Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Luận văn : NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG CHUYỂN NẠP GEN CỦA HAI GIỐNG BÔNG VẢI SSR60F VÀ COKER 312 BẰNG VI KHUẨN Agrobacterium tumefaciens part 2 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.53 KB, 10 trang )


11
CHƢƠNG 1
LỜI MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề
Bông vải là cây trồng lấy sợi quan trọng hàng đầu để thỏa mãn nhu cầu bức
thiết của con ngƣời sau ăn là mặc (Lê Quang Quyến, 2004). Cây bông cũng là cây lấy
dầu từ hạt quan trọng thứ hai sau cây đậu tƣơng, hơn nữa hạt bông còn là nguồn cung
cấp protein làm thức ăn cho gia súc (Jiang, 2004). Cây bông vải đƣợc trồng ở khắp nơi
trên thế giới, nhƣng chủ yếu trồng ở điều kiện nhiệt đới và cận nhiệt đới. Trong các
nƣớc trồng bông vải, Ấn Độ là nƣớc có diện tích trồng bông lớn nhất (9,7 triệu ha)
chiếm 32%, kế đến là Mỹ 24%, Trung Quốc 20% (Satyavathi và ctv., 2002).
Ở Việt Nam, nghề trồng bông vải có từ lâu đời. Cây bông vải từng là cây trồng
quan trọng ở vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ đặc biệt ở các tỉnh Quảng Trị, Thừa
Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên trong thời kỳ kháng chiến
chống Pháp (Lê Kim Hỷ, 2003). Sau ngày thống nhất đất nƣớc, chúng ta đã nhiều lần
cố gắng tổ chức trồng bông lại ở các địa phƣơng trên nhƣng các kế hoạch đó đều
không thành công. Hai nguyên nhân chính làm thất bại các nỗ lực trên là: thị trƣờng
giá cả bấp bênh, nông dân không trồng bông vì không trừ đƣợc sâu đục quả bông dẫn
đến ngƣời trồng bông thua lỗ (Lê Quang Quyến, 2004).
Trong những năm gần đây, do áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật và công
nghệ nên đã cho ra đời các giống bông lai kháng sâu năng suất cao đƣa vào sản xuất.
Tuy nhiên, sản lƣợng bông xơ chỉ mới đáp ứng một phần nhỏ (10-15%) nhu cầu vật
liệu cho ngành dệt may. Trƣớc thực trạng đó, gia tăng sản lƣợng bông xơ là yêu cầu
cấp thiết. Dự kiến đến năm 2010, sản lƣợng bông xơ đáp ứng 20% nhu cầu trong nƣớc
và diện tích bông đạt 1 triệu ha vào năm 2010, tập trung chủ yếu ở vùng Duyên Hải
Miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng Bằng Sông Cửu Long (Bộ Nông
Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, 2003).
Việc cải thiện di truyền của các loài bông vải nhằm tăng năng suất cũng nhƣ
tăng tính kháng sâu bệnh đã đƣợc quan tâm nhiều. Kết quả là nhiều giống bông vải tốt


đƣợc tạo ra theo các phƣơng pháp lai tạo và chọn lọc truyền thống. Tuy nhiên, việc sử
dụng các phƣơng pháp này khó có thể khai thác đƣợc các nguồn gen có lợi một cách

