ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐẶNG QUANG VINH
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ DÂN CHỦ TRONG GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ Ở NƯỚC TA
LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI, NĂM 2004
1
A MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sống theo pháp luật là điều kiện chung để thể hiện quyền tự do, bình
đẳng của công dân trong nhà nước pháp quyền. Nhiều quốc gia, dân tộc, cùng
với sống theo pháp luật còn có sống theo mô hình lý tưởng. Bởi lẽ, mô hình lý
tưởng đó đã đúc kết tinh hoa của nhân loại trong cuộc đời, sự nghiệp của một
danh nhân - đại biểu kiệt xuất trong một thời kỳ lịch sử của dân tộc. Ở nước
ta, “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại” được tôn
vinh thành lý tưởng sống của đại gia đình các dân tộc Việt nam. Đó là lý
tưởng “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” được cụ thể hoá trong tư tưởng
của Người. “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể
của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh
của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân,
xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân,
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hoá,
không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo
đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; chăm lo bồi dưỡng thế
hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, cán bộ,
đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân "[13, 83-84]. Chân lý “Không có gì quý hơn độc lập và tự do” là
cơ sở trong quan hệ hài hoà lợi ích giai cấp, dân tộc và quốc tế. Tư tưởng của
2
Người đang được khái quát thành hệ thống những luận điểm khoa học về các
lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quân sự và ngoại giao, dẫn
đường cho toàn Đảng, toàn dân ta nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân
tộc, đoàn kết quốc tế, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong từng thời kỳ cách mạng, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn được quán
triệt, vận dụng nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng ấy đã được cụ thể hoá trong đường lối chính trị qua các kỳ Đại hội
đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII đã khẳng định "Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động"
[11,127]. Đến Văn kiện Đại hội Đảng IX nêu rõ hơn: “Đảng và nhân dân ta
quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”[ 13, 83].
Hiện nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, đặc biệt là công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
trước sự thách thức của khu vực hoá và toàn cầu hoá, Việt Nam là một trong
những nước nghèo trên thế giới đang đứng trước các nguy cơ tụt hậu so với
các nước trong khu vực (về kinh tế, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham
nhũng và quan liêu, “diễn biến hoà bình” ). Để khắc phục các nguy cơ này,
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010, Đảng đã đề cao, phát
huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam, coi phát
triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vấn đề giáo dục - đào tạo luôn được
mọi người quan tâm và là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu trong
các kỳ họp đại biểu Quốc hội. Dân chủ trong giáo dục - đào tạo đang và mãi
là quyền lợi và trách nhiệm của mỗi thành viên trong xã hội. Thực tiễn đang
3
đòi hỏi chúng ta cùng nhau học tập, nghiên cứu, trao đổi, bàn bạc “tính thực
thi” dân chủ trong giáo dục - đào tạo trên cơ sở di sản tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tìm nhân - quả trong quá trình giáo dục - đào tạo trong từng thời kỳ cách
mạng Việt Nam để nhận thức, đánh giá đúng thành quả giáo dục, đồng thời
tạo chuyển biến mới trong đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Xuất phát từ ý nghĩa to lớn đó, chúng tôi chọn vấn đề: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ trong giáo dục-đào tạo và ý nghĩa của nó ở nước ta” làm đề
tài luận văn thạc sỹ triết học.
2. Tình hình nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học
về tư tưởng của Người đối với con đường cách mạng Việt Nam. Đặc biệt khi
Tổ chức Giáo dục - Khoa học - Văn hoá (UNESCO) quyết định công nhận Hồ
Chí Minh là vị Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hoá thế giới, Ở
trong nước cũng như trên trường quốc tế có nhiều nhà khoa học tiến hành các
hoạt động nghiên cứu như: hội thảo quốc tế, hội thảo trong nước, sách, bài
báo được công bố về tư tưởng của Người. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh
về giáo dục được bàn trên nhiều góc độ, lĩnh vực khác nhau, rất phong phú và
đa dạng:
- Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh -Viện Thông tin Khoa học
(2001) Tư liệu chuyên đề “Những vấn đề dân chủ” (4-5), 347 trang là công
trình của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước được phân theo các phần:
lý luận chung về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ ở một số nước,
dân chủ ở Việt Nam. Nhiều tác giả đã nghiên cứu tư tưởng giáo dục của Hồ
Chí Minh.
- Bách khoa thư Hồ Chí Minh sơ giản (2003) Hồ Chí Minh với giáo dục
- đào tạo Nhà xuất bản (Nxb) Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 720 trang, công
4
trình của nhiều nhà khoa học được chia làm 3 phần: Phần một giới thiệu một
số trích dẫn của Hồ Chí Minh về giáo dục. Phần hai - Tìm hiểu tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục. Phần ba - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong nhà
trường. Công trình lớn này đã làm rõ Hồ Chí Minh là Vị lãnh tụ vĩ đại - Nhà
văn hoá: Nhà giáo, Nhà văn, Nhà thơ, Nhà báo, tâm huyết về sự nghiệp
trồng người. Càng đọc, càng toát lên nội dung dân chủ trong giáo dục. Song
tác giả luận văn muốn đi sâu làm rõ hơn khía cạnh quyền được học hành,
nghĩa vụ của người học, các tầng lớp xã hội trong hệ thống giáo dục quốc dân,
trách nhiệm cá nhân - xã hội trong việc từng bước xã hội hoá giáo dục.
Các bài báo đăng trên tạp chí chuyên ngành, báo chí truyền thông:
- Nguyễn Trọng Chuẩn (1996), "Vai trò động lực của dân chủ", Tạp chí
Triết học, (5).
- Vũ Ngọc Hải (2003), " Hệ thống giáo dục quốc dân hướng tới xây
dựng xã hội học tập suốt đời ở nước ta" Tạp chí Giáo dục, (63).
- Võ Văn Lộc (2003), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong học tập"
Tạp chí Giáo dục, (57).
- Lê Xuân Đình (2004), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở” Tạp chí Cộng sản , (20).
