Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Cách mạng trong lĩnh vữ triết học và ý nghĩa của nó -2 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.72 KB, 6 trang )


7

tượng tâm lý tinh thần về các quá trình lý hoá, không thấy sự khác nhau về chất
giữa chúng, chẳng hạn như coi óc tiết ra tư tưởng cũng như gan tiết ra mật.
Mặt tích cực trong triết học nhân bản của Phoi ơbắc còn thể hiện ở chỗ ông đấu
tranh chống các quan niệm tôn giáo chính thống của đạo Thiên chúa, đặc biệt quan
niệm về Thượng đế. Trái với các quan niệm truyền thống của tôn giáo và thần học
cho rằng Thượng đế tạo ra con người, ông khẳng định, chính con người sáng tạo ra
Thượng đế. Khác với Hêghen nói đến sự tha hoá của ý niệm tuyệt đối, Phoi ơbắc
nói đến sự tha hoá của bản chất con người vào Thượng đế. Ông lập luận rằng, bản
chất tự nhiên của con người là muốn hướng tới cái chân, cái thiện nghĩa là hướng
tới nhứng cái gì đẹp nhất trong một hình tượng đẹp nhất về con người, nhưng trong
thực tế những cái đó con người không đạt được nên gửi gắm tất cả ước muốn của
mình vào hình tượng Thượng đế. Từ đó Phoi ơbắc đ• đi đến phủ nhận mọi thứ tôn
giáo và thần học về một vị Thượng đế siêu nhiên, đứng ngoài, sáng tạo ra con
người, chi phối cuộc sống con người.
Triết học của Phoi ơbắc cũng bộc lộ những hạn chế. Chẳng hạn, kho ông đòi hỏi
triết học mới – triết học nhân bản, phải gắn liền với tự nhiên đồng thời đ• đứng
trên lập trường của chủ nghĩa tự nhiên để xem xét mọi hiện tượng thuộc về con
người và x• hội. Con người, theo quan niệm của Phoi ơbắc là con người trừu
tượng, phi x• hội mang những thuộc tính sinh học bẩm sinh. Triết học nhân bản
của Phoi ơbắc chứa đựng những yếu tố của chủ nghĩa duy tâm. Ông nói rằng, bản
tính con người là tình yêu, tôn giáo cũng là một tình yêu. Do vậy, khi thay thế cho
thứ tôn giáo tôn sùng một vị thượng đế siêu nhiên cần xây dựng một thứ tôn giáo
mới phù hợp với tình yêu của con người. Ông cho rằng cần phải biến tình yêu

8

thương giữa con người thành mối quan hệ x• hội khác, thành lý tưởng x• hội.
Trong điều kiện của x• hội tư sản Đức bấy giờ, với sự phân chia và đối lập giai cấp


thì chủ nghĩa nhân đạo của Phoi ơbắc về tình yêu thương giữa con người trở thành
chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng, duy tâm.
Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, Phoi ơbắc đ• không
biết rút ra từ đó cái “hạt nhân hợp lý” mà đ• vứt bỏ luôn cả phép biện chứng của
Hêghen.
Mặc dù có nhưng hạn chế, triết học của Hêghen và Phoi ơbắc có ý nghĩa to tớn
trong lịch sử triết học và trở thành một trong những nguồn gốc lý luận quan trọng
của triết học Mác
b) Nguồn gốc ra đời của triết học Mác xít
Triết học Mác (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử) là bộ
phận cấu thành và là cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác, đồng thời là chìa khoá để
giải thích trên cơ sở khoa học quá trình phát triển của tư tưởng nhân loại.
Quê hương của chủ nghĩa Mác là nước Đức. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng
sản xuất ở Anh, Pháp, Đức và các nước tư bản chủ nghĩa khác đ• chứng tỏ phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ưu việt hớn hẳn phương thức sản xuất phong kiến.
Song, cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, những mâu thuẫn giai cấp – x•
hội vốn có của bản thân nó cũng nảy sinh và ngày càng bộc lộ gay gắt, trước hết là
mâu thuẫn giữa hai giai cấp vô sản và tư sản. Mâu thuẫn này là biểu hiện về mặt x•
hội của mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mẫu thuẫn
giữa tính chất x• hội hoá và trình độ phát triển ngày càng cao của lực lượng sản
xuất với quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa.

