Tải bản đầy đủ (.pdf) (147 trang)

nghiên cứu tình hình, đặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị bệnh trứng cá có bôi corticoid bằng uống isotretinoin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.3 MB, 147 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ



TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI







HUỲNH VĂN BÁ







NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH, ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU
TRỊ BỆNH TRỨNG CÁ CÓ BÔI CORTICOID BẰNG UỐNG
ISOTRETINOIN






LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC












HÀ NỘI 2011

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ


TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI






HUỲNH VĂN BÁ





NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH, ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU
TRỊ BỆNH TRỨNG CÁ CÓ BÔI CORTICOID BẰNG UỐNG

ISOTRETINOIN



Chuyên ngành Da Liễu
Mã số: 62.72. 35.01



LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS. PHẠM VĂN HIỀN

2. PGS.TS. NGUYỄN TẤT THẮNG









HÀ NỘI 2011









Một số chú ý dành cho Nguyên trước khi in trang bìa:
- Tạo đường viền đôi chung quanh
- In nhũ trang bìa (trang đầu tiên), trang sau (trang phụ) in trắng đen bình thường
- Gáy sách:
HUỲNH VĂN BÁ CHUYÊN NGÀNH DA LIỄU HÀ NỘI- 2011








THÔNG TIN TÓM TẮT VỀ NHỮNG KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN TIẾN SĨ

Tên đề tài: Nghiên cứu tình hình , đặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị bệnh trứng cá có
bôi corticoid bằng uống isotretinoin.
Mã số: 62.72.35.01
Chuyên ngành: Da Liễu
Nghiên cứu sinh: Huỳnh Văn Bá
Người hướng dẫn: PGS.TS. Phạm Văn Hiển - PGS. TS. Nguyễn Tất Thắng
Cơ sở đào tạo: Trường Đại Học Y Hà Nội
Những kết luận mới của luận án:
Qua nghiên cứu 411 bệnh nhân trứng cá có bôi corticoid trong giai đoạn nghiên
cứu tình hình, đặc điểm lâm sàng, một số yếu tố liên quan và 237 bệnh nhân trứng cá có

bôi corticoid trong giai đoạn nghiên cứu kết quả điều trị bằng uống isotretinoin, được
thực hiện tại Bệnh Viện Da Liễu Cần Thơ từ 04/2008- 10/2009, một số kết luận được rút
ra như sau:
- Tỉ lệ bệnh trứng cá có bôi corticoid (74,7%), nữ (65%), nhóm tuổi thường gặp
26-30 (31,6%), tỉ lệ nhiễm ký sinh trùng gây bệnh trên da: Demodex (18,5%), nấm
(12,9%), đồng nhiễm Demodex và nấm (11,2%).
- Sau 10 tuần điều trị các bệnh nhân trứng cá có bôi corticoid bằng uống
isotretinoin liều 0,3-0,4mg/kg/ngày: Đạt kết quả tốt (41%), khá (35,2%), trung bình
(22,1%) và kém (1,6%); tốt hơn điều trị bằng doxycyclin đạt kết quả tốt (1,7%), khá
(14,8%), trung bình (55,7%), kém (27,8%).
- Một số tác dụng không mong muốn: Khô môi (91%), đỏ da vùng mặt (25,5%),
trứng cá bùng phát (23%). Các biểu hiện giảm dần sau khi giảm liều sử dụng.
- Isotretinoin qua đường uống có thể phù hợp trong chỉ định điều trị bệnh trứng cá
có bôi corticoid, đặc biệt ở những trường hợp có làn da nhạy cảm không thích hợp với
thuốc bôi điều trị. Uống isotretinoin liều thấp có thể hạn chế tác dụng không mong muốn
Người hướng dẫn Nghiên cứu sinh





PGS.TS. PHẠM VĂN HIỂN Huỳnh Văn Bá


1



ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh trứng cá là một bệnh rất thƣờng gặp, có thể khởi phát từ thời niên

thiếu, đến tuổi trƣởng thành, có khi kéo dài đến tuổi 35- 44 [1]. Bệnh thƣờng
khơng ảnh hƣởng nghiêm trọng đến tính mạng. Tuy nhiên, sự tồn tại của tổn
thƣơng hay sẹo trên da, nhất là vùng mặt, làm giảm tính mỹ quan, ảnh hƣởng rất
lớn đến chất lƣợng cuộc sống.
Các tổn thƣơng của trứng cá xuất hiện do nhiều yếu tố phối hợp với nhau.
Đó là sự tăng tiết chất bã của tuyến bã, sừng hóa cổ tuyến bã và các vi khuẩn.
Các yếu tố trên chịu sự chi phối của nhiều yếu tố nhƣ: Tuổi tác, giới tính, di
truyền, nội tiết thuốc, khí hậu,thời tiết, trạng thái tâm lý, thói quen sử dụng mỹ
phẩm,
Ở Việt Nam, nhất là tại các tỉnh thành thuộc khu vực
đồng bằng sông Cửu Long, việc sử dụng tuỳ tiện các sản
phẩm bôi có chứa corticoid với nhiều mục đích: Làm trắng, trị nám hay
trị mụn trứng cá hiện đang rất phổ biến. Một trong những sản phẩm đó là
kem trộn, là một loại hỗn hợp gồm nhiều loại kem, mà trong đó có chứa
corticoid, là sản phẩm do ngƣời bệnh tự ý pha trộn với nhau. Ngồi ra, một số
loại thuốc bơi có chứa corticoid nhƣ: Trangalar, silkron (ngƣời dân thƣờng quen
gọi kem bảy màu), cortibion, cũng đƣợc ngƣời bệnh sử dụng một cách rất tùy
tiện vào các mục đích trên. Trong thời gian đầu ngƣời sử dụng các loại kem trộn
thƣờng có cảm nhận da có vẻ trắng hơn, các vết thâm trên da phai đi nhanh
chóng, các tổn thƣơng trứng cá cũng giảm đi rõ rệt. Nhƣng sau một thời gian tiếp
tục sử dụng, rất nhiều tác hại đã xảy ra nhƣ: Giãn mạch, ngứa, đỏ da kéo dài,
trứng cá mụn mủ bộc phát, da trở nên rất nhạy cảm, tình trạng tái vƣợng bệnh do