Các công trình nêu trên, đã cho tác giả luận văn có cách nhìn toàn diện
hơn, bàn đến nhiều góc độ khác nhau trong tư tưởng Hồ Chí Minh và đặc biệt
về chiến lược đào tạo con người. Thông qua các công trình nghiên cứu, khảo
sát đã cung cấp cho tác giả một khối lượng tư liệu phong phú và quý giá. Tuy
nhiên, để hệ thống thành một vấn đề lớn tư tưởng dân chủ trong giáo dục của
Hồ Chí Minh thì tác giả chưa thấy một công trình nào thực hiện ở mức độ
luận văn.
5
Xuất phát từ tình hình nói trên, đề tài luận văn thạc sĩ triết học: “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục - đào tạo và ý nghĩa của nó ở
nước ta” nhằm mục đích khảo sát, nghiên cứu bước đầu những nội dung chủ
yếu tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh trong giáo dục. Vấn đề này sẽ phù
hợp với xu hướng nghiên cứu và học tập tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Xuất phát từ đề tài, đối tượng nghiên cứu là:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo
nhìn duới góc độ triết học.
- Từ đó xem xét ý nghĩa của tư tưởng này đối với sự nghiệp đào tạo
nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
- Về lí luận: Những tư tưởng về dân chủ trong giáo dục - đào tạo của Hồ
Chí Minh thể hiện trong các tác phẩm đã được công bố bằng tiếng Việt.
- Về thực tiễn: Khảo sát một số hiện tượng liên quan đến dân chủ trong
giáo dục - đào tạo ở nước ta.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
4.1. Mục đích
Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục -
đào tạo và ý nghĩa của những tư tưởng này đối với sự nghiệp giáo dục - đào
tạo ở nước ta hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích nói trên, luận văn phải giải quyết một số nhiệm
vụ như sau:
6
- Khảo cứu các bài viết của Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục -
đào tạo, các bài chuyên khảo, nghiên cứu của một số học giả về vấn đề trên.
Từ đó phân tích, tổng hợp để khái quát được các nội dung chủ yếu của tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục - đào tạo.
- Tìm hiểu thực trạng “dân chủ hoá” trong giáo dục - đào tạo ở nước ta
hiện nay. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất một số kiến nghị nhằm thực hiện
mở rộng quyền được học tập suốt đời.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Trong quá trình thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn, chúng
tôi đã dựa trên cơ sở lý luận sau đây:
Dựa trên cơ sở các luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin nói về dân chủ,
những luận điểm về dân chủ trong giáo dục - đào tạo của Hồ Chí Minh được
thể hiện trong các tác phẩm của Người; các văn kiện, chỉ thị, nghị quyết của
Đảng Cộng sản Việt Nam; Luật Giáo dục, các văn bản của Bộ Giáo dục &
Đào tạo và một số công trình của các nhà khoa học đã được công bố.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Quán triệt, vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp với các phương pháp hệ thống
hoá; phân tích và tổng hợp; so sánh và đối chiếu, lô gích và lịch sử để thực
hiện đề tài luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
Sau khi luận văn được hoàn thành chúng tôi hy vọng có một số đóng
góp sau đây:
- Luận văn bước đầu hệ thống một số tư liệu, nội dung chủ yếu của tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục - đào tạo.
7
- Đề xuất một số kiến nghị về phương hướng, giải pháp nhằm góp phần
thực hiện tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh trong giáo dục - đào tạo.
- Luận văn còn có thể là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng
dạy và học tập về tư tưởng Hồ chí Minh nhằm thực hiện Chỉ thị số 23-CT/TW
ngày 27 tháng 3 năm 2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc đẩy
mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai
đoạn mới.
- Luận văn góp phần gợi mở vấn đề công bằng xã hội trong giáo dục và
hưởng thụ giáo dục. Nghĩa là quán triệt tư tưởng giáo dục - đào tạo của Hồ
Chí Minh trong thực thi Luật Giáo dục, Luật Thanh tra, Luật Khiếu nại, tố
cáo, các quy chế của Bộ Giáo dục & Đào tạo, Điều lệ nhà trường đối với
mọi hoạt động của các cơ sở đào tạo hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung chính của luận văn được trình bày trong 2 chương, 5 tiết.
8
B NỘI DUNG
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ
TRONG GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
1.1 Khái niệm dân chủ trong giáo dục - đào tạo
1.1.1 Khái niệm về dân chủ
Trong tiếng Hy lạp từ Demokratos là từ có cấu tạo gồm: demos là nhân
dân, kratos là sức mạnh. Hai bộ phận này kết hợp thành một khái niệm “dân
chủ” với nội dung: dân là sức mạnh, dân có quyền lực. Quá trình hình thành
và phát triển dân chủ là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Chúng ta có thể tìm
hiểu phạm trù dân chủ theo cách tiếp cận hệ thống và tiếp cận cấu trúc.
Trong quá trình sản xuất, tính chất xã hội hoá các hoạt động của con
người, của nhân loại không chỉ thể hiện đầu tiên từ thực tiễn sản xuất mà cùng
9
với sản xuất, một trong những nhu cầu hoạt động thực tiễn của con người là
thực thi dân chủ, có nghĩa là sự biểu hiện sức mạnh và quyền lực của con
người, của tập thể, các tầng lớp xã hội, của các giai cấp - quan hệ người với
người trong quá trình sản xuất. Học thuyết Mác - Lê nin đã chứng minh lịch
sử phát triển xã hội loài người là lịch sử sự phát triển của hình thái kinh tế - xã
hội. Nó là cơ sở khoa học để nghiên cứu các khoa học nói chung và đặc biệt
là khoa học xã hội từ xã hội cộng sản nguyên thuỷ, xã hội chiếm hữu nô lệ, xã
hội phong kiến, xã hội tư bản đến xã hội cộng sản. Trong tiến trình ấy, ở mỗi
giai đoạn lịch sử đều có các lực lượng xã hội cùng tồn tại phủ định lẫn nhau
theo quy luật phát triển. Lực lượng đông đảo nhất là nhân dân lao động. Sự
xác lập lợi, quyền và nghĩa vụ của họ (dân chủ) từ số ít đến số nhiều trong
quan hệ xã hội là một quá trình lịch sử lâu dài.
