Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị chấn thương tai ngoài tại bệnh viện trung ương huế và bệnh viện trường đại học y dược huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.32 MB, 79 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tai là một trong những cơ quan quan trọng trong cuộc sống và giao tiếp của
con người, là cơ quan có cấu trúc phức tạp với nhiều bộ phận biệt hoá cao độ, phụ
trách nhiều chức năng thiết yếu của con người như cảm nhận âm thanh, điều chỉnh
thăng bằng, định hướng, điều hoà cơ bắp… Tai ngoài, một bộ phận của tai, khơng
những đóng vai trị trong chức năng cảm nhận âm thanh, định hướng mà còn có vị
trí thẩm mỹ trên đầu mặt con người và là một mốc quan trọng để nhận dạng trong
công tác hình sự. Với cấu tạo và vị trí đặc biệt của mình, tai ngồi thường dễ bị tổn
thương và nếu khơng được điều trị đúng cách có thể dẫn đến những biến chứng làm
ảnh hưởng đến chức năng và thẩm mỹ của bệnh nhân.
Báo cáo năm 2002 của Tổ chức Y tế Thế giới cho thấy chấn thương là
nguyên nhân của 5 triệu trường hợp tử vong hàng năm trên toàn thế giới, chiếm 9%
số tử vong chung [27] và tử vong do chấn thương đứng hàng thứ ba trong 19 nhóm
bệnh có có tỷ lệ tử vong cao nhất [6]. Chấn thương không tử vong cũng đóng góp
12% trong gánh nặng bệnh tật toàn cầu. Tại Việt Nam, nghiên cứu dựa vào số liệu
bệnh viện tại 6 tỉnh, thành phố lớn năm 2001 cũng cho thấy chấn thương chiếm
13,3% tổng số các trường hợp nhập viện [27]. Theo Lê Văn Lợi (2001), tỷ lệ các vết
thương thực thể của tai chiếm 2 - 3% tổng số các chấn thương ở người [14]. Theo
Nguyễn Tư Thế (2002), chấn thương tai chiếm 38,2% tổng số chấn thương tai mũi
họng chung [23].
Tùy thuộc vào từng giai đoạn phát triển của đất nước mà ngun nhân và
hình thái của chấn thương tai ngồi có khác nhau. Trong thời chiến, nguyên nhân
chủ yếu là do hỏa khí, nhưng trong thời bình, với sự phát triển mạnh mẽ của cơ sở
hạ tầng thì chủ yếu lại do các tai nạn giao thông, tai nạn lao động hay do ẩu đả…
Ngoài ra, kể từ sau ngày ra Quyết định của Chính phủ về việc bắt buộc người đi xe
máy phải đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thơng (15/12/2007) thì chúng tơi nhận
thấy hình thái của chấn thương tai ngồi lại có phần khác trước.



2

Theo quan sát trên lâm sàng của chúng tôi tại Bệnh viện Trung ương Huế và
Bệnh viện trường Đại học Y Dược H́ thì chấn thương tai ngồi là một bệnh khá
phổ biến, tổn thương đa dạng, dễ chấn đoán. Tuy nhiên, việc điều trị thành cơng hay
khơng cịn tùy thuộc vào nhiều yếu tố như: tình trạng bệnh nhân, mức độ thương
tổn, kinh nghiệm điều trị và đồng thời, do sự hiểu biết về bệnh tật, điều kiện kinh tế
của người dân cịn thấp hoặc do có liên quan đến vấn đề pháp lý nên các chấn
thương tai ngoài cịn ít được coi trọng. Mặt khác, các chấn thương tai ngoài thường
xảy ra ở những bệnh nhân bị chấn thương vùng đầu mặt đe doạ đến tính mạng con
người như chấn thương sọ não, chấn thương hàm mặt… [14] nên khi cấp cứu cũng
ít được quan tâm, dễ bị bỏ sót. Những điều này có thể dẫn đến một số biến chứng
làm ảnh hưởng đến chức năng, thẩm mỹ của tai như co dúm vành tai, hẹp ống tai…
và làm tốn kém thời gian, cơng sức và chi phí điều trị hơn.
Việc chẩn đoán và điều trị sớm chấn thương tai ngoài mang lại kết quả khả
quan hơn, do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài : “Nghiên cứu đặc điểm lâm
sàng và kết quả điều trị chấn thương tai ngoài tại Bệnh viện Trung ương Huế
và Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế” với 2 mục tiêu sau:
1. Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của chấn thương tai ngoài.
2. Đánh giá kết quả điều trị chấn thương tai ngoài.