2



corticoid gây nên trạng thái bất an về mặt tâm lý cho rất nhiều bệnh nhân [3].
Đối với những trường hợp bệnh trứng cá có sử dụng corticoid bôi

trước đó, bệnh cảnh lâm sàng trở nên rất phức tạp vì vừa có các tổn thƣơng
trứng cá, vừa có biểu hiện các tác dụng khơng mong muốn do corticoid gây nên.
Viêm da quanh miệng, trứng cá đỏ, tổn thƣơng dạng trứng cá, đặc biệt là sự xuất
hiện của ký sinh vật gây bệnh (Demodex), là những biểu hiện do tác dụng khơng
mong muốn của corticoid bơi rất thƣờng gặp. Chính sự phối hợp với các biểu
hiện trên đã làm cho bệnh trứng cá có một bệnh cảnh lâm sàng phức tạp và
thƣờng khơng đáp ứng hoặc đáp ứng kém với các chỉ định điều trị thơng thƣờng.
Tình hình bệnh trứng cá nói chung đã đƣợc nhiều nghiên cứu trƣớc đây,
nhƣng bệnh trứng cá trên bệnh nhân có bơi corticoid rất ít đƣợc nghiên cứu. Đặc
biệt tại Việt Nam chƣa có đề tài nào đề cập đến, trong khi đây là một thực trạng
đang rất phổ biến.
Xuất phát từ thực tế đó, chúng tơi thực hiện đề tài “nghiên cứu tình hình,
đặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị bệnh trứng cá có bơi corticoid bằng uống
isotretinoin”, nhằm hai mục tiêu:
1. Khảo sát tình hình, đặc điểm lâm sàng và một số yếu tố liên quan đến bệnh
trứng cá có bơi corticoid tại BVDL Cần Thơ từ 4/2008- 10/2009.
2. Đánh giá kết quả điều trị bệnh trứng cá có bơi corticoid bằng uống
isotretinoin.


3



CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Bệnh trứng cá
1.1.1. Khái niệm về bệnh trứng cá
Trứng cá là một bệnh lý của nang lông tuyến bã, do sự tăng bài tiết quá
mức chất bã nhờn, đi kèm với tình trạng sừng hoá cổ nang lông và sự viêm

nhiễm ở nang lông tuyến bã. Có tới 80% ngƣời trƣởng thành bị trứng cá. Trong
đó có 10% trƣờng hợp cần điều trị, do diễn tiến bệnh quá lâu, do có nhiều biến
chứng, hay có kèm theo nhiều rối loạn khác [10],[20].
1.1.2. Một số yếu tố liên quan đến bệnh trứng cá
1.1.2.1. Bệnh trứng cá liên quan đến tuổi
- Trứng cá sơ sinh (neonatal acne)
Đây là một dạng trứng cá hiếm gặp, có thể xuất hiện sau khi sinh đến 1
tháng sau sinh, do ảnh hƣởng của androgen ngƣời mẹ. Tổn thƣơng xuất hiện
đơn dạng, chủ yếu là sẩn màu trắng bằng hạt tấm, đặc biệt ở hai bên má, thóp
mũi và tự khỏi sau 2-3 tuần [104]
- Trứng cá trẻ em (infantile acne)
Thƣờng gặp ở bé trai, nhất là từ 3 – 18 tháng tuổi, có thể kéo dài đến 3
tuổi. Tổn thƣơng tƣơng tự với trứng cá ngƣời lớn, nhân trứng cá đầu trắng, đầu
đen, sẩn, mụn mủ. Một ngƣời đã bị bệnh trứng cá ở tuổi trẻ em có nhiều khả
năng sẽ bị trứng cá nặng ở tuổi thanh thiếu niên. Tỉ lệ trứng cá dạng này đƣợc
ghi nhận ở Do Thái 19%, dân di cƣ của Nam Tƣ trƣớc kia 12%,và ở Ý 6% [80].


4



- Bệnh trứng cá thông thường ở tuổi thanh thiếu niên (acne vulgaris)
Bệnh trứng cá bắt đầu rất sớm vào lứa tuổi thanh thiếu niên, có thể là biểu
hiện sớm của lứa tuổi dậy thì. Ở độ tuổi thiếu nữ, trứng cá có thể là biểu hiện báo
trƣớc của tình trạng bắt đầu có kinh trƣớc hơn một năm [58].
Tuổi bắt đầu bị trứng cá ở nữ từ 12-13 tuổi, ở nam từ 14-15 tuổi. Tuyệt đại
đa số các trƣờng hợp bị trứng cá rơi vào tuổi 17-18 (ở nữ), 19-21 (ở nam) [58].
- Bệnh trứng cá ở tuổi trưởng thành (post adolescent acne).
Bệnh thƣờng xuất hiện ở những bệnh nhân tuổi trên 25, bao gồm: Bệnh

trứng cá khởi phát muộn (late onset acne), là một dạng trứng cá khởi phát lần
đầu tiên sau 25 tuổi. Bệnh trứng cá dai dẳng (persistent acne), là trứng cá xuất
hiện trong tuổi dậy thì, tiếp tục kéo dài đến sau 25 tuổi. Nhiều tác giả cho rằng
bệnh trứng cá tuổi trƣởng thành có liên quan đến một số yếu tố nhƣ: Sử dụng mỹ
phẩm, stress, vi khuẩn kháng thuốc, rối loạn nội tiết, yếu tố gia đình (50% ngƣời
trong gia đình bị trứng cá tuổi trƣờng thành)[1],[21]. Một nghiên cứu cho thấy:
85% bệnh trứng cá có diễn tiến nặng hơn liên quan đến chu kỳ kinh nguyệt, 67%
liên quan đến stress, 27% liên quan đến thức ăn, 65% có liên quan đến giai đoạn
mang thai [21].
1.1.2.2. Bệnh trứng cá liên quan đến giới tính
- Bệnh trứng cá ở nam: Bệnh trứng cá nam giới phát triển trong khoảng 13
- 14 tuổi, tỉ lệ mắc cao nhất trong khoảng 19 - 21 tuổi [29]. Ở nam giới: Trứng cá
bọc, trứng cá tối cấp có tỉ lệ cao hơn nữ [23].
- Bệnh trứng cá ở nữ: Bệnh trứng cá nữ bắt đầu xuất hiện trong khoảng
12- 13 tuổi, tỉ lệ mắc cao nhất trong khoảng 17-18 tuổi.


