá chất lượng sản phẩm thuỷ sản theo 3 chỉ
tiêu:
- Chỉ tiêu cảm quan: Trạng thái tự nhiên, mùi vị, màu sắc của sản
phẩm.
- Chỉ tiêu hoá học: Quy định hàm lượng Nitơ dưới dạng Amoniăc,
độ pH trong 1 gam sản phẩm.
- Chỉ tiêu vi sinh: Quy định loại, lượng, khuẩn có trong sản phẩm
như: khuẩn hoá khí, khuẩn hiếm khí, khuẩn Coliforimen
Hiện tại hàng thủy sản của Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu về tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn an toàn và vệ sinh thực phẩm
của EU.
CHƯƠNG II.
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM
SANG EU TRONG NHỮNG NĂM QUA


I. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM THỊ TRƯỜNG EU
1. Về kinh tế - chính trị
Từ năm 1968, EU đã là một thị trường thống nhất hải quan, có
định mức thuế hải quan chung cho tất cả các nước thành viên. Ngày

07/02/1992, Hiệp ước Maastricht được ký kết tại Hà Lan mở đầu cho
sự thống nhất chính trị, kinh tế, tiền tệ giữa các nước thành viên EU.
Cho đến nay, EU đã là một thị trường rộng lớn, bao gồm 15 quốc gia
với gần 400 triệu người tiêu dùng. Thị trường EU thống nhất cho phép
tự do lưu thông người, hàng hóa, dịch vụ và vốn giữa các nước thuộc
Hiệp hội trao đổi tự do Châu Âu (AELE), tạo thành một thị trường
gồm 380 triệu người tiêu dùng.
Hiện nay, hàng rào buôn bán giữa 15 nước thành viên của EU đã
bị xóa bỏ, do vậy thị trường chung Châu Âu là thị trường lớn nhất thế
giới. Thị trường chung Châu Âu không chỉ là thị trường xuất khẩu lớn
nhất thế giới mà còn là thị trường nhập khẩu hàng đầu thế giới, ngược
nghĩa với “ bức tường thành Châu Âu “.
Hơn nữa, buôn bán của EU với các nước đang phát triển cũng
năng động như với các nước công nghiệp trên thế giới. Trong thực tế,
ĐôngNam Á là vùng hiện đang có nhịp độ tăng trưởng buôn bán cao
nhất với EU, cả xuất lẫn nhập khẩu.
Về chính trị, Liên minh Châu Âu (EU) không phải là một tổ
chức đế quốc với hệ tư tưởng chính trị cứng nhắc, sắp sẵn. EU hiện
nay gồm 15 chính phủ nhưng những chính phủ này không bao giờ
được bầu cùng một lúc và cũng không bao giờ chịu ảnh hưởng của các
hệ tư tưởng chính trị cánh tả hoặc hữu. Tất cả 15 chính phủ đều tuân
theo một đường lối chung về đân chủ.Đặc điểm nổi bật của các nước
EU trong thời gian vừa qua là kinh tế của các nước đều tăng trưởng,
tuy có cao thấp khác nhau, nhưng ổn định. Điều đó thể hiện cụ thể qua
bảng số liệu sau:


Bảng 3: Dự báo của Bundesbank về tăng trưởng GDP tại
các nước EU năm 1999 - 2000 (%)
Tên nước 1998 1999 2000