3

Chương 1

TỔNG QUAN
1.1. SỰ HÌNH THÀNH CÁC CẤU TRÚC CỦA TAI NGỒI
Về mặt phơi thai học, tai ngồi có nguồn gốc từ đoạn trong của khe mang thứ
nhất [50], [60].

Trong quá trình phát triển, vành tai hình thành trễ hơn các bộ phận khác của
tai, vào khoảng tuần thứ năm của phơi thai. Vành tai phát sinh từ 6 gị loa tai xuất
hiện ở xung quanh khe mang 1 và được hình thành theo hướng từ trên xuống dưới
rời rời dần về vị trí 2 bên đầu và ngang mắt. Vành tai to lên nhanh chóng vào 3 năm
đầu đời, lúc 6 tuổi xấp xỉ 85% kích cỡ của người lớn và 95% khi 8 - 10 tuổi [55].

a) Giai đoạn đầu của phôi thai

b) Giai đoạn cuối của phôi thai c) Khi mới sinh

Hình 1.1: Sự phát triển của tai ngoài trong bào thai [60].
Ống tai ngoài phát triển từ khe mang thứ nhất khoảng tuần thứ tư. Trong giai
đoạn đầu của quá trình hình thành, các tế bào thượng bì ở đầu trong của ống tai
ngồi tạo nên một khối mơ ngoại bì đặc được gọi là mơ nút ống tai ngồi. Vào
khoảng t̀n thứ 21, mơ nút này tiêu đi và hình thành nên đoạn trong của ống tai.
Ống tai ngồi có chiều dài của người trưởng thành khi trẻ lên 9 tuổi [35].

1.2. GIẢI PHẪU TAI NGỒI
1.2.1. Vị trí của tai ngoài trên cơ thể
Tai ngồi (TN) gồm có vành tai (VT) nằm lộ ra ở hai bên đầu và ống tai
ngồi (ƠT) từ vành tai đến màng nhĩ [20], [30].


4

Vành tai dính vào hai bên đầu đối xứng nhau, hợp với đầu một góc 20 0 - 300
(góc đầu - tai) [50]. VT nằm ngay sau khớp thái dương - hàm và vùng tuyến mang
tai, phía trước xương chũm, phía dưới vùng thái dương [11], [50]. VT nằm giữa:
- Bờ trên: nằm dưới đường kẻ ngang qua bờ trên hốc mắt.
- Bờ dưới: nằm ngay trên đường thẳng kẻ qua gai mũi.

- Trục dọc của VT (là đường thẳng qua đỉnh cao nhất của VT và điểm thấp
nhất của dái tai) nằm song song với sống mũi. Trục VT gần như thẳng đứng [24].
- Trục phía trước của vành tai trùng với bờ sau nghành lên xương hàm dưới.

Hình 1.2: Vị trí của vành tai [11], [55].
1.2.2. Vành tai (auricula, pinna)
1.2.2.1. Hình thể ngồi
Vành tai có hình cái loa hướng ra hai bên đầu nên còn được gọi là loa tai.
Kích thước vành tai trung bình: dài 60 - 65 mm (nam ≈ 63,5 mm, nữ ≈ 59
mm), rộng 25 - 35mm, tỷ lệ giữa chiều dài và chiều rộng gần bằng 2/1 [11], [20],
[30], dái tai trung bình dài 1,5 - 2 cm [59]. Đối với người Việt Nam, vành tai trung