5



Bệnh trứng cá bùng phát ở giai đoạn tiền kinh nguyệt là bệnh thƣờng gặp
trong phụ nữ bị trứng cá. Theo một vài số liệu thống kê cho thấy hơn 60 - 70%
phụ nữ có bùng phát trứng cá trong một thời gian ngắn trƣớc khi có kinh [23].
Một số nghiên cứu cho thấy mụn trứng cá kéo dài và mụn trứng cá khởi phát
muộn thƣờng gặp nhiều ở phụ nữ hơn, so với nam giới [21].
1.1.2.3. Bệnh trứng cá liên quan đến sử dụng mỹ phẩm
Nghiên cứu của Kligman và cộng sự: 95% tình trạng phát ban dạng trứng
cá mức độ nhẹ ở ngƣời trƣởng thành liên quan đến sử dụng mỹ phẩm [10].
Một số báo cáo cho thấy: Gần 1/3 phụ nữ Mỹ trong độ tuổi từ 20-50, đặc

biệt giữa tuổi 20-30 xuất hiện trứng cá mụn mủ có liên quan đến mỹ phẩm [50].
1.1.3. Một số hình thái lâm sàng bệnh trứng cá
1.1.3.1. Trứng cá thông thƣờng (acne vulgaris)
- Các tổn thƣơng không viêm
+ Vi nhân trứng cá (microcomedones): Là các nhân trứng cá rất nhỏ, chủ
yếu phát hiện nhờ sinh thiết.
+ Nhân trứng cá đóng, nhân đầu trắng (closed comedones, whiteheads)
Nhân trứng cá đóng hay nhân trứng cá đầu trắng thƣờng có kích thƣớc 0,1- 0,3
mm. Những tổn thƣơng nhỏ có thể khỏi tự nhiên trong vòng 3- 4 ngày, những
tổn thƣơng lớn, với đƣờng kính lớn hơn 1- 5mm, có thể tồn tại trong nhiều tuần
hay nhiều tháng.
+ Nhân trứng cá mở, nhân đầu đen (open comedones, blackheads)
Nhân trứng cá mở hay trứng cá đầu đen, có kích thƣớc 0,1- 3,0 mm. Đầu đen
trên nhân trứng cá có thể do melanin hoặc do oxy hóa chất bã nhờn.


6



+ Nhân trứng cá lớn (macrocomedones)
Nhân trứng cá lớn hay vi trứng cá dạng nang thƣờng xuất hiện với hình
ảnh nhân trứng cá đầu trắng, đôi khi là nhân trứng cá đầu đen. Kích thƣớc
thƣờng lớn hơn 3mm đƣờng kính, trung bình 3-5 mm đƣờng kính.
+ Nhân trứng cá hỗn hợp (miscellanous)
Đƣợc biểu hiện với nhiều nhân trứng cá đầu trắng, nhỏ, làm da thô ráp.
- Các tổn thƣơng viêm
+ Các tổn thƣơng viêm nông: Có thể là các sẩn hay mụn mủ, kích thƣớc
nhỏ hơn 1 cm đƣờng kính, trung bình 1-3 mm.
+ Các tổn thƣơng viêm sâu: Xuất hiện dƣới dạng nốt hay các mụn mủ sâu.

Các nốt có thể xuất hiện với các tổn thƣơng nhỏ với kích thƣớc 5- 10 mm và các
nốt lớn với kích thƣớc 2-3 cm đƣờng kính. Các tổn thƣơng dạng nốt lúc đầu rắn
chắc và rất đỏ, về sau mềm hơn, vỡ ra, tạo thành vảy tiết xuất huyết.
- Sẹo (scarring): Một số trƣờng hợp trứng cá, do phản ứng quá mức với vi
khuẩn P.acnes gây ra nhiều hình thái sẹo khác nhau: sẹo lõm, sẹo phì đại, sẹo lồi
có các lỗ dò, ảnh hƣởng về thẩm mỹ và tâm lý ngƣời bệnh [24].
1.1.3.2. Một số hình thái lâm sàng khác
- Trứng cá tối cấp (acne fulminans)
Đây là một bệnh lý tối cấp bùng phát, còn đƣợc gọi là trứng cá loét sốt cấp
tính (acute febrile ulcerative acne). Lâm sàng biểu hiện bằng sự xuất hiện đột
ngột các tổn thƣơng viêm, các mụn mủ lớn nhƣ hạt đậu xanh, hạt lạc, dễ vỡ trên
mặt, lƣng, ngực, nhanh chóng vỡ ra để lại vết loét, đóng vảy tiết nâu (vảy máu),
khi lành để lại sẹo. Bệnh nhân thƣờng sốt, tăng bạch cầu (10.000- 30.000/mm3),
thƣờng kèm đau khớp, đau cơ và một số biểu hiện toàn thân khác [51].


7



- Trứng cá bọc (acne conglobata): Loại trứng cá này còn gọi là trứng cá
mạch lƣơn, tổn thƣơng mang tính chất viêm nhiễm với các tổn thƣơng nhân
trứng cá, nốt, abces, tạo lỗ dò, khi lành để lại sẹo xấu, thƣờng gặp với hình ảnh
sẹo lồi. Bệnh thƣờng gặp ở nam giới [51].
- Trứng cá hoại tử : Khởi đầu bằng sẩn màu đỏ, lõm ở giữa, sau đó hoại
tử đóng mài, để lại sẹo dạng thuỷ đậu. Diễn biến thƣờng kéo dài vài tuần, có khi
mãn tính với những cơn bộc phát liên tục.
- Trứng cá do dùng thuốc (drug -induced acne): Một số thuốc có thể sinh
mụn hay phát ban mụn trứng cá nhƣ androgen, thuốc ngừa thai, corticoid tại chỗ
hoặc toàn thân, ACTH, thuốc chống lao (INH), vitamin B12, thuốc chống động

kinh (barbituriques, hydantoine ), thuốc ức chế miễn dịch (azathioprin,
cyclosporine ).
Vị trí bất thƣờng: Tai, cổ, chi trên.
Sang thƣơng đơn dạng: Sẩn, mụn mủ, hoặc chỉ có nhân trứng cá [28].
Việc sử dụng kem bôi có chứa corticoid là một thực trạng đang rất phổ
biến hiện nay tại Việt Nam, đặc biệt ở các tỉnh thành phía Nam [2].
- Trứng cá do mỹ phẩm (acne cosmetica)
Đặc điểm mụn trứng cá do yếu tố sinh nhân trứng cá: Xuất hiện sau 48
giờ, tổn thƣơng chủ yếu là nhân trứng cá, sẩn, nang, cục, tổn thƣơng nhiều độ
tuổi khác nhau.
Đặc điểm mụn trứng cá do tắc nghẽn cơ học: Xuất hiện sau 24- 48 giờ;
sang thƣơng chủ yếu là mụn mủ, sẩn, đỏ da; phát ban đa số đồng tuổi [25],[68].
- Trứng cá do nghề nghiệp (occupational acne): Tổn thƣơng có đặc điểm
viêm, nhân trứng cá, sẩn, mụn mủ, nốt nang lớn. Các tổn thƣơng trứng cá do
nhựa than thƣờng đi kèm với tình trạng tăng sắc tố.