Áo 3,3 2,5 3,0
Bỉ 2,9 2,0 2,3
Anh 2,3 1,0 1,5
Đức 2,8 2,0 2,5
Hy Lạp 3,5 3,0 2,8
Đan Mạch 2,7 1,5 2,3
Ai-rơ-len 9,5 7,5 7,5
Tây Ban Nha 3,8 3,4 3,3
Italia 1,4 1,6 2,6
Hà Lan 3,7 2,6 3,0
Bồ Đào Nha 4,2 3,2 2,5
Phần Lan 5,0 3,0 3,2
Pháp 3,2 2,5 2,8
Thụy Điển 2,9 2,2 2,6
Nguồn: Tạp chí Thương mại số 26/ 1999
2.Về mức sống dân cư
Liên minh Châu Âu là khu vực có mức GDP bình quân đầu
người rất cao, trong những năm gần đây mức bình quân đó là khoảng
20.000 đô la Mỹ. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong một số năm
qua là trên 8000 tỷ USD, chiếm gần 30% GDP của thế giới. Dân số
khu vực EU khoảng 375 triệu người, chiếm 6,5% dân số toàn thế giới.
Nếu như năm 1997, mức GDP bình quân đầu người là 21.893 đô
la Mỹ thì năm 1999 là 21.764 đô la Mỹ, năm 2000 được dự báo là
22.872 đô la Mỹ và sẽ tăng lên 29.531 đô la Mỹ vào năm 2003.
EU là thị trường mà người dân có mức sống cao với số dân ít so
với các khu vực khác, nên nhu cầu ở EU là rất lớn (luôn đạt mức 2%
tăng trưởng). Hàng năm một người dân EU chi hơn một nửa mức
GDP cho tiêu dùng cá nhân.



3. Về thói quen tiêu dùng
EU đã thông qua những quy định bảo vệ quyền của người tiêu
dùng về độ an toàn chung của các sản phẩm được bán ra. Tất cả các
sản phẩm để có thể bán được ở thị trường này phải được đảm bảo trên
tiêu chuẩn chung của EU.
Đối với mặt hàng thủy sản, hàng năm EU chiếm tới 40% nhập
khẩu toàn thế giới. Mức tiêu thụ bình quân đầu người là 17 kg/ năm và
tăng dần hàng năm khoảng 3%. Trong đó thị trường chính là Anh,
Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Italia, Hà Lan. Do vậy nhu cầu nhập khẩu
thủy sản của EU hàng năm là rất lớn. Đây là thị trường khó tính và có
chọn lọc, với những yêu cầu nghiêm ngặt về tiêu chuẩn chất lượng và
an toàn vệ sinh thực phẩm. Chỉ thị 91/493/EEC ban hành tháng 6 năm
1993 quy định các doanh nghiệp tại nước xuất khẩu phải có điều kiện
sản xuất tương đương như các doanh nghiệp của nước nhập khẩu và
phải được cơ quan kiểm tra chất lượng của EU công nhận. Đối với
hàng thực phẩm đóng gói phải ghi rõ tên sản phẩm, thành phần, trọng
lượng, thời gian và cách sử dụng sản phẩm, nơi sản xuất, các điều kiện
để bảo quản và sử dụng, mã số, mã vạch để nhận dạng lô hàng. Đặc
biệt cấm nhập những sản phẩm thủy sản bị nhiễm độc do tác dụng của
môi trường hoặc do các chất phụ gia không được phép sử dụng.
3.1. Các đặc tính của thị trường thủy sản EU
Mặc dù có sự khác biệt trong tiêu thụ giữa các nước khác nhau,
các nhà hàng và dịch vụ ăn uống luôn là mảng thị trường lớn nhất. Ở
nhiều nước, mảng thị trường này chiếm tới 3/4 mức tiêu thụ. Dù thủy
sản được tiêu thụ tại nhà hàng hay gia đình thì đều phải qua vài dạng
sơ chế trước khi tới tay người mua. Giữa các nước, thói quen ăn uống
rất khác nhau. Mức tiêu thụ thủy sản theo đầu người dao động từ 15-
17 kg. Việc thay đổi lối sống dẫn đến thay đổi cách ăn uống và thói
quen mua bán. Nhiều phụ nữ ngày nay đi làm chứ không ở nhà nên họ
đánh giá cao sự tiện lợi của các thực phẩm ăn liền, thường là ở dạng

đóng gói đông lạnh. Cũng như vậy, mức tiêu thụ sản phẩm đông lạnh

×