12
có hiệu quả do rào cản bất tƣơng hợp. Công nghệ sinh học nói chung và công nghệ gen
trên thực vật nói riêng có thể thúc đẩy việc tạo ra các giống bông có nhiều đặc tính ƣu
việt nhƣ: kháng sâu bệnh hại, kháng thuốc diệt cỏ, chống chịu với các điều kiện bất lợi
của môi trƣờng (rét, khô, hạn, phèn, mặn…) và các tính trạng số lƣợng cũng nhƣ chất
lƣợng của bông và sợi (Perlak và ctv., 2001). Tuy nhiên, việc chuyển nạp gen vào cây
bông vải đã gặp phải nhiều khó khăn. Cây bông vải đƣợc xem là cây rất khó chuyển
nạp gen với hiệu quả cao. Hơn nữa, ở Việt Nam các phƣơng pháp nuôi cấy mô hiện tại
dùng để tái sinh cây chuyển gen từ các mô sẹo hoặc từ tế bào có khả năng sinh phôi
chƣa đƣợc xây dựng hoàn chỉnh. Ngoài giới hạn về kiểu gen, một số cây tái sinh từ mô
sẹo có khả năng sinh phôi sẽ có hình dạng dị thƣờng do biến dị soma phát triển trong
quá trình nuôi cấy mô. Hiện nay, việc chuyển nạp gen mới chỉ thành công trên các
giống nhóm Coker, hầu hết các gen mong muốn đều đƣợc chuyển vào các giống Coker
và sau đó đem hồi giao với các giống khác (Nobre và ctv., 2001).
Hiện nay ở Việt Nam, các hệ thống tái sinh cây bông vải qua mô sẹo chƣa thành
công nhiều, việc chuyển nạp gen chỉ đƣợc thực hiện bằng phƣơng pháp vi tiêm vào
ống phấn và chuyển trực tiếp trên đỉnh chồi (Lê Trần Bình, 2001). Tuy nhiên, các
phƣơng pháp chuyển gen này tuy có hiệu quả nhƣng sự biểu hiện của các gen chuyển
nạp trên cây chuyển gen giả định là không đƣợc hoàn toàn, tạo ra các cây thể khảm,
gây khó khăn cho việc phân tích và thu nhận cây chuyển gen sau này. Hơn nữa, ở Việt
Nam hiện nay chƣa có nghiên cứu nào xác định loài bông vải nào đang đƣợc trồng
thích hợp việc chuyển nạp gen. Chính vì thế chúng tôi thực hiện khóa luận: NGHIÊN
CỨU KHẢ NĂNG CHUYỂN NẠP GEN CỦA HAI GIỐNG BÔNG VẢI SSR60F
VÀ COKER 312 BẰNG VI KHUẨN AGROBACTERIUM TUMEFACIENS.


13

1.2. Mục tiêu
Khóa luận: “NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG CHUYỂN NẠP GEN CỦA HAI
GIỐNG BÔNG VẢI SSR60F VÀ COKER 312 BẰNG VI KHUẨN Agrobacterium
Tumefaciens” nhằm tìm hiểu khả năng chuyển nạp gen của hai giống bông vải
SSR60F và Coker 312 bằng phƣơng pháp vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens,
trong đó tập trung nghiên cứu về sử dụng hệ thống chọn lọc bằng mannose để thanh
lọc mô sẹo của bông vải sau khi đƣợc chuyển nạp.

1.3. Hạn chế của khoá luận
Với quỹ thời gian ngắn (4 tháng) nên khóa luận chỉ có thể thực hiện phần chọn
lọc bằng mannose (qua 3 lần chọn lọc), các bƣớc tiếp theo sau khi chọn lọc chƣa có
điều kiện thực hiện.
Khóa luận cũng chỉ giới hạn nghiên cứu ở hai giống bông vải, trong đó giống
SSR60F là giống bông đang trồng ở Việt Nam.


















14
CHƢƠNG 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Cây bông vải
2.1.1. Vị trí phân loại
Cây bông vải thuộc: Ngành hiển hoa bí tử (Angospermatophyta), Lớp song tử
diệp (Dicotyledoneae), Họ Malvaceae, Chi Gossypium (Phạm Hoàng Hộ, 1997).

2.1.2. Tính đa dạng, nguồn gốc và phân bố
Trong chi Gossypium có khoảng 39 loài và rất đa dạng, trong đó có sáu loài
bông đƣợc canh tác là: G. hirsutum, G. arboreum, G. barbadense, G. herbaceum, G.
tricuspidatum và G. perriri (Bộ GD và ĐT,Trƣờng ĐH Nông Nghiệp I Hà Nội,bộ môn
Cây Công Nghiệp, 1996). Nhƣng theo Jiang (2004), Brubaker và ctv. (2002) chi
Gossypium có khoảng 50 loài và có bốn loài đƣợc canh tác là: G. hirsutum L., G.
barbadense L., G. arboretum L., G. herbaceum L., loài trồng phổ biến nhất thế giới là
G. hirsutum. Cũng theo Brubaker và ctv. (2002) chi Gossypium phân bố ở phía Tây và
Nam Mexico khoảng 18 loài, ở Đông Bắc châu Phi và Arập khoảng 14 loài, và ở
Australia khoảng 17 loài. Trong sáu loài trên, ở Việt Nam trồng phổ biến ba loài đầu.