8



Vị trí tổn thƣơng thƣờng không bị giới hạn trên vùng mặt mà có thể gặp ở
những vùng đƣợc che phủ do sự tiếp xúc thƣờng xuyên với quần áo thấm các
hợp chất trong công nghiệp trong thời gian dài [17].
- Trứng cá do cơ học (acne mechanica): Sự phát ban dạng trứng cá có thể
xuất hiện sau những chấn thƣơng vật lý đối với da, có tính chất lặp đi lặp lại
nhiều lần, nhƣ sự cọ xát. Trứng cá có thể đƣợc sinh ra do sự bịt kín nang lông
của các băng kết dính. Các yếu tố tác động từ bên ngoài cũng có thể làm bùng
phát tình trạng trứng cá hiện có [17].
- Trứng cá trầy sƣớt (acne excoriee des Jeunes Filles) : Đây là dạng

trứng cá thƣờng gặp ở các cô gái trẻ, tính tình dễ kích thích, có thói quen hay cạo
móc các sang thƣơng rất nhỏ, hay thói quen nặn mụn bằng ngón tay biến thành
dạng trầy sƣớt, đóng mài, để lại sẹo mất thẩm mỹ [17],[26].
- Trứng cá đỏ (rosacea) : Trứng cá đỏ là một bệnh lý tuyến bã vùng trung
tâm của mặt. Bệnh thƣờng biểu hiện bằng các tổn thƣơng dạng sẩn hay sẩn mụn
mủ ở vùng trung tâm của mặt, kèm theo giãn các mao mạch. Bệnh có thể phát
triển qua các giai đoạn khác nhau. Ở giai đoạn sớm, biểu hiện chủ yếu là trạng
thái bừng đỏ mặt. Vị trí thƣờng gặp là mũi, má, cằm, trán, da giữa hai chân mày.
Một số vị trí khác cũng có thể gặp tuy hiếm hơn nhƣ vùng hình chữ V của ngực,
cổ, lƣng, da đầu, thậm chí ở các chi, nhƣng hay bị bỏ qua. Lứa tuổi hay bị là 30 -
40, đỉnh cao là 40-50 tuổi. Một số trƣờng hợp nặng, sau nhiều năm có thể dẫn
đến phì đại và biến dạng bộ phận, đặc biệt ở mũi, tạo thành mũi sƣ tử [27]
+ Nguyên nhân của trứng cá đỏ và vai trò của Demodex folliculorum
Nhiều nghiên cứu cho thấy vai trò quan trọng của Demodex folliculorum
và Demodex brevis trong bệnh sinh học của trứng cá đỏ. Sự phát ban rất giống
với trứng cá đỏ, có liên quan đến số lƣợng lớn Demodex folliculorum.


9



+ Biểu hiện lâm sàng của trứng cá đỏ
Tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán trứng cá đỏ là xuất hiện giai đoạn bừng đỏ
mặt trƣớc, sau đó có các sẩn, hay các sẩn mụn mủ, hồng ban, giãn mạch Dần
dần có thể thấy các biến đổi u hạt (granulomatous) với biểu hiện lâm sàng là mũi
sƣ tử, đặc biệt xảy ra ở đàn ông. Trứng cá đỏ tiến triển qua nhiều giai đoạn.
+ Trứng cá đỏ do corticosteroid (corticosteroid - induced rosacea): Việc
sử dụng trên mặt thuốc bôi có chứa corticosteroid mạnh thƣờng dẫn đến phát ban
sẩn mụn mủ, đi kèm với tình trạng đỏ da, rất giống với bệnh trứng cá đỏ. Theo

ghi nhận của Chen AYY.(2009): Viêm da giống trứng cá đỏ đƣợc sinh ra do
corticoid thƣờng gặp ở tuổi 40-50. Thời gian xuất hiện bệnh xảy ra trung bình
sau 2 tháng bôi corticoid có hoạt lực mạnh, thông thƣờng nhất sau 6 tháng hoặc
hơn, tỉ lệ nữ cao hơn nam. Tác giả cho rằng sau khi bôi corticoid thời gian dài có
khả năng làm thay đổi cấu trúc và chức năng của da. Sự ức chế sinh tổng hợp
collagen dẫn đến teo da, sự suy giảm mô liên kết lý giải sự dễ dàng quan sát tình
trạng giãn mạch trong lớp bì, tác dụng ức chế miễn dịch của corticoid có thể lý
giải sự phát triển của một số tác nhân gây bệnh nhƣ vi trùng, vi nấm và Demodex
trên da. Isotretinoin uống đƣợc chỉ định với liều thấp 2-5mg mỗi ngày, hoặc
10mg đƣợc sử dụng 2-3 lần mỗi tuần trong 3 tháng mang lại hiệu quả trong điều
trị [46].
- Viêm da quanh miệng: Bệnh thƣờng gặp ở phụ nữ, tổn thƣơng là
những hồng ban, các tổn thƣơng sẩn nhỏ và các mụn mủ đơn dạng, không đều,
bóng, chắc có kích thƣớc bằng đầu đinh ghim. Vị trí: thƣờng xuất hiện xung
quanh miệng, nếp mũi môi, vùng môi trên, cằm, kèm với cảm giác ngứa nhẹ hay
tình trạng kích ứng trên thƣơng tổn.