Nhà nước ra đời khi xã hội phân chia giai cấp. Mỗi một kiểu nhà nước
đều có một kiểu dân chủ tương ứng. Trong quá trình phát triển của nhà nước
xuất hiện các tư tưởng dân chủ theo tư tưởng của các giai cấp thống trị. Khi
nhà nước tiêu vong thì dân chủ cũng tiêu vong. Đó là dân chủ xét về mặt thể
chế, còn về mặt giá trị dân chủ vẫn tồn tại và phát triển thể hiện sức mạnh và
quyền của con người trong quy luật nhận thức, cải tạo tự nhiên và xã hội.
Dân chủ là một phạm trù lịch sử gắn liền với xã hội có giai cấp. Lịch
sử đã chứng minh sự phù hợp tương đối chế độ dân chủ và chế độ nhà nước:
- Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, “toàn thể các thành viên thị tộc
đều là những người tự do, có nghĩa vụ bảo vệ tự do của nhau, họ có quyền cá
nhân ngang nhau, cả tù trưởng lẫn thủ lĩnh quân sự đều không đòi hỏi những
quyền ưu tiên nào cả; họ kết thành một tập thể thân ái, gắn bó với nhau bởi
những quan hệ dòng máu, bộ lạc, bộ tộc, thị tộc. Tự do, bình đẳng, bác ái, tuy
chưa bao giờ được nêu thành công thức, nhưng vẫn là những nguyên tắc cơ
bản của thị tộc”[8,136]. Cùng với nó về mặt xã hội, F. Ăngghen viết: “với
10
tính chất ngây thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc đó quả là một tổ chức tốt
đẹp biết bao! Không có quân đội, hiến binh và cảnh sát, không có quý tộc,
vua chúa không có những vụ xử án ở đây tất cả đều bình đẳng và tự do,
kể cả phụ nữ” [ 8, 147-148] .
Đến nhà nước phong kiến, lực lượng sản xuất so với thời cổ đại đã phát
triển hơn. Con người đã cải tiến nghề luyện kim và sản xuất kim loại thành
công cụ lao động một cách phổ biến, cũng như sử dụng sức nước, sức gió. Sự
phân công lao động giữa nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp đã
rõ hơn. Quan hệ sản xuất phong kiến đã giải phóng một phần cho người sản
xuất. Nông dân đã có một gia đình, có vai trò trong sản xuất là một đơn vị
kinh tế tự cung tự cấp và có mầm mống nền sản xuất hàng hoá nhỏ. Mọi
quyền lực và sức mạnh thuộc về tầng lớp quý tộc, hoàng tộc phong kiến đứng
đầu là thiên tử. Thiên tử định đoạt cuộc sống của muôn dân. Như lời của vua
Lui XIV đã từng nói Nhà nước là ai, nhà nước là ta.
Trong nhà nước tư bản, dân chủ được nâng lên một nhận thức mới là
mục tiêu vừa là động lực để thúc đẩy xã hội phát triển. Với sự phát triển của
nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, tầng lớp quý tộc và giai cấp tư sản đã
từng bước sử dụng dân chủ nhằm thức đẩy sản xuất hàng hoá, tiêu dùng trên
mọi lĩnh vực đời sống xã hội được biểu hiện giữa mua và bán không công
bằng qua bóc lột giá trị thặng dư. Dân chủ vẫn là mơ ước của nhân loại được
phán ánh qua các học thuyết chủ nghĩa xã hội không tưởng.
Bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776 nêu rõ: Mọi người sinh
ra đều bình đẳng. Tạo hoá đã ban cho họ những quyền bất khả xâm phạm,
trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Mười ba
năm sau (1789) Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp đã
thấm nhuần tư tưởng dân chủ thế kỷ 17, 18 đúc kết với khẩu hiệu: Tự do, bình
11
đẳng, bác ái. Đó là những bản tuyên ngôn có tính dân chủ cao, song thực tế
xét về bản chất vẫn là dân chủ bảo vệ giai cấp tư sản với hệ tư tưởng tư sản.
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C. Mác đã đánh giá cao nền dân
chủ của nhà nước tư sản đã thúc đẩy phát triển xã hội: chủ nghĩa tư bản ra đời
trong vòng 100 năm đã tạo ra của cải cho nhân loại bằng toàn bộ những xã
hội trước gộp lại. Hai phát kiến vĩ đại của C. Mác là Học thuyết giá trị thặng
dư và Chủ nghĩa Cộng sản khoa học đã khái quát quá trình hình thành và phát
triển và diệt vong của chủ nghĩa tư bản và mức cao hơn là nền dân chủ của xã
hội xã hội chủ nghĩa - xoá bỏ bóc lột, xoá bỏ giai cấp.
V.I. Lê nin là Người kế tục vĩ đại sự nghiệp của C. Mác và F. Ăng ghen
trong điều kiện lịch sử mới chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa. Sự cống hiến lớn lao của Người trong sự phát triển sáng tạo
của chủ nghĩa Mác nói chung và chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng, đặc biệt
là tính thực thi dân chủ trong xã hội mới. Khi nói về chế độ dân chủ tư sản
V.I. Lênin cho rằng là một chế độ thuần tuý nhất, và hoàn hảo nhất trong các
chế độ mang tính chất tư sản.V.I. Lênin đã quan tâm và đánh giá vai trò của
giai cấp nông dân ở các nước dân tộc thuộc địa, vai trò của đảng cộng sản và
quy luật phát triển của nhà nước vô sản. Đồng thời, Người cũng vạch ra
những nguy cơ tha hoá của quyền lực nhà nước, đó là sự xuất hiện của chủ
nghĩa quan liêu, tệ sùng bái cá nhân, chủ nghĩa duy ý chí, xa rời dân chúng;
cùng với văn hoá chính trị thấp kém của quần chúng đã làm huỷ hoại dần
nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đó là dân chủ xét từ góc độ thể chế
chính trị.