2.1.2.1. Gossypium hirsutum
Loài G. hirsutum thƣờng đƣợc gọi là bông Luồi hay bông Tàu, có bộ nhiễm sắc
thể 2n = 52 (Jiang, 2004). Bông Luồi có nguồn gốc từ Trung Mỹ, nay đƣợc trồng lan
rộng ra khắp nơi trên thế giới, sản lƣợng xơ bông Luồi chiếm khoảng 70% sản lƣợng
toàn thế giới (Bộ GD và ĐT,Trƣờng ĐH Nông Nghiệp I Hà Nội, bộ môn Cây Công
Nghiệp, 1996). Bông Luồi đƣợc trồng nhiều nhất là ở Mỹ trên 95% (Jiang, 2004), Nga,
Ấn Độ, Mehico, Trung Quốc, Braxin, Achentina, Nam Phi và châu Úc.
Ở Việt Nam, bông Luồi du nhập vào nƣớc ta khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX. Phần lớn các giống thuộc loài này do ngƣời Pháp đƣa vào nhằm mục đích khai

thác và sản xuất bông hàng hóa. Về sau, loài này đƣợc du nhập vào bằng nhiều con
đƣờng khác nhau, chủ yếu thông qua các chƣơng trình viện trợ của các tổ chức quốc
tế. Qua quá trình thực nghiệm cho thấy loài này có khả năng thích ứng rộng, phù hợp

15
với điều kiện trồng bông nhờ nƣớc trời ở nƣớc ta. Với tiềm năng cho năng suất cao và
có chất lƣợng xơ tốt, các giống bông này dần dần thay thế các giống bông Cỏ trƣớc đó
(Lê Quang Quyến, 2004). Bông Luồi có nhiều loài phụ nhƣ: G. hirsutum ssp.
Mexicanum, G. hirsutum ssp. Punctatum (Achum và Thonn), G. hirsutum ssp.
Panicultum (Balanco)…

2.1.2.2. Gossypium arboreum
Loài G. arboreum thƣờng đƣợc gọi là bông Cỏ. Loài này có lẽ đƣợc trồng lâu
đời nhất, có nguồn gốc từ Tây Nam Ấn Độ, lan truyền sang vùng Đông Nam Á, vùng
có gió mùa khí hậu ẩm ƣớt. Bông Cỏ thƣờng đƣợc trồng ở vùng đồng bằng nhƣng
cũng có trồng ở vùng núi cao 1500-2000 m. Vùng sản suất chính là Ấn Độ, Trung
Quốc,Việt Nam, Myanmar, Lào. Hằng năm sản lƣợng bông Cỏ chiếm 20% tổng sản
lƣợng bông thế giới. Hiện nay, diện tích trồng bông Cỏ ngày càng thu hẹp do chất
lƣợng xơ ngắn.
Ở Việt Nam khoảng thế kỷ XIII- XIV loài bông này đƣợc trồng phổ biến khắp
mọi miền đất nƣớc, từ đồng bằng đến vùng Trung du và Miền núi. Đến năm 1955, loài
bông Cỏ vẫn còn phổ biến trên các vùng trồng bông ở Bắc Bộ và một số vùng thuộc
Bắc Trung Bộ, trong lúc đó ở các vùng bông ở Nam và Trung Bộ đang dần thay thế
bằng các giống bông Luồi.
Các giống bông Cỏ hiện có ở Việt Nam thuộc hai loài phụ: G. arboreum ssp.
Neglectum và G. arboreum ssp. Nanking, kể cả hai dạng bông lâu năm và hằng năm
(Lê Quang Quyến, 2004).