10



Có rất nhiều yếu tố có liên quan đến viêm da quanh miệng nhƣ các tác
nhân nhiễm khuẩn, nhiễm nấm candida, các yếu tố tiếp xúc, vai trò của nội tiết
tố, đặc biệt ở nữ (sự bùng phát tổn thƣơng trƣớc chu kỳ kinh nguyệt, giai đoạn
mang thai, sử dụng thuốc ngừa thai), các sang chấn về tinh thần,
+ Demodex folliculorum và viêm da quanh miệng: Demodex folliculorum
có thể sinh bệnh và gây ra các hình ảnh phát ban trên mặt đƣợc gọi là vảy phấn
nang lông (pityriasis folliculorum ).
+ Sự liên quan giữa glucocorticoid và viêm da quanh miệng: Nhiều báo

cáo trƣớc đây cho thấy viêm da quanh miệng không đáp ứng với glucocorticoid
bôi mà có thể làm cho bệnh có diễn tiến trầm trọng hơn, thậm chí có thể làm phát
sinh viêm da quanh miệng. Việc điều trị glucocorticoid không thích hợp sẽ dẫn
đến viêm da quanh miệng. Glucocorticoid càng mạnh sẽ càng dễ dẫn đến viêm
da quanh miệng. Có thể chính glucocorticoid gây nên tổn thƣơng các đơn vị
nang lông tuyến bã. Những chứng cứ bệnh học trên cho thấy sử dụng
glucocorticoid bôi có thể tạo nên các u hạt. Ngoài ra, việc sử dụng glucocorticoid
toàn thân cũng có thể dẫn đến viêm da quanh miệng [38].
1.1.4. Cơ chế bệnh sinh bệnh trứng cá
Trứng cá hình thành do sự tác động của nhiều yếu tố, trong đó vai trò
chính là tăng tiết chất bã, sừng hóa cổ nang lông và tăng sinh vi khuẩn gây viêm.
1.1.4.1. Sự tăng tiết bã nhờn
- Chức năng tuyến bã : Bình thƣờng chất bã làm cho da và lông đƣợc
mềm mại. Ở ngƣời, một ngày tuyến bã tiết ra khoảng 20g chất bã. Sự tăng tiết
chất bã dẫn đến tình trạng da nhờn, thiếu chất bã dẫn đến tình trạng da khô tróc


11



vảy. Khi chất bã bị ứ đọng sẽ tạo thành trứng cá, nhân đầu trắng, nhân đầu đen
hay u nang tuyến bã.
Tuyến bã nhờn chịu sự kiểm soát của nội tiết tố, chủ yếu là androgen. Vào
giai đoạn sớm của tuổi dậy thì, có sự gia tăng androgen của thƣợng thận và
androgen sinh dục, những androgen này kích thích sự tăng tiết của tuyến bã
nhờn. Sự gia tăng này đạt đến đỉnh điểm vào lứa tuổi 16- 20. Sau đó, mức độ này
duy trì và giảm dần vào lứa tuổi 40 đối với nữ và 50 đối với nam. Nhìn chung
tốc độ bài tiết chất bã nhờn ở nam giới cao hơn đáng kể so với nữ giới. Tuyến
yên có vai trò quan trọng kiểm soát sự sản sinh androgen, thông qua con đƣờng

vỏ thƣợng thận và tuyến sinh dục [58].
- Vai trò của thành phần chất bã nhờn trong bệnh trứng cá : Thành
phần của chất bã nhờn phức tạp, khi chúng chuyển lên ống của các nang lông
tuyến bã, các enzyme ly giải lipid đƣợc sản sinh từ P.acnes và Staphylococcus
epidermidis chuyển hoá triglycerides thành các acid béo tự do.
Theo Shalita A R. (2007): Chất bã nhờn giữ vai trò trọng tâm trong trứng
cá, nếu không có nó, P. acnes không thể phát triển và trứng cá sẽ đƣợc giải quyết
[102]. Một số nghiên cứu khác cho thấy: Sự giảm nồng độ của linoleic acid cũng
là yếu tố quan trọng sinh nhân trứng cá [55].
- Vai trò của hormon đối với tuyến bã nhờn trong bệnh sinh trứng cá :
Có sự bất thƣờng trong điều khiển của tuyến yên. Hoặc do sự gia tăng bất
thƣờng sự sản xuất androgen của tuyến thƣợng thận hoặc tuyến sinh dục. Sự gia
tăng đáp ứng cơ quan đích của tuyến bã nhờn đối với mức độ bình thƣờng của
hormon trong tuyến bã nhờn. Trong thực tế, có thể có sự phối hợp của nhiều yếu
tố khác nhau trong sự gia tăng sản xuất chất bã nhờn trong bệnh trứng cá [57].


12



- Androgen và cơ chế sinh bệnh trứng cá: Androgen bao gồm các
steroid 19 carbon, đƣợc tổng hợp trong các mô nội tiết (tuyến thƣợng thận,
buồng trứng, tinh hoàn) từ cholesterol hoặc qua sự chuyển đổi từ androgen tiền
thân khác từ mô ngoại vi (gan, mô mỡ, da). Trong đó đƣợc nhắc nhiều đến là:
Dehydroepiandrosterone (DHEA) và chất chuyển hoá DHEA sulfate (DHEAS),
androstenedione (A), testosterone (T) và chất chuyển hoá có tác dụng mạnh 5-
dihydro testosterone (DHT). Hệ thống men cần thiết trong quá trình sinh tổng
hợp steroid là cytochrome P450 (CP450), hydroxysteroid dehydrogenase (HSD).
DHEAS, A là các tiền hormone, đƣợc chuyển đổi thành androgen hoặc estrogen

dạng hoạt động lần lƣợt bởi các men 3 HSD, 17- HSD hoặc aromatase tại mô
ngoại vi. Nồng độ và tỉ lệ hoạt tính các men khác nhau giữa các vị trí ngoại vi.
Điều này giải thích do việc mẫn cảm với androgen khác nhau giữa các vùng da
cơ thể.
Gần đây ngƣời ta cũng chỉ ra rằng các tế bào tiết bã có các neuropeptide
đặc biệt là chất P. Peptide này ảnh hƣởng đáng kể và liên tục lên kích thƣớc và
số lƣợng của từng tuyến bã, góp phần vào các biến đổi bất thƣờng trong biệt hóa,
tăng sinh cũng nhƣ tổng hợp lipid [14].
Nghiên cứu của Gancevicience R. (2009) cho thấy hệ thống CRH
(corticotropin–releasing hormon) có liên quan đến hoạt động của tuyến bã nhờn,
tác động đến quá trình viêm và miễn dịch làm gia tăng độ trầm trọng của trứng
cá [65].
1.1.4.2. Dày sừng cổ nang lông tuyến bã
Khi nang lông nhất là cổ nang lông tuyến bã bị sừng hóa làm cho ống bài
xuất tuyến bã bị hẹp lại, khiến cho chất bã bị ứ lại trong lòng tuyến bã. Nếu