Dân chủ có thể nhìn từ góc độ giá trị và hệ giá trị. Nghĩa là xét dân chủ
trong quan hệ với các giá trị công bằng, bình đẳng và tự do. Dân chủ không
chỉ là phạm trù lịch sử mà là phạm trù vĩnh viễn thể hiện năng lực tự quản,
khả năng quản lý của xã hội, thể hiện giá trị vật chất- tinh thần và văn hoá dân
12
chủ của nhân loại. Ở đó, dân chủ cá nhân và cộng đồng được đảm bảo trên cơ
sở hài hoà lợi ích. Dân chủ là điều kiện, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Dân chủ có thể tiếp cận từ cơ cấu xã hội, từ các quan hệ. Đó là các mối
quan hệ trong mỗi quốc gia dân tộc xét trên các quan hệ kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội Và quan hệ rộng hơn là giữa các quốc gia. Thể hiện các quan hệ
đối tác, hợp tác đảm bảo an ninh chủ quyền quốc gia, không can thiệp nội bộ,
không xâm phạm chủ quyền quốc gia. Đảm bảo thực hiện các công ước quốc
tế.
Qua quá trình hình thành và từng bước hoàn thiện lý luận dân chủ xã hội
chủ nghĩa (khoảng 100 năm trở lại đây), nhiều nhà nghiên cứu đã khái quát
một số nội dung dân chủ xã hội chủ nghĩa như sau:
- Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) được thể hiện như là một chế
độ dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử nhưng vẫn là nền dân chủ mang tính
giai cấp của giai cấp công nhân.
- Dân chủ XHCN phải đi đôi với kỷ cương, pháp luật. Mọi nhà nước,
mỗi giai cấp thống trị đều điều hoà lợi ích bằng pháp luật song pháp luật của
nhà nước xã hội chủ nghĩa là ý nguyện của đa số nhân dân lao động là công
cụ để đảm bảo dân chủ và công bằng xã hội.
- Dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở kinh tế. Việc thực hiện dân
chủ trước hết phải trên cơ sở kinh tế và trong lĩnh vực kinh tế. Chỉ khi nào
người lao động thực sự làm chủ về kinh tế lúc đó họ mới có dân chủ thực sự,
tư liệu sản xuất là tài sản chung của xã hội, nhân dân mới có quyền tham gia
vào công việc tổ chức, quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm.
- Nền dân chủ XHCN nhằm phát huy khả năng sáng tạo của con người,
tạo điều kiện phát triển một cách toàn diện. Đây là nền dân chủ vì con người,
dân chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tính thực thi dân chủ
13
đánh giá mức độ giải phóng con người, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân
loại. Dân chủ luôn thể hiện tính xã hội:
Một là, không có nhà nước siêu giai cấp mà nhà nước bao giờ cũng là
nhà nước của giai cấp nhất định. Dân chủ toàn dân, dân chủ nói chung, dân
chủ thuần tuý, dân chủ siêu giai cấp chỉ là sự che đậy của giai cấp thống trị.
Hai là, tính lịch sử và tính kế thừa của dân chủ. Thể hiện về không gian,
thời gian, địa lý cũng như sự phủ định các hình thức dân chủ trong lịch sử.
Ba là, tính biện pháp và tính mục đích của dân chủ. Dân chủ luôn hướng
con người tới chân - thiện - mỹ biểu hiện ra quyền con người về quyền sống,
quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc. Sống và hưởng thụ bằng lao động
chân chính gắn liền với học tập suốt đời là điểm chung của mọi con người bất
kể mầu da, hoàn cảnh địa lý, trình độ phát triển kinh tế, xã hội.
1.1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
Khi nghiên cứu học thuyết của C. Mác đối với phương Đông, Hồ Chí
Minh đã khẳng định chủ nghĩa Mác sẽ còn đúng cả ở đó. Dù sao thì cũng
không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa
thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được củng cố
nó bằng dân tộc học phương Đông. Tư duy “ Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong
điều kiện nền văn minh nông nghiệp. Tư tưởng của Hồ Chí Minh không đưa
ra khái niệm dân chủ chung chung mà dân chủ thực sự gắn liền với thực hành
dân chủ, nghĩa là để làm cho dân ai cũng được hưởng quyền dân chủ tự do
trong phạm vi quốc gia, dân tộc: Nước ta là một nước dân chủ, mọi quyền
hành và lực lượng đều thuộc về nhân dân. Nội dung dân chủ của Người được
thể hiện trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền với lý tưởng độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội trong cơ chế thống nhất: Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ. Hồ Chí Minh là mẫu hình thể hiện dân chủ thực sự
14
nhất quán trong một con người, là Người sáng lập, lãnh đạo Đảng vừa là một
đảng viên, vừa là Người lãnh đạo Nhà nước vừa là một công dân mẫu mực.
Tư tưởng dân chủ của Người là một di sản vô giá đối với cách mạng Việt
Nam. Đây là đề tài rộng lớn, chúng ta có thể tìm hiểu dần theo từng mục đích
nhỏ trong từng lĩnh vực khoa học nghiên cứu. Tác giả Nguyễn Khắc Mai, đã
thống kê 100 câu nói về dân chủ của Hồ Chí Minh: về giá trị dân chủ; về địa
vị và quyền lợi của nhân dân; về bộ máy nhà nước dân chủ; về Đảng trong sự
nghiệp xây dựng nền dân chủ; về vai trò đoàn thể nhân dân; về giải pháp thực
hiện dân chủ [23,11-19]. Những vấn đề này có thể nghiên cứu vào các hoàn
cảnh cụ thể sinh động của cuộc sống. Ta có thể liệt kê một vài nội dung tư
tưởng của Bác về dân chủ trong cán bộ, đảng viên, là nguyên nhân và là kết
quả của sự nghiệp các mạng Việt Nam: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng
rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để
củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng” [ 37, 497-498].