5

bình ở nam dài 6,2 ± 0,6 cm, rộng 3,3 ± 0,3 cm; ở nữ dài 5,7 ± 0,5 cm, rộng 3,1 ±
0,3 cm; chiều dài của dái tai ở nam 1,7 ± 0,2 cm, nữ 1,6 ± 0,2 cm [11].
Vành tai có hai mặt: mặt trước và mặt sau (hoặc mặt ngoài và mặt trong).
Ở mặt trước, vành tai có những chỗ lồi và những chỗ lõm mà cách gọi tên có
khác nhau chút ít tùy theo tác giả. Để thống nhất cách gọi chúng tôi dựa vào cách
gọi trong sách Atlas giải phẫu người của Nguyễn Quang Quyền (2000) [19].
- Những chỗ lồi, tính từ chu vi về trung tâm, là: gờ nhĩ luân (helix), gờ đối
luân (antihelix), bình tai (tragus) và gờ đối bình tai (antitragus) [20], [36].
+ Gờ nhĩ luân xuất phát từ trụ nhĩ luân, sau đó đi lên theo một hình vòng
cung với 3 đoạn: đoạn lên, đoạn ngang và đoạn xuống. Đoạn nhĩ luân bắt đầu đi
xuống có một chỗ hơi phình ra, đó là củ nhĩ luân Darwin. Bờ nhĩ luân uốn gấp vào
trong làm cho nhĩ luân có hai mặt, mặt ngoài (đồng thời là mặt trước) và mặt trong.
+ Gờ đối luân là một gờ đồng tâm với gờ nhĩ luân, xuất phát từ phía trước
đuôi luân, đi ngược lên phía trên rồi chia làm hai nhánh hình chữ Y, giữa hai nhánh
này có một hõm hình tam giác gọi là hớ tam giác hay hớ đới ln.

+ Bình tai hay nắp tai là một mảng gồ lên ở phía trước ÔT. Bình tai có hình
tam giác, nửa bầu dục, có khi giống một hình thang. Nếu bình tai có hình lõm ở
giữa thì phần lồi ở trên được gọi là củ trên bình tai, phần lồi ở dưới là bình tai. Giữa
bình tai ở dưới và gờ nhĩ luân ở trên có một rãnh ngăn cách gọi là rãnh trước tai.
+ Gờ đối bình tai cũng là một mảng gồ lên ở phía sau xoắn tai, đối diện với
bình tai ở phía trước. Gờ đối bình thường có hình nửa bầu dục.
- Những chỗ lõm là rãnh luân nhĩ, hớ ghe, hớ tam giác, khuyết gian bình và
xoắn tai (hõm cửa tai) [20].
+ Rãnh luân nhĩ hay hố thuyền là rãnh lõm giữa gờ nhĩ luân và gờ đối luân.
+ Hố tam giác hay hố đối luân là rãnh lõm giữa hai nhánh chữ Y ở phía trên
của gờ đối luân.
+ Ở giữa vành tai là một vùng lõm xuống như một cái phễu gọi là xoắn tai,
đáy phễu là lỡ ƠT. Trụ nhĩ ln chia xoắn tai thành 2 phần không đều nhau: xoắn tai
trên và xoắn tai dưới. Xoắn tai trên nhỏ, có hình bầu dục, còn gọi là hố ghe. Xoắn
tai dưới lớn hơn, thường có hình tam giác, còn gọi là hõm cửa tai hay ổ xoắn tai.


6

+ Khuyết gian bình hay khuyết liên bình là một rãnh rộng, có hình dạng khá
đối xứng nằm giữa bình tai và gờ đới bình, ngay trên dái tai.

Hình 1.3: Hình thể vành tai [2], [19].
- Phần dưới của vành tai được gọi là dái tai (lobule) hay thùy tai. Dái tai nối
phía trên với gờ luân, gờ đối luân, khuyết gian bình và bình tai, giữa chúng có thể
không có ranh giới phân chia hoặc có thể có một rãnh nông gọi là rãnh trên dái tai.
Ở mặt sau, vành tai uốn theo các chỗ lồi lõm ở mặt trước theo chiều ngược
lại (mặt trước lõm thì mặt sau lồi và ngược lại) và bớt gồ ghề hơn. Giữa mặt sau gờ
nhĩ luân và xoắn tai có một đường rãnh, tương ứng với mặt sau gờ đối luân. Mặt sau
vành tai ngăn cách da đầu bởi một rãnh hình cung gọi là rãnh tai - đầu hoặc rãnh sau

tai [30].
Hai vành tai của người thường không hoàn toàn giống nhau. Các bộ phận của
vành tai cũng biến đổi theo tuổi tác và nghề nghiệp: vành tai trẻ em da mịn, các chỗ
lồi lõm không quá gồ ghề; vành tai người già có những nếp nhăn, gập khúc, sụn
cứng hơn và gồ lên rõ hơn, người lao động chân tay nhiều vành tai cứng và gồ ghề
hơn.
1.2.2.2. Cấu tạo
Vành tai là một cái loa bằng sụn, ngồi có da mỏng bao bọc và được gắn tại
chỗ bởi cơ và dây chằng.