13



không bị bội nhiễm, chất bã cô đặc lại thành nhân trứng cá (quá trình hình thành
nhân trứng cá trung bình 30 ngày). Nếu có bội nhiễm, tuyến bã sẽ có mủ, quá
trình viêm nhiễm lan sang tuyến bã khác, gây nên trứng cá bọc, trứng cá viêm
tấy [10].
Cơ chế của sự tăng sừng :
- Đáp ứng bất thƣờng của androgen trên ống dẫn nang lông tuyến bã:
Nhiều nghiên cứu cho thấy, các receptor androgen đƣợc tìm thấy trên cả tuyến bã
và ống dẫn nang lông tuyến bã.
- Sự thay đổi của lipid: Các thành phần lipid trên bề mặt da nhƣ squalene,

squalene peroxides, oleic acid, peroxides của oleic làm tăng quá trình sừng hóa
cổ tuyến bã góp phần làm tăng kích thƣớc của các nhân trứng cá. Một số nghiên
cứu khác cho thấy có sự liên quan giữa các yếu tố sinh nhân mụn và mức độ thấp
của linoleic acid trên bề mặt da. Các tác giả đã nhận thấy có sự thấp hơn đáng kể
nồng độ linoleic acid ở những bệnh nhân trứng cá so với ngƣời bình thƣờng.
Strauss và cộng sự trong nghiên cứu cho thấy sự tăng tiết chất bã và sự thiếu hụt
của linoleic acid tại chỗ liên quan đến sự hình thành nhân trứng cá [57].
Lý do khác có khả năng liên quan đến sự sản sinh ra nhân trứng cá là nồng độ
lipid của chính các nang lông. Sự ly giải lipid của vi trùng sẽ phóng thích các
acid béo từ các triglycerid của chất bã, đó là yếu tố sinh ra nhân trứng cá [57].
- Vai trò của cytokine trong sự hình thành nhân trứng cá: Các nghiên
cứu của Keeley và cộng sự đã cho thấy cytokines có ảnh hƣởng đáng kể đến sự
hình thành nhân trứng cá [37]. Những nghiên cứu gần đây trên các nang lông của
trứng cá cho thấy cytokines nhƣ interleukin (IL)-1a điều chỉnh sự sừng hoá của
biểu bì và có thể có liên quan đến sự sinh ra tình trạng viêm nhiễm của các nhân
trứng cá [56].


14



- Sự liên quan giữa vi khuẩn và sự sừng hóa trong ống dẫn tuyến bã:
Các nghiên cứu đã cho thấy nhân trứng cá trong giai đoạn đầu không
chứa vi khuẩn. Tuy nhiên, việc điều trị chống nhiễm khuẩn có thể làm giảm nhân
trứng cá, thậm chí sau 4 tuần điều trị. Các yếu tố chống vi khuẩn có tác dụng ức
chế lipase của vi khuẩn , làm giảm các acid béo tự do trong tuyến bã nhờn.
Chất bã bị tắc nghẽn không đào thải đƣợc trở thành nơi nuôi dƣỡng vi khuẩn,
nhất là P.acnes. Khi tuyến bã bị tắc nghẽn, chất bã bị ứ đọng bên trong nang tạo
điều kiện P.acnes tăng cƣờng sinh sản, tạo ra các hoá chất làm viêm nhiễm nang

lông và vùng da xung quanh [56].
1.1.4.3. Yếu tố vi sinh
Có một số vi sinh tham gia vào căn sinh bệnh học của bệnh trứng cá nhƣ
pityrosporum ovale, pityrosporum orbicular, tụ cầu, P.acnes. Trong số các vi
sinh này, P.acnes đƣợc coi là vi khuẩn quan trọng nhất trong căn sinh bệnh học
bệnh trứng cá. P.acnes là một loại vi khuẩn gram dƣơng kỵ khí, phát triển tốt
nhất trong điều kiện pH bằng 5- 5,6, nhiệt độ 30 – 37
0
c. Trên những cơ địa tăng
tiết bã nhờn, có dày cổ nang lông tuyến bã là điều kiện cho vi khuẩn kỵ khí phát
triển. Trong đó, P.acnes giữ vai trò chính trong sự phát sinh bệnh trứng cá [54].
Một số nghiên cứu đã xác định những sản phẩm đƣợc tiết ra từ P. acnes nhƣ
lipase, protease, hyaluronidase và một số yếu tố hoá hƣớng động bạch cầu là
những yếu tố tiền viêm nhiễm. Lipase thuỷ phân triglycerides thành acid béo tự
do. Đây là chất khích thích khởi đầu, sinh nhân trứng cá [54],[106].
Ngoài ra, P.acnes còn sản xuất ra porphyrins, chính điều này đã khiến một
số tác giả sử dụng ánh sáng wood để phát hiện gián tiếp sự có mặt của P.acnes.


15



Nghiên cứu của Akaza N.(2008) cho thấy P.acnes liên quan đến cơ chế
bệnh sinh trứng cá không chỉ sinh ra phản ứng viêm mà còn gây ra sự khác biệt
trong các tế bào sừng [32].
1.1.4.4. Tình trạng viêm nhiễm
Các tổn thƣơng viêm đa dạng, bao gồm:
Các tổn thƣơng nông: Dát, sẩn và mụn mủ.
Các tổn thƣơng sâu trong da: Biểu hiện bằng kén nang hay các mụn mủ

sâu.
Theo nghiên cứu của Ingham và cộng sự về nồng độ của cytokine tiền
viêm trong các nhân trứng cá cho thấy có sự xuất hiện interleukins IL-1α, IL-β và
IL-6 phối hợp với yếu tố hoại tử bƣớu (TNF-α). Nhiều nghiên cứu đã cho thấy
vai trò quan trọng của P.acnes đối với tình trạng viêm nhiễm trong trứng cá [53].
Theo Lyte P.(2009): Các biểu hiện của trứng cá do P.acnes gây ra các phản ứng
viêm không những khi vi khuẩn còn sống mà ngay cả khi vi khuẩn đã bị tiêu
diệt, cấu trúc của màng tế bào vi khuẩn đã chết cũng có thể kích thích gây nên
phản ứng viêm [94].
1.1.4.5. Một số yếu tố khác
- Stress: Một số nghiên cứu gần đây cho thấy: Tuyến bã ở ngƣời có những
thụ thể chức năng với một số chất trung gian thần kinh nhƣ adrenocorticotropin,
hormon kích thích tế bào sắc tố và chất P. Chất này góp phần vào biệt hoá, tăng
sinh và tổng hợp lipid của tuyến bã. Do vậy, vai trò của stress đối với mụn có lẽ
liên quan đến sự phóng thích các chất trung gian này. Hơn nữa, các tế bào mỡ có
cơ chế tế bào, chuyển hoá androgen gây tăng tiết bã nhờn. Nhiều tác giả đã nhấn