2.1.2.3. Gossypium barbadense
Loài G. barbadense thƣờng đƣợc gọi là bông Hải đảo, bông Ấn Độ. Bông Hải

đảo có nguồn gốc từ Nam Mỹ, nay đƣợc trồng nhiều ở Nga, Mỹ, Ai Cập và một số
nƣớc khác. Bông hải đảo cung cấp khoảng 10% sản lƣợng bông sơ toàn thế giới và
hiện nay diện tích trồng bông Hải đảo đang đƣợc mở rộng do phẩm chất xơ đặc biệt
tốt.
Ở Việt Nam, chƣa tìm thấy tài liệu nào nói về loài bông Hải đảo đƣợc trồng phổ
biến trong sản xuất và bắt nguồn từ đâu. Loài này thƣờng gặp dƣới dạng cây lâu năm ở
trong các vƣờn hoang và bờ giậu. Đến năm 1941- 1945 mới du nhập một số giống nhƣ

16
Ghiza, Pima vào miền Nam, các giống Trƣờng Nhung, Menufi, Tiến Vọt vào miền
Bắc năm 1955-1956 qua chƣơng trình hợp tác và trao đổi giống. Qua quá trình nghiên
cứu và thử nghiệm cho thấy loài bông Hải đảo thích hợp trong vụ khô có tƣới, không
hợp với điều kiện mƣa nhiều độ ẩm cao.
Bông Hải đảo có nhiều loài phụ nhƣ: G. barbadense ssp. Darwwinii (Watt)
Mauner, G. barbadense ssp. redurale Mauner, G. barbadense ssp. Ventifolum (Lam)
và G. barbadense ssp. Eubarbadense Mauner.

2.1.3. Tình hình sản xuất bông ở Việt Nam
Trƣớc thời Pháp thuộc, giống bông đƣợc sử dụng chủ yếu là các giống bông Cỏ
địa phƣơng (Gossypium arboreum L.). Giống bông này cho năng suất thấp. Một số ít
diện tích ở Trung Bộ và Nam Bộ đã đƣợc trồng các giống bông Luồi (Gossypium
hirsutumL.) nhập nội, với năng suất đạt 300 – 500 kg/ha. Đầu thế kỷ 20, nƣớc ta đã
xuất khẩu bông sang Nhật, Hồng Kông. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, diện
tích trồng bông đã đƣợc phát triển mạnh trong đó liên khu V đạt khoảng 10.000 ha và
liên khu IV đạt khoảng 13.000 ha.
Sau năm 1954, các giống bông Luồi nhập nội đã thay thế một phần cho các
giống bông Cỏ địa phƣơng. Sau năm 1975, năng suất bông hạt thấp chỉ đạt 3 – 4 tạ/ha.
Nguyên nhân năng suất và diện tích bông giảm ở giai đoạn này là do sâu bệnh phá
hoại nặng và chƣa có các giống bông thích hợp cho các vùng. Do chí phí sản xuất quá
lớn vì đầu tƣ thuốc trừ sâu rất cao, ngƣời trồng bông luôn bị thua lỗ, thêm vào đó môi

trƣờng bị ô nhiễm nặng, ngành bông Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn.
Từ sau những năm 1990, ngành bông Việt Nam có những bƣớc thay đổi mạnh
mẽ, chúng ta đã tạo đƣợc các giống bông, đặc biệt là các giống bông lai có năng suất
cao, chất lƣợng xơ tốt, chống chịu đƣợc sâu bệnh. Hàng loạt các tiến bộ kỹ thuật đƣợc
áp dụng nhƣ: áp dụng biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp giúp giảm chi phí thuốc bảo
vệ thực vật, các biện pháp kỹ thuật canh tác khác nhƣ hệ thống luân canh xen canh hợp
lý, phủ màng PE cho bông, phun các chất điều hòa tăng trƣởng…chính vì vậy mà năng
suất và chất lƣợng bông xơ tăng, nghề sản xuất bông cho hiệu quả kinh tế cao. Hiện
nay, diện tích đã đạt hơn 35.000 ha, năng suất đạt hơn 11 tạ/ha, tăng gấp hai lần so với
bình quân trƣớc đây.