9

Trong thời kỳ này, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản phát triển mạnh mẽ.
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở nhiều nơi đ• trở thành cuộc khởi nghĩa với
những yêu sách giai cấp rõ ràng. Khởi nghĩa của công nhân Liông (Pháp) năm
1831 và năm 1834, cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở Xilêdi (Đức) năm 1844, phong
trào Hiến chương ở Anh vào cuối những năm 30 đầu những năm 40 của thế kỷ
XIX đ• thu hút sự chú ý của các đại biểu tiên tiến của các tầng lớp tri thức tư sản

tiến bộ, trước hết là C.Mác và Ph.Ănghen tới vấn đề nguyên nhân, bản chất của
các cuộc đấu tranh giai cấp – x• hội và những triển vọng của các cuộc đấu tranh
giai cấp ấy. Rõ ràng những cuộc đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa
tiên tiến ở châu Âu những năm 30-40 của thế kỷ XIX là nhân tố khách quan chứng
tỏ rằng đ• có những tiền đề x• hội- giai cấp và những điều kiện để xuất hiện chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; là chứng cứ để nói rằng
nhu cầu x• hội đ• chín muồi đề xuất hiện một thế giới quan triết học mới – triết học
mácxít.
Những tư tưởng x• hội trực tiếp xuất hiện trước chủ nghĩa Mác và biểu hiện rõ
ràng nhất và kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủ nghĩa x• hội không tưởng pháp,
triết học cổ điển Đức. Trong những học thuyết ấy chứa đựng những giá trị về mặt
lịch sử. Đó là, lý luận giá trị lao động của Smith và Ricardo, là những dự đoán
thiên tài của Xanh ximông và Phuriee về một số đặc điểm của x• hội x• hội chủ
nghĩa tương lai và sự phê phán của các ông đối với x• hội tư bản. Đó là phép biện
chứng duy tâm của Hêghen và kiến giải duy vật về vấn đề cơ bản của Triết học
trong các tác phẩm của Phoiơbắc. Những học thuyết đó là những đỉnh cao của sự
phát triển tư tưởng lý luận x• hội loài người trong thời kỳ trước Mác. Sự phát triển

10

hơn nữa về kinh tế chính trị học, lý luận về chủ nghĩa x• hội khoa học và triết học
chỉ có thể có được với sự ra đời của phép biện chứng duy vật. Song, rõ ràng những
thành tựu đ• đạt tới của nhân loại lại là những tiền đề lý luận tất yếu về mặt lịch sử
và là nguồn gốc của chủ nghĩa Mác nói chung, của triết học mácxít nói riêng.
Vào giữa thế kỷ XIX, nhân loại đ• đạt tời những đỉnh cao trong khoa học tự nhiên.
Các nhà khoa học tự nhiên như R.Maye (Đức), P.P Giulơ (Anh), E.Kh. Lenxơ
(Nga), L.A.Cônđinh (Đan Mạch) đ• xác định sự thật về chuyển hoá năng lượng.
R.Maye và P.P Giulơ đ• nên lên thành định luật bảo toàn và chuyển hoá năng
lượng, đ• chứng minh sự phát triển của vật chất là một quá trình vô tận của sự
chuyển biến những hình thức vận động của chúng. Các nhà sinh vật học người Đức

như Svan và Slâyđen đ• đưa ra lý luận tế bào, chứng minh rằng các tế bào là cơ sở
của kết cấu và sự phát triển của tất cả các cơ thể động vật và thực vật, và do vậy
tìm ra bản chất sự phát triển của cơ thể động vật, thực vật đều là sự phát triển bằng
sự hình thành tế bào.
Nhà khoa học người Anh là Đácuyn cũng đ• phát hiện là lý luận duy vật về nguồn
gốc và sự phát triển của các loài thực vật và động vật. Chính định luật bảo toàn và
chuyển hoá năng lượng, lý luận tế bào, học thuyết về sự xuất hiện và phát triển các
loài là tiền đề về mặt khoa học tự nhiên của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa Mác ra đời trong bối cảnh ấy và nó là sản phẩm mang tính quy luật của
khoa học và triết học mà nhân loại đ• đạt tới, nó được hình thành như là kết quả
của các phát hiện của Mác và Ăngghen về những quy luật chung nhất của sự phát
triển thế giới. Chủ nghĩa Mác do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập là một học thuyết