16



mạnh đến tác động nội tiết- thần kinh của các tế bào mỡ và mối liên hệ giữa
stress và bệnh trứng cá [6],[22],[60].
Những yếu tố liên quan đến sự khởi phát muộn của bệnh trứng cá, bao
gồm nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có stress [21],[72].
- Chế độ ăn: Một số nghiên cứu của Mỹ đã đƣa ra mối quan hệ mật thiết
giữa việc tiêu thụ sữa và mụn. Có thể là vì trong sữa có chứa nhiều thành phần
gọi là insulin, giống nhƣ những nhân tố tăng trƣởng trong cơ thể [31]. Một
nghiên cứu khác của Dae Hun Suh cho thấy chế độ ăn nhiều đƣờng, mỡ và ở

những ngƣời có chế độ ăn không điều độ làm trầm trọng hơn bệnh trứng cá
[37],[72].
Nghiên cứu của Wikipedia (2008): Những thức ăn nhiều đƣờng có khả
năng chuyển thành dạng chất béo dự trữ tích tụ lại trong tuyến bã nhờn, làm phát
sinh mụn trứng cá [114].
Một ghi nhận khác: Tỉ lệ trứng cá ở ngƣời inuits thấp, khi họ có thói quen
ăn nhiều cá, nhƣng tỉ lệ này tăng lên đáng kể khi họ chuyển đến phía Tây
(Canada) với thức ăn nhiều chất béo bảo hòa. Ghi nhận tƣơng tự khi ngƣời Nhật
di cƣ đến Hawaii với thói quen tiêu thụ thức ăn theo ngƣời Mỹ [44],[71].
Nghiên cứu của Law M P.(2009): Theo ứng dụng quan điểm của y học cổ
truyền Trung Quốc TCM (Traditional Chinese Medicine), chế độ ăn và trứng cá
có mối liên hệ quan trọng nhau [88].
- Tẩy rửa: Quá thƣờng xuyên, lạm dụng xà phòng càng kích thích tăng
tiết bã, tăng nguy cơ hình thành trứng cá [12].
Theo ghi nhận của Burns T.(2004): Muối của các acid béo trong các xà
phòng thông thƣờng có khả năng sinh nhân trứng cá khi sử dụng quá dƣ thừa
[44].


17



- Môi trƣờng: Các chất béo động vật trong môi trƣờng, không khí của các
tiệm bán thức ăn nhanh, những công nhân cơ khí tiếp xúc thƣờng xuyên với dầu
nhờn của động cơ, độ ẩm, tia tử ngoại. Sự gia tăng độ ẩm trên bề mặt da ở khí
hậu nóng ẩm có thể làm gia tăng sự trầm trọng của trứng cá, do sự tắt nghẽn ống
nang lông tuyến bã [52],[67].
1.2. Corticoid bôi tại chỗ và trứng cá có bôi corticoid
1.2.1. Corticoid bôi tại chỗ : Đƣợc phân thành 7 loại [112]

Loại
Hoaït tính
Teân döôïc phaåm
Loaïi I
(Rất mạnh)
- Clobetasone dipropionate
- Betamethasone
dipropionate
- Diflorasone diacetate
- Temovate ceam 0,05%
- Diprolene cream 0,05%
- Psorcon ointment 0,05%
Loaïi 2
(Mạnh)
- Amcinonide
- Mometasone fuorate
- Diflorasone diacetae
- Hacinonide
- Fluocininide


- Desoximetasone
- Cyclocort ointment 0,1%
- Elocon ointment 0,1%
- Florone ointment 0,05%
- Halog cream 0,1%
- Lidex gel 0,05%
- Lidex cream 0,05%
- Lidex ointment 0,05%
- Topicort

- Topicort gel 0,05%
- Topicort ointment 0,25%
Loaïi 3
- Triamcinolon acitonide
- Aristocort A ointment 0,1%


18



(Mạnh trên
trung bình)
- Fluticasone propionate
- Amcinonide

- Diflorasone diacetate
- Hacinonide
- Fluocinonide
- Diflorasone diacetate
- Betamethasone valerate
- Cutivate ointment 0,005%
- Cyclocort cream 0,1%
- Cyclocort lotion 0,1%
- Florone cream 0,05%
- Halog ointment 0,1%
- Lidex E cream 0,05%
- Maxiflor cream 0,05%
- Valisone ointment 0,1%
Loaïi 4

(Trung
bình)
- Flurandrenolide
- Mometasone furoate
- Triamcinolone acetonide
- Fluocinolone acetonide
- Cordran ointment 0,05%
- Elocon cream 0,1%
- Kenalog Cream 0,1%
- Synalar ointment 0,025%
Loaïi 5
(Trung
bình yếu)
- Flurandrenolide
- Fluticasone Propionate
- Hydrocortisone butyrate
- Hydrocortison valerate
- Cordran cream 0,05%
- Cutivate cream 0,05%
- Locoid cream 0,1%
- Westcort cream 0,2%

Loaïi 6
(Yếu)
- Aclometasone
dipropionate

- Desonide
- Fluocinolone acetonide


- Aclovate cream 0,05%
- Aclovate ointment 0,05%
- Desowen cream 0,05%
- Synalar lotion 0,01%
- Synalar cream 0,01%
Loaïi 7
(Rất yếu)
Thuốc bôi có Hydrocortisone,
Dexamethasone,
Flumethasone, Prednisolone và



19



Methylprednisolone
-Tác dụng của corticoid bôi: Co mạch, chống tăng sinh, ức chế miễn
dịch và tác dụng chống viêm. Corticoid bôi có tác dụng làm co các mao mạch
lớp bì nông, do đó làm giảm các hồng ban [35]. Tuy nhiên, nếu lạm dụng
corticoid bôi có thể dẫn đến nhiều tác dụng không mong muốn.
Theo Momin D0.(2010): Corticoid bôi dẫn đến sự gia tăng nồng độ của
acid béo tự do trên bề mặt da, làm gia tăng số lƣợng vi khuẩn trong ống nang
lông tuyến bã. Những thay đổi này cùng với acid béo tự do đƣợc hình thành
trong ống dẫn giúp hình thành nhân trứng cá [96].
- Tác dụng không mong muốn của corticoid bôi
+ Làm trầm trọng nhiễm trùng da (aggravation of cutaneous infection)
Corticoid ức chế sự đáp ứng viêm bình thƣờng, liên quan đến quá trình nhiễm
khuẩn và có thể làm trầm trọng hơn các tiến trình này.