17
Bảng 2.1. Diễn biến tình hình sản xuất bông ở Việt Nam (Lê Quang Quyến, 2004).
Niên Vụ

Diện tích (ha)
Năng suất (tạ/ha)
Sản lƣợng (tấn)
1996/1997
1997/1998
1998/1999
1999/2000
2000/2001
2001/2002
2002/2003
10.676
11.716
19.963
17.705
13.250

29.573
35.200
6,0
9,0
8,0
10,0
9,0
11,0
10,5
6.866
10.986
16.245
17.578
20.340
32.530
36.960

2.1.4. Tình hình sản xuất bông trên thế giới
Vụ bông 2001- 2002, tổng diện tích bông trên thế giới là 33,5 triệu ha, trong đó
các nƣớc đang phát triển chiếm 70% diện tích và các nƣớc phát triển chỉ chiếm có 30%
diện tích. Mƣời nƣớc có diện tích trồng bông lớn nhất thế giới đƣợc liệt kê ở bảng 2.2,
trong đó Ấn Độ dẫn đầu với diện tích là 8,7 triệu ha, tiếp theo là Mỹ 5,6 triệu ha,
Trung Quốc 4,8 triệu ha và Pakistan 3,1 triệu ha. Điều đáng chú ý là 70% diện tích
bông thế giới đƣợc trồng ở các nƣớc miền nam và diện tích trồng của ba nƣớc châu Á
là Ấn Độ , Trung Quốc, Pakistan đã chiếm khoảng 50% diện tích trồng bông thế giới
(ISAAA, 2002).

18
Bảng 2.2. Mƣời nƣớc có diện tích trồng bông lớn nhất thế giới năm 2001- 2002
( ISAAA, 2002)

STT


Nƣớc
Diện tích (triệu ha)
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Ấn Đ ộ
M ỹ
Trung Quốc
Pakistan
Uzbekistan
Brazil
Thổ Nhĩ Kỳ
Turkmenistan
Mali
Benin
8,730
5,596
4,824
3,125
1,453

0,75
0,654
0,550
0,516
0,415

Sản lƣợng bông thế giới đã tăng từ 9,8 triệu tấn niên vụ 1960-1961 lên 21,1
triệu tấn niên vụ 2001-2002, tức là tăng hơn 116% sau 40 năm. Danh sách mƣời nƣớc
có sản lƣợng bông xơ lớn nhất thế giới đƣợc liệt kê ở bảng 2.3, trong đó Trung Quốc
dẫn đầu với 5,3 triệu tấn, tiếp theo là Mỹ 4,4 triệu tấn, Ấn Độ 2,5 triệu tấn. Điều đặc
biệt là trong mƣời nƣớc có sản lƣợng bông cao nhất thế giới thì có sáu nƣớc là các
nƣớc đang phát triển. Về năng suất Australia dẫn đầu với năng suất là 1.658 kg bông
xơ/ ha, tiếp theo là Syria 1.303 kg bông xơ/ha và Trung Quốc 1.103 kg bông xơ/ha
(ISAAA, 2002).

19
Bảng 2.3. Mƣời nƣớc có sản lƣợng bông cao nhất thế giới năm 2001 – 2002
(ISAAA, 2002)
STT

Nƣớc
Sản lƣợng (triệu tấn)
Năng suất xơ
(kg/ha)
1
2
3
4
5
6

7
8
9
10
Trung Quốc
M ỹ
Ấn Độ
Pakistan
Uzbekistan
Thổ Nhĩ Kỳ
Brazil
Australia
Syria
Ai cập
5,320
4,420
2,508
1,853
1,055
0,880
0,750
0,670
0,335
0,314
1.103
790
287
593
726
1.345