11

thống nhất, hoàn chỉnh, gồm ba bộ phận cấu thành: triết học mácxít, kinh tế chính
trị học mácxít và chủ nghĩa x• hội khoa học.
3. Thực chất cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác - Ăngghen thực hiện
Sự hình thành thế giới quan duy vật của Mác và Ăngghen cũng đồng thời là qúa
trình nghiên cứu những cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng của các ông diễn
ra trong nửa đầu của những năm 40 thế kỷ XIX dưới ảnh hưởng trực tiếp của
phong trào công nhân và những phát minh về khoa học tự nhiên và khoa học x•
hội, trong quá trình đấu tranh chống phép biện chứng duy tâm của Hêghen và phê
phán chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phoiơbắc.
Trong giai đoạn đầu, trước nửa năm sau của năm 1843, Mác và Ăngghen là những
nhà biện chứng duy tâm. Hai ông tiếp nhận phép biện chứng của Hêghen, song có
thái độ đối lập với hệ thống siêu hình của triết học Hêghen và các kết luận chính trị
phản động xuất phát từ hệ thống triết học ấy. Quan điểm chính trị và x• hội của
Mác và Ăngghen thời kỳ này là quan điểm dân chủ cách mạng. Song, ngay từ năm
1842, khi Mác còn làm biên tập viên Báo Rainơ tại Côlônhơ và khi Ăngghen đang

nghiên cứu tình cảnh giai cấp công nhân Anh, các ông đ• có những biểu hiện
chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật, từ chủ nghĩa dân chủ cách
mạng sang chủ nghĩa cộng sản.
Đặc điểm nổi bật trong hoạt động của hai ông khi nghiên cứu các thành tựu của
khoa học và triết học là nghiên cứu một cách có phê phán và sự sáng tạo của các
ông là nhằm giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị – x• hội. Khi Mác làm biên
tập viên Báo Rainơ, ông đ• bày tỏ ý kiến của mình trên báo trí về vai trò và ý nghĩa
của các lợi ích vật chất trong đời sống x• hội, những vấn đề kinh tế x• hội đặt ra ở

12

tỉnh Rainơ, về vấn đề sở hữu đất, vấn đề đốn rừng, về thương nghiệp và về thuế
quan bảo hộ Nhưng khi sử dụng phép biện chứng duy tâm và học thuyết về nhà
nước và pháp quyền của Hêghen, Mác đ• rơi vào tình trạng khó xử, không giải đáp
được các vấn đề của thực tiễn chính trị x• hội đặt ra. Lúc này, chính Mác đ• cảm
thấy rằng những lợi ích vật chất của con người trong đời sống x• hội d• đóng một
vai trò quan trọng đặc biệt. Mác đ• đi tới kết luận rằng, phải nghiên cứu sâu sắc
hơn nữa những vấn đề kinh tế chính trị và phải xem xét lại một cách có phê phán
những quan điểm triết học và pháp quyền của Hêghen.
Trong thời kỳ công tác tại Báo Rainơ, trong quan điểm của Mác có cả quan điểm
của chủ nghĩa x• hội không tưởng, song, vì chưa đủ những tri thức sâu sắc về
những vấn đề đó, nên ông đ• không thể bày tỏ quan điểm của mình về các học
thuyết x• hội chủ nghĩa của những người tiền bối.
Sau khi rời ban biên tập Báo Rainơ, Mác hoàn toàn dành thời gian để giải quyết
những vấn đề đ• đặt ra cho ông trong thời kỳ công tác tại tờ báo. Ông đ• biết một
bài luận văn lớn dành cho việc phê phán triết học pháp quyền của Hêghen. Tháng
10-1843, ông sang Pari, cố gắng nghiên cứu các vấn đề kinh tế – chính trị học và
lịch sử các phong trào cách mạng. Tại đây, ông đ• tham gia các cuộc hội họp của
công nhân, đặt mối quan hệ với các nhà l•nh đạo của các tổ chức công nhân bí mật
Pháp và Đức. Những năm 1843-1844 là thời kỳ ông chuyển hoàn toàn sang lập

trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản. Các bài của Mác
đăng trên Niên giám Pháp – Đức mà số đầu xuất bản tại Pari vào tháng 2 –1844 đ•
thể hiện rõ sự chuyển biến đó. Trong thời kỳ này Mác ở Pari, Ăngghen ở Anh, hai
ông độc lập trong việc nghiên cứu tình cảnh giai cấp công nhân, sống gần gũi với

×