Baumann L. (1999):Trong thời gian gần đây, nhiều tác giả đã tìm thấy da
ngƣời sản xuất ra hai loại kháng khuẩn khác nhau, LL-37 và @- Defensin. Việc
sử dụng corticosteroid bôi có thể ức chế sự sao chép của các gen mã hoá cho các
loại peptid này, làm cho các nhiễm trùng da trở nên trầm trọng hơn [35].
Nghiên cứu của Angela N.(2008) cho thấy: Corticoid bôi đƣợc xác định
gần đây có khả năng ức chế sự sao chép của các gen mật mã của những peptid
chống vi khuẩn. Vì thế sẽ làm gia tăng nhiễm trùng, ký sinh trùng trên da [34].
+ Trứng cá đỏ do corticosteroid (corticosteroid - induced rosacea)[45]
Việc sử dụng trên mặt thuốc bôi có chứa corticosteroid mạnh thƣờng dẫn
đến phát ban sẩn mụn mủ, đi kèm với tình trạng đỏ da, rất giống với bệnh trứng
cá đỏ. Bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi và thƣờng gặp hơn ở phụ nữ. Thông thƣờng
sau khi thoa corticosteroid mạnh sau 8 tuần hoặc lâu hơn sẽ xuất hiện trứng cá đỏ


20



do corticoid. Nếu tiếp tục thoa, tình trạng giãn mao mạch và đỏ da phát triển,
xuất hiện các hình ảnh tƣơng tự trứng cá đỏ tự phát. Các bệnh nhân thƣờng có
biểu hiện kích ứng với cảm giác ngứa, nóng và đỏ da dữ dội. Khi ngƣng sử dụng
corticoisteroid, sự phát ban bùng phát vẫn tiếp diễn dẫn đến sự phụ thuộc thuốc.
Theo Habif T.P. (2010): Sự xuất hiện Demodex đƣợc tìm thấy trong trứng
cá đỏ. Isotretinoin đƣợc chỉ định với liều 0,5mg/kg/ngày mang lại hiệu quả trong
điều trị [77]. Plewig G., Jansen T. sử dụng isotretinoin liều thấp 0,1-
0,2mg/kg/ngày trong điều trị trứng cá đỏ, thƣờng có hiệu quả đối với các trƣờng
hợp trứng cá đỏ thể nặng [99].
+ Viêm da quanh miệng liên quan đến corticoid bôi: Glucocorticoid
càng mạnh sẽ càng dễ dẫn đến viêm da quanh miệng.
Theo Habif T.P. (2010): Sự ẩm ƣớt thƣờng xuyên kéo dài, sự suy giảm

chức năng bảo vệ của da, sự tăng sinh của các yếu tố vi sinh trên da, tình trạng
tắt nghẽn, có thể có liên quan đến sự xuất hiện của viêm da quanh miệng sau khi
bôi corticoid [76].
Theo Thomson J. (1999): Demodex folliculorum có liên quan đến bệnh
sinh học của viêm da quanh miệng. Chính corticoid có thể gây gây tổn thƣơng
đơn vị nang lông tuyến bã trong sự phát sinh viêm da quanh miệng [108].
Ghi nhận của Lebwohl M G. (2010): Isotretinoin đƣợc chỉ định trong đìều
trị viêm da quanh miệng không đáp ứng với điều trị thông thƣờng [90].
+ Trứng cá do corticoid (corticoid acne): Một biểu hiện rất thƣờng gặp
do bôi corticoid, có hai nguyên nhân có thể xảy ra:
Có thể do chính corticoid hay do tá dƣợc gây ra, đặc biệt là một số chất
bảo quản, có khả năng gây rối loạn sừng hóa nang lông tuyến bã, làm phát sinh
nhân trứng cá.


21



Theo Fitzpatrick T B. (1999): Corticoid có thể gây nên viêm nang lông, có
thể xảy ra sớm sau 2 tuần sử dụng, có sự tăng sừng đƣợc tìm thấy trên mô học
[63].
Theo Habif T.P. (2010): Trứng cá do corticoid thƣờng xảy ra 2-5 tuần sau
khi bắt đầu sử dụng corticoid [74].
+ Teo da (skin atrophy): Thƣờng gặp khi dùng các dẫn xuất corticoid có
flo, nhất là khi băng kín, hoặc sử dụng trong thời gian dài. Thƣờng thấy sau 2- 6
tháng điều trị ở những vùng da mỏng hoặc da hở. Sự biến đổi này do corticoid ức
chế tế bào xơ và có thể do tác dụng vận mạch của thuốc.
Theo ghi nhận của Berth –Jones J.(2010): Tác dụng không mong muốn do
bôi corticoid thƣờng gặp nhất là teo da, biểu hiện này vừa xảy ra ở cả lớp thƣợng

bì và lớp bì, do sự suy giảm kích thƣớc tế bào thƣợng bì và sự ức chế tổng hợp
collagen [39],[61].
+ Vết rạn da: Có hai loại rạn da
Rạn da do dùng corticoid toàn thân, đó là dấu hiệu của ƣu năng tuyến
thƣợng thận, tổn thƣơng xuất hiện ở vùng da tổn thƣơng và các vị trí khác.
Rạn da do tác động tại chỗ, thƣờng chỉ ở vùng bôi, không kèm theo dấu
hiệu ƣu năng vỏ thƣợng thận, gặp khi dùng dẫn xuất có flo dài ngày.
Trong thực tế, tình trạng rạn nứt da, chủ yếu các nếp kẽ nách, mặt trong
đùi, hay gặp ở những phụ nữ trẻ sử dụng dài ngày các dạng kem có chứa
corticoid với mục đích làm trắng hay dƣỡng da.
+ Teo lớp mỡ dƣới da:Thƣờng gặp ở những trƣờng hợp tiêm corticoid tại
chỗ, hay bôi các dẫn xuất có flo ở những vùng da mỏng lâu ngày, nhất là trẻ con.
+ Mất sắc tố da: Da chỗ bôi corticoid có thể mất sắc tố, thƣờng gặp khi
sử dụng corticoid tiêm trong da. Tuy nhiên, tình trạng trên vẫn có thể xảy ra khi

×