7

- Da có mô liên kết dưới da, các nang lơng và mợt sớ tún bã. Da vành tai
dính chặt vào mặt ngoài của sụn hơn là mặt trong.
- Sụn tạo thành dạng lồi lõm của vành tai, chiếm khoảng 3/4 - 4/5 diện tích
vành tai. Sụn VT là sụn chun, dày từ 0,5 - 1 mm, bọc bởi màng sụn [3]. Sụn ở gờ
bình tai liên tiếp với sụn ƠT. Sụn vành tai có vơ số những khe và lỗ thủng nhỏ,
xuyên qua các khe và lỗ thủng ấy là lỗ trục liên kết chứa các mạch máu nên khi va
chạm hoặc chấn thương (CT) nhẹ ở vành tai thơi đã có thể vỡ các mạch máu và xuất
huyết giữa sụn và màng sụn gây tụ máu VT [18]. Sụn vành tai giúp vành tai giữ
nguyên hình dạng và có một độ vểnh nhất định so với đầu. Do đó, nếu sụn bị huỷ
hoại vành tai sẽ biến dạng. Dái tai khơng có sụn, chỉ có da, mơ sợi và mô mỡ, là nơi
thường dùng để đeo hoa tai hay chọc kim thử thời gian chảy máu [3].
- Cơ và dây chằng: Ngoài da và sụn, vành tai được gắn vào da hai bên đầu
bởi các cơ và dây chằng ngoại lai.
+ Cơ: gồm các cơ ngoại lai và cơ nội tại. Các cơ ngoại lai là loại cơ bám da,
gồm 3 cơ: cơ tai trước, cơ tai sau và cơ tai trên. Các cơ nội tại gồm 8 cơ: cơ luân nhĩ
lớn, cơ luân nhĩ bé, cơ bình tai, cơ đối bình tai, cơ ngang tai, cơ chéo tai, cơ tháp tai
và cơ khuyết nhĩ luân [20], [36].

+ Các dây chằng ngoại lai gồm: dây chằng tai trước, dây chằng tai sau
và dây chằng tai trên.
Nhìn chung, cơ và dây chằng của tai kém phát triển, hầu như không có hữu
ích gì cho việc vận động vành tai [48].
1.2.2.3. Mạch máu và thần kinh
- Động mạch (ĐM): vành tai được cấp máu rất tốt, các ĐM đi đến VT đều có
xuất phát từ ĐM cảnh ngoài gồm: nhánh của ĐM thái dương nông và ĐM tai sau.
nối với nhau tạo thành một mạng nhánh bàng hệ phong phú tập trung ở rìa VT [40].
+ ĐM thái dương nông chia ra các nhánh nhĩ trên, nhĩ giữa và nhĩ dưới cung
cấp máu cho mặt trước của vành tai.
+ ĐM tai sau luôn song song với nhánh sau tai của dây thần kinh tai to cấp
máu cho mặt sau vành tai [36].


8

- Tĩnh mạch (TM) của vành tai không có sự hệ thớng hóa như ĐM. Các TM
phía trước chảy vào TM thái dương nơng, phía sau chảy vào TM cảnh ngoài hay
TM liên lạc chũm [20], [36].

Hình 1.4: Động mạch của vành tai [40].
(a) ĐM thái dương nông.

(b) ĐM tai sau.

- Bạch mạch: mặt trước vành tai đổ vào hạch chũm, mặt sau đổ vào hạch
tuyến mang tai trước (ở phía trên) và hạch tuyến mang tai dưới (ở phía dưới).
- Thần kinh (TK):
+ Dây vận động tách từ dây TK mặt (dây VII) đi vào các cơ.
+ Dây cảm giác có nguyên ủy