-“ Cán bộ phải gương mẫu, chí công vô tư, cần kiệm liêm chính, hết
lòng vì dân, thực hành dân chủ làm trọn công việc, tham gia lao động, luôn
luôn rèn luyện lập trường, tư tưởng và đạo đức cách mạng, đi sâu vào nghiệp
vụ kỹ thuật”. [ 36, 197]
-“Trong nội bộ phải thực hành dân chủ, phải luôn luôn tự kiểm thảo để đi
đến đoàn kết. Phê bình và tự phê bình phải từ trên xuống dưới, từ dưới lên
trên. Phê bình trên công tác cách mạng, phê bình để tiến bộ, không phải để
xoi mói” [31,336]
- “ Thực hành dân chủ, nghĩa là công việc đều phải bàn bạc với xã viên,
cán bộ không được quan liêu mệnh lệnh. Tài chính phải công khai, tuyệt đối
chóng tham ô, lãng phí”[37, 195]
- Chống lợi dụng dân chủ: “Đối với nội bộ nhân dân thì thực hành dân
chủ. Đối với đế quốc, phong kiến và phản động, thì thực hành chuyên chính
15
chống lại chúng, đàn áp chúng. Trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà của
chúng ta, tất cả mọi quyền lực đều là của nhân dân, tức là của giai cấp công,
nông, tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Bốn giai cấp ấy do giai cấp công nhân
lãnh đạo, lấy công nông liên minh làm nền tảng, đoàn kết các giai cấp dân chủ
và các dân tộc trong nước để thực hành dân chủ chuyên chính” [32, 217].
- “Thực hành dân chủ là chìa khoá vạn năng để có thể giải quyết mọi
khó khăn” [37, 249].
Chỉ nêu một vài trích dẫn của Hồ Chí Minh đều toát lên dân chủ là minh
bạch, là được bàn bạc đi đến thống nhất thành sức mạnh. Như vậy, “muốn
thực hành dân chủ phải làm cho “dân biết” một cách có hiệu quả bằng cách
giải quyết hai vấn đề: nâng cao dân trí và thông tin đầy đủ cho dân, nghĩa là
thực hiện công khai hoá”[ 15, 38].
Tóm lại, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ, nhân
dân làm chủ trong điều kiện lịch sử nhất định. Sự phù hợp giữa lý luận dân
chủ và “dân chủ hoá” sẽ được các nhà nghiên cứu dần làm sáng tỏ.
1.1.3 Dân chủ trong giáo dục-đào tạo
C. Mác đã từng nhắc nhở: sự ngu dốt là sức mạnh ma quỷ và chúng ta lo
rằng nó sẽ còn là nguyên nhân của nhiều bi kịch. V.I. Lê nin coi trọng tri
thức: Không có tri thức, không có chủ nghĩa xã hội và sự hợp tác giữa các đại
biểu của khoa học và công nhân - chỉ có một sự hợp tác như thế mới có thể
thủ tiêu được toàn bộ nạn nghèo khổ, bệnh tật và bẩn thỉu Người đã chỉ ra
cho nhân loại: Học. học nữa, học mãi
Giáo dục là một hiện tượng xã hội. Một hiện tượng có nhiều thuộc tính
gắn với mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Giáo dục - tự giáo dục; đào
tạo - tự đào tạo; bồi dường, huấn luyện, rèn luyện, tập huấn, bổ túc, giáo
dưỡng, dạy, học; học tập - tự học tập, nghiên cứu, ứng dụng v.v đều là
16
những mặt, những thuộc tính chỉ sự cải biến, tiến bộ trong quá trình hình
thành nhân cách con người và tiến bộ xã hội. Trên thế giới và ngay cả ở nước
ta đều có các quan niệm khác nhau về các hoạt động này, nhưng phần đông
đều thống nhất: “Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó
là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài
người, nhờ có giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn
hoá dân tộc và nhân loại được kế thừa, bổ sung và trên cơ sở đó mà xã hội
loài người không ngừng tiến lên.”[46, 9] Tính đa dạng của các thao tác, các
quá trình truyền đạt, lĩnh hội và phát triển tri thức hay bất kỳ một hoạt động
nào ở trong cá nhân hay hệ thống tổ chức đều có tính giáo dục. Mỗi quốc gia
có quy định về các mối quan hệ xã hội, trong hệ thống quản lý dạy - học -
hành, được luật pháp hoá trong Luật Giáo dục.
Giáo dục là hiện tượng xã hội được nhiều khoa học nghiên cứu như kinh
tế giáo dục, tâm lý học giáo dục, tâm lý học sư phạm, tâm lý học lứa tuổi,
phương pháp giảng dạy bộ môn v.v Những khoa học này nằm trong chỉnh
thể là giáo dục học. Giáo dục học đang đi sâu vào các lĩnh vực: Lý luận chung
về giáo dục - Lý luận giáo dục, Lý luận dạy học, Lý luận quản lý giáo dục
Mỗi lĩnh vực đều có nội dung phong phú, đa dạng. Nội dung dân chủ trong
giáo dục chủ yếu thể hiện vấn đề quyền cơ bản của con người trong giáo dục
đó là:
- Ai cũng có quyền và nghĩa vụ được học hành, quyền được học suốt
đời.
- Quyền và nghĩa vụ được tham gia vào quản lý, hưởng thụ giáo dục cả
vật chất lẫn tinh thần.
Các quyền cơ bản đó được thể hiện từng bước dân chủ hoá giáo dục - xã
hội hoá giáo dục. Con người có quyền học tập, quyền tham gia góp phần
trong quản lý giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân, quyền được tham
17
gia hoạt động giáo dục trong quan hệ quốc tế với mục đích: nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hoàn thiện nhân cách để có thể “hoà”
vào với tự nhiên - xã hội - hội nhập. Giáo dục là hiện tượng xã hội có những
tính chất: tính khoa học, tính lịch sử, tính kế thừa, tính giai cấp, tính dân tộc,
tính quốc tế v.v Giáo dục đã tạo cho công nghệ thông tin phát triển, thúc đẩy
con người nhanh chóng cập nhật thông tin để sáng tạo và phát triển tri thức,
tạo trí thức mới. Nhiệm vụ của giáo dục mang tính toàn cầu như các đề án xoá
đói giảm nghèo; phát triển kinh tế; bảo vệ môi trường sinh thái; bảo vệ các di
sản của thế giới; phòng chống các đại dịch, các tệ nạn xã hội, xung đột sắc
tộc, tôn giáo, can thiệp chính trị, chiến tranh cũng như chung sống hoà bình
xây dựng xã hội tốt đẹp đã làm cho lĩnh vực giáo dục luôn là vấn đề mới và
trở thành bức xúc. Trong xu hướng giáo dục mang tính toàn cầu hoá thì dân
chủ trong giáo dục cũng đa dạng luôn dựa trên các quan hệ lợi ích kinh tế - xã
hội. Nhưng giải quyết lợi ích giáo dục thì bất cứ quốc gia nào đều đặt mục
đích lợi ích xã hội lên hàng đầu và là lợi ích lâu dài vĩnh viễn.