999
1.658
1.303
994

Trong khi đó, diện tích trồng bông chuyển gen trên thế giới ngày càng gia tăng.
Diện tích trồng bông trên thế giới năm 2004 là 32 triệu ha (ISAAA, 2004), trong đó
bông chuyển gen chiếm 28% (9 triệu ha). So với năm 2003 diện tích bông chuyển gen
tăng 11% (9 triệu ha trong năm 2004 so với 7,2 triệu ha trong năm 2003). Trong số các
nƣớc trồng bông chuyển gen, Ấn Độ là nƣớc có diện tích trồng bông chuyển gen tăng
nhanh nhất thế giới (tăng 400% so với năm 2003). Năm 2003, Ấn Độ chỉ có 100 ngàn
ha bông chuyển gen nhƣng năm 2004 diện tích bông chuyển gen tăng lên 500 ngàn ha.
Trung Quốc cũng là nƣớc có sự gia tăng diện tích trồng bông chuyển gen đáng chú ý:
năm 2003 có 2,8 triệu ha nhƣng năm 2004 đã tăng lên 3,7 triệu ha (chiếm 60% diện
tích bông). Theo dự báo của các chuyên gia diện tích trồng bông chuyển gen trên thế
giới sẽ tiếp tục gia tăng trong những năm tới và hƣớng chuyển gen vào cây bông sẽ tập
trung vào việc tạo ra các giống bông kháng sâu bệnh là chủ yếu nhƣng bên cạnh đó
chất lƣợng sợi bông cũng đƣợc quan tâm nhiều (ISAAA, 2004).


20
2.2. Một số nghiên cứu chuyển nạp gen ở bông vải
2.2.1. Những hạn chế của phƣơng pháp tạo giống truyền thống
Cây bông đóng một vai trò quan trọng trong ngành công nghiệp dệt may thế
giới. Chính vì vậy mà việc cải thiện giống bông để nâng cao năng suất cũng nhƣ chất
lƣợng sợi bông thì rất đƣợc chú ý. Các phƣơng pháp tạo giống truyền thống nhƣ: lai
đơn, lai với loài hoang dại, hồi giao, đột biến đã đƣợc sử dụng để đƣa các tính trạng
nhƣ: năng suất cao, chất lƣợng sợi cao và kháng bệnh vào các giống bông. Kết quả là
tạo ra những giống bông có năng suất cao và phẩm chất sợi tốt. Tuy nhiên, các phƣơng
pháp tạo giống truyền thống đã không đáp ứng đƣợc yêu cầu ngày càng cao về chất

lƣợng sợi bông, về sản lƣợng bông cũng nhƣ về khả năng kháng sâu bệnh. Thêm vào
đó, hiện nay trong các giống bông chƣa tìm thấy các gen kháng sâu bệnh chính vì thế
mà rất khó tạo ra một giống bông kháng sâu bệnh bằng phƣơng pháp lai tạo truyền
thống.

2.2.2. Một số nghiên cứu chuyển nạp gen trên cây bông vải
Hiện nay, trong nghiên cứu chuyển nạp gen với nhiều phƣơng pháp khác nhau
nhƣ: phƣơng pháp xung điện, phƣơng pháp vi tiêm, phƣơng pháp sử dụng PEG
(polyethylene glycol), phƣơng pháp bắn gen và phƣơng pháp chuyển nạp gen bằng vi
khuẩn Agrobacterium tumefaciens. Nhƣng phổ biến là chuyển nạp gen trực tiếp bằng
súng bắn gen với vật liệu nuôi cấy là đỉnh chồi phân sinh hoặc từ tế bào huyền phù đã
đƣợc báo cáo (McCabe và Martinell, 1993, Rajasekaran và ctv., 2000), phƣơng pháp
chuyển nạp gen bằng Agrobacterium tumefaciens (Rajasekaran, 1996, Satyawathi và
ctv., 2002, Umbeck và ctv., 1987).
Nghiên cứu chuyển nạp gen thành công bằng Agrobacterium tumefaciens trên
cây bông vải đƣợc công bố lần đầu tiên vào những năm 1980 (Firoozabady và ctv.,
1987, Umbeck và ctv., 1987) với mẫu cấy là trụ hạ diệp và tử diệp. Trong nghiên cứu
của mình, Firoozabady đã sử dụng mẫu cấy tử diệp 12 ngày tuổi để đồng nuôi cấy với
vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens mang plasmid có chứa gen kháng kanamycin.
Sau ba ngày đồng nuôi cấy, các mẫu cấy sẽ đƣợc chuyển lên môi trƣờng tạo mô sẹo có
chứa kanamycin. Kết quả là có hơn 80% các mô sẹo sống sót trên môi trƣờng có chứa
yếu tố chọn lọc kanamycin. Từ đó nhiều gen đƣợc chuyển thành công vào cây bông
nhờ vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens, bao gồm các gen kháng côn trùng, gen

×