Ngày nay, quyền ai cũng được học hành, được nghiên cứu, được sáng
tạo, được hưởng thụ, được học tập suốt đời là những mặt, những thuộc tính
được bàn đến nhiều trong các khái niệm được thế giới quan tâm như: kinh tế
tri thức, xã hội tri thức, xã hội thông tin, xã hội học tập, xã hội hoá giáo dục,
giáo dục cộng đồng, v.v Các quyền đó tuỳ theo điều kiện kinh tế - xã hội đặc
biệt là chính trị đã sinh thành, vận động, phát triển khác nhau. Nó cũng vừa là
nguyên nhân cũng vừa là kết quả của sự phát triển của các quốc gia, dân tộc.
Nhiều quốc gia không tự ti từ xuất phát điểm, chú trọng phát triển kinh tế tri
thức cùng với phát triển giáo dục, trong vòng nửa thế kỷ đã trở thành các
cường quốc trẻ “dân giầu, nước mạnh”. Chứng tỏ vai trò to lớn của kinh tế tri
thức, khả năng nhận thức và cải tạo thế giới của con người. Điều mà các nhà
18
kinh điển đã từng nhắc nhở: “khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp” thúc đẩy xã hội tiến bộ đầy sức thuyết phục.
Tóm lại, dân chủ trong giáo dục - đào tạo được thể hiện qua quyền được
học hành, quyền và mức độ được tham gia quản lý, hưởng thụ giáo dục, được
giáo dục. Trong giai đoạn lịch sử nhất định, dựa vào điều kiện phát triển kinh
tế - xã hội, khoa học - kỹ thuật con người đã và đang khái quát cái lô gíc sự
vận động của tư tưởng dân chủ trong giáo dục ở giai đoạn đó thể hiện sự đa
dạng quyền được học hành, sức mạnh của tri thức mới trong tiến bộ xã hội.
Tri thức mới thực sự chỉ đạo hoạt động thực tiễn, định hướng cho con người
vươn tới. Sự tụt hậu về tri thức là nỗi lo của tất cả các quốc gia, dân tộc trong
đó có Việt Nam.
1.1.4 Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong
giáo dục - đào tạo
1.1.4.1 Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo là một bộ
phận trong cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Cơ sở này được nhiều
nhà nghiên cứu khái quát, đó là tinh hoa văn hoá nhân loại trong Hồ Chí
Minh.
- Tư tưởng phương Đông và truyền thống văn hoá của dân tộc Việt Nam
Những tinh hoa văn hoá của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo ở phương
Đông được “hoà” và thể hiện qua những tư tưởng triết lí hành động: tư tưởng
nhập thế, hành đạo, giúp đời. Đó là tư tưởng về một xã hội bình trị, là ước
vọng về một xã hội an ninh, hoà mục, một thế giới đại đồng; là triết lí nhân
sinh: tu thân dưỡng tính, chủ trương từ thiên tử đến thứ dân, ai cũng phải lấy
tu thân làm gốc. “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” luôn là mục đích của
học tập nói riêng và giáo dục nói chung của xã hội phong kiến phương Đông.
“Tu thân”, có thể là giản đơn: “Kiếm dăm ba chữ để làm người”, hay là“ Học
19
là học để làm người /Biết hơn thiệt biết lời thị phi” (ca dao). Học để tề gia.
Xã hội phong kiến đã tạo ra những gia đình có truyền thống học tập “ nhà
nho, gia đình gia giáo được mọi người kính trọng. Học, cao hơn là học để làm
quan giúp dân, trị nước. Khi một lý do nào đó không làm quan nữa thì trở về
làm nghề dạy học, mong chuyển giao nhiệm vụ cho học trò của mình. (tiến vi
quan, thoái vi sư). Tâm niệm “tôn sư trọng đạo” đã trở thành truyền thống tốt
đẹp, được tôn trọng. Trong thứ bậc “Quân - sư - phụ” đã đặt vị trí thầy sau
vua và trên cả cha mẹ, vì thầy luôn luôn hơn học trò (nhất tự vi sư, bán tự vi
sư). Sự thành đạt của con người là do cha mẹ nuôi dưỡng và thầy dạy dỗ.
Cũng chính vì vậy mà thầy trong truyền thống tôn sư, thầy luôn thật sự là thầy
biết “đạo làm người và đạo ở đời”. Nghề nhà giáo được xã hội tôn vinh là
nghề cao quý. Ở Phương Đông, phần nhiều các nhà văn hoá lớn là danh sư
của dân tộc như Khổng Tử, Lão Tử, Ganđi, Nêru, Chu Văn An Cả sự
nghiệp của họ luôn gắn với hoạt động giáo dục.
Ở Việt Nam, các Nhà nước phong kiến đã quan tâm đến giáo dục nhằm
đào tạo những con người làm quan để quản lý đất nước, quản lý xã hội. “
Năm 1070, dựng Văm Miếu, nơi tôn sùng Nho giáo, thờ Khổng tử; năm 1076
lập Quốc tử giám ở kinh đô Thăng long, coi như Trường Đại học đầu tiên ở
nước ta”[1, 21]. Thời Vua Trần Thuận Tông đã ban chiếu về việc xây dựng
trường học ở các phủ lộ. Trong chiếu lập học vua Quang Trung đã nói: "
Dựng nước phải lấy việc giáo dục làm đầu tiên, trị nước phải lấy việc kén
chọn nhân tài làm điều gấp rút" [18, 9]. Các trường này vừa dạy học vừa lựa
chọn và giới thiệu học trò giỏi đi thi. Nhiều gia đình khá giả thuê thầy về dạy
tại nhà riêng; cũng có thầy giáo vừa đi làm thuê vừa dạy cho con cháu nhà
chủ. Lúc đó, ngôn ngữ chính thống được dùng trong dạy học chủ yếu là chữ
nôm. Nhà giáo lúc đó được gọi là cụ đồ nho, ông giáo làng. Ông đồ nho thực
hành việc dạy học của mình từ thành thị, làng mạc nông thôn và đến cả ở
20
những nơi miền núi xa xôi hẻo lánh. Trong xã hội này, tính chất "xã hội hoá
giáo dục" đã hình thành và từng bước phát triển trên cơ sở nhà nước và nhân
dân cùng tham gia vào công việc giáo dục.
Cùng với chính sách chiêu hiền đãi sĩ, con nhà nghèo học giỏi có thể
được làm quan đã góp phần tạo nên truyền thống hiếu học. Truyền thống hiếu
học và chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là những chuẩn mực trong giá trị văn
hoá - tinh thần Việt Nam. Mọi học thuyết đạo đức, tôn giáo và văn hoá của
các quốc gia xâm nhập từ nước ngoài vào Việt Nam đều được tiếp nhận, gạn
lọc, chắt bỏ, phủ định phát triển. Ở đó có tinh thần nhân nghĩa, truyền thống
đoàn kết, tương thân, tương ái, " lá lành đùm lá rách" trong hoạn nạn và khó
khăn song vẫn lạc quan, yêu đời, cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo
trong nền văn minh lúa nước và đấu tranh chống ngoại xâm. Ham học hỏi và
không ngừng mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hoá của nhân loại cũng là
một đặc trưng quý giá của dân tộc Việt Nam. Các truyền thống này cùng lúc
được hình thành với lịch sử hình thành phát triển của dân tộc. Đặc biệt, đầu
thế kỷ XX với phong trào Duy Tân (1902-1910) chủ trương dân chủ: mở cửa
nhìn ra thế giới, tiếp cận nền văn minh nhân loại phát triển cao để học tập và
hoà nhập quốc tế do cụ Phan Bội Châu khởi xướng với nội dung nhằm “ Khai
dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” đã đánh dấu một mốc phát triển quan
trọng về tư tưởng dân chủ tiểu tư sản ở Việt Nam. Chính những tư tưởng
phương Đông và truyền thống dân tộc Việt nam được Hồ Chí Minh tiếp thu
và nâng lên một tầng cao mới: tư tưởng giáo dục dân tộc - quốc tế.
- Tư tưởng văn hoá phương Tây trong con người Hồ Chí Minh
21
Trong ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Hồ Chí Minh
sống nhiều năm ở châu Âu nên Người đã chịu ảnh hưởng tư tưởng dân chủ
của các nước phương Tây. Ngay từ khi còn học ở trường tiểu học Đông Ba,
rồi vào Trường Quốc học Huế (đến thầy giáo ở Trường Dục Thanh), Nguyễn
Tất Thành đã làm quen với văn hoá Pháp. Đặc biệt, Người rất ham mê môn
lịch sử, rất muốn tìm hiểu cuộc Đại cách mạng Pháp 1789. Người đã từng
sang Mĩ, đến sống ở New York và thường đến thăm khu Haclem của người da
đen. Trong các bài viết sau này, Người thường nhắc đến ý chí đấu tranh cho
tự do, độc lập, cho quyền sống của con người được ghi lại trong Tuyên ngôn
độc lập 1776 của nước Mĩ. Người sang Anh (đầu năm 1913), nơi đang diễn ra
cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Airơlen. Chính ở Anh, Người đã đi
những bước đi đầu tiên trong cuộc đời hoạt động chính trị của mình, gia nhập
công đoàn thuỷ thủ và cùng với giai cấp công nhân Anh tham gia các cuộc
biểu tình, đình công bên bờ sông Thêmdơ, Việc Người chuyển đến sống và
hoạt động tại thủ đô nước Pháp là một quyết định có ý nghĩa lịch sử, mở ra
một thời kì mới trong cuộc đời mình. Đến với quê hương của lí tưởng Tự do,
Bình đẳng, Bác ái, Nguyễn Ái Quốc được tiếp xúc với các tác phẩm của các
nhà tư tưởng khai sáng: Vonte (Voltaire), Rútxô (Rousseau), Môngtétxkiơ
(Montesquieu), Những lí luận gia của Đại cách mạng Pháp 1789, như Tinh
thần pháp luật của Môngtétxkiơ, Khế ước xã hội của Rútxô, Tư tưởng dân
chủ của các nhà Khai Sáng đã có ảnh hưởng tới lớn đến tư tưởng của Người.
Nguyễn Ái Quốc hấp thụ được tư tưởng dân chủ, hình thành phong cách
dân chủ qua các cuộc hội họp, tham gia sinh hoạt đảng Xã hội Pháp, nhiệt
tình các cuộc tranh luận với A. Xarô (A. Sarraut), Liôtây (Lyautey), Varen
(Varenne) và sinh hoạt khoa học ở Câu lạc bộ Phôbua (Faubourg). Ở Pháp,
Người được gặp lại cụ Phan Châu Trinh và một số Việt Kiều yêu nước. Một
trong những sự kiện có ý nghĩa bước ngoặt đánh dấu sự định hình và phát
22
triển tư tưởng dân chủ của Người là bản yêu sách đòi dân tộc độc lập ký tên
Nguyễn Ái Quốc (NAQ) gửi tới hội nghị của các cường quốc ký hoà ước Véc
xây khai mạc ngày 18/01/1919. Và tại Đại hội Tua (tháng 12 - 1920) Người
đã đọc tham luận đòi quyền tự do, trong đó có quyền tự do học tập. Nhờ được
rèn luyện trong phong trào công nhân Pháp và sự cổ vũ, dìu dắt trực tiếp của
nhiều nhà cách mạng, trí thức tiến bộ Pháp như M.Casanh (M.Cachin),
P.V.Cutuyariê (P.V. Couturier), G. Môngmútxô (G. Monmousseau) ,
Nguyễn Ái Quốc đã từng bước trưởng thành về dân chủ trong trao đổi, học
hỏi các nhà trí thức phương Tây.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Năm 1920, sau khi đọc Luận cương về các vấn đề thuộc địa và dân tộc
của V.I. Lênin, đó là sự bắt gặp của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế
vô sản chân chính. Hồ Chí Minh đã tán thành Quốc tế thứ ba và là một trong
những người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng
sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
Tháng 6 năm 1923, Người bí mật sang Liên xô. Năm 1924, Người tham
dự Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản mở rộng và được mời
nói chuyện tại Quảng trường Đỏ Matxcơva nhân ngày 1.5.1924. Tại Đất nước
Tháng Mười, khi đọc chính sách giáo dục của Liên xô, Hồ Chí Minh rất tâm
đắc với một nền giáo dục cưỡng bức và không mất tiền đối với trẻ em, giáo
dục bách khoa đối với thiếu niên, giáo dục chuyên nghiệp đối với thanh niên,
chính sách ưu tiên đối với con em lao động nghèo túng. Sau nhiều năm trăn
trở, cuối năm 1924 Người quyết định trở về nước, đi vào quần chúng thức
tỉnh họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập.
Tháng 6 năm 1925, tại Quảng Châu, Người đã tập trung lực lượng thanh niên
Việt Nam yêu nước thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí
Hội. Có thể nói đây là cơ sở đào tạo đầu tiên của một nền giáo dục Việt Nam
23
mới (Từ cơ sở này, một số đồng chí được gửi tiếp đi học ở Liên xô, một số
đồng chí được học ở Trường Quân sự Hoàng Phố). Việc học tập, nghiên cứu
của thanh niên Việt Nam đánh dấu bước chuyển về chất. Cơ sở lý luận của
Hội là chủ nghĩa Mác - Lênin; hướng phát triển của cách mạng Việt Nam là đi
theo cách mạng Tháng Mười Nga 1917; lực lượng cách mạng chủ yếu là công
nhân và nông dân; cách mạng Việt Nam liên hệ mật thiết với cách mạng thế
giới; mở rộng hoạt động trong cả nước, trong Việt kiều ở Lào và Thái Lan.
Tinh thần dân chủ trong giáo dục của Người được thể hiện mục đích “Đường
cách mệnh”: Mục đích sách này là để nói cho đồng bào ta biết rõ: 1) Vì sao
chúng ta muốn sống thì phải cách mệnh. 2) Vì sao cách mệnh là việc chung cả
dân chúng chứ không phải việc một hai người. 3). Đem lịch sử cách mạng các
nước làm gương cho chúng ta soi. 4) Đem phong trào thế giới cho đồng bào ta
rõ. 5) Ai là bạn ta, ai là thù ta. 6) Cách mệnh thì phải làm thế nào?. Cùng với
tác phẩm Đường cách mệnh, Bản án chế độ thực dân Pháp và các bài báo
truyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin với những bí danh đồng chí Vương; Lý
Thuỵ (1924); Thầu Chín (1928); Tống Văn Sơ (1931) , Người đã giáo dục -
đào tạo thanh niên Việt Nam theo một phương thức mới kết hợp lý luận và
thực tiễn, học đi đôi với hành chuẩn bị cho việc thành lập một chính đảng của
giai cấp công nhân Việt nam. Trong Cương lĩnh của Đảng về vấn đề giáo dục
đã cô đọng bằng chiến lược “ phổ thông giáo dục theo công nông hoá” đã thể
hiện rõ quyền lợi học tập của đông đảo tầng lớp công - nông. Bác đã kêu gọi
toàn Đảng nhận thức sâu sắc nhiệm vụ: Thực hành giáo dục toàn dân. Những
tư tưởng này được thực thi ngay từ khi thành lập nước Việt nam dân chủ cộng
hoà và đã tạo nền móng vững chắc cho nền giáo dục Việt Nam.
- Vai trò cá nhân
Là Người xuất thân trong gia đình nhà nho, Nguyễn Sinh Cung đã sớm
hấp thụ một nền Quốc học và Hán học. Thời kỳ ở Trường Quốc học Huế, thập
24
kỷ đầu của thế kỷ XX, các phong trào đòi tự do dân chủ ở nước ta phát triển.
Đó là: Phong trào Duy Tân (1902-1910) do nhà yêu nước Phan Bội Châu lãnh
đạo; Phong trào Đông Du (1906- 1908), Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục
(1907) dưới các hình thức tuyên truyền cải cách, cổ vũ lòng yêu nước; vận
động cải cách văn hoá, xã hội, đả kích bọn vua quan phong kiến thối nát
v.v Người đã tìm hiểu và chịu ảnh hưởng của các phong trào này. Chính
Người là mẫu hình du học tự túc chân chính, năng động nhất. Khi ra nước
ngoài, Người là một thanh niên Việt Nam bôn ba nhiều nước với tinh thần tự
học cao, liên tục trong cả điều kiện khó khăn gian khổ nhất, học trong tù
ngục. Hồ Chí Minh đã thành thạo nhiều ngoại ngữ (có đến 28 ngoại ngữ) và
vận dụng nó vào công tác cách mạng. Người đã dùng báo chí để làm vũ khí
để vạch rõ bản chất thực dân cho nhân dân thế giới biết. Người có thể viết văn
Anh, văn Pháp như một nhà báo phương Tây, nhưng khi có nhu cầu " tự
bạch" thì Người lại làm thơ chữ Hán. Chính điều đó làm nên một nét đặc sắc
ở Hồ Chí Minh, một con người tượng trưng cho sự kết hợp hài hoà văn hoá
Đông - Tây. Con người ấy, trên hành trình cứu nước, đã biết làm giàu trí tuệ
của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại: Đông, Tây, vừa thâu hái, vừa gạn lọc
để có thể từ tầm cao của tri thức nhân loại mà suy nghĩ và lựa chọn, kế thừa
và đổi mới, vận dụng và phát triển. Bút tích của Người có thể khái quát trên
23 thể loại như: bài đăng báo, bài phát biểu, bài viết nhân kỷ niệm, báo cáo,
chúc mừng, công hàm, di chúc, điếu, điếu văn, khen ngợi, lệnh, lời cảm ơn,
lời chia buồn, lời kêu gọi, lời nhắc nhở căn dặn, nhật ký, sách, thơ, thư, trả
lời, truyện, tuyên bố, tuyên ngôn và các dạng khác với trên 58 bút danh đã tìm
thấy. Tìm hiểu về Người ta có thể nhận thức được những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, Quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, người đã hoàn thiện
cho mình một vốn văn hoá, vốn chính trị và vốn sống thực tiễn phong phú, tạo
thành một bản lĩnh trí tuệ. Cái bản lĩnh đó đã nâng cao khả năng độc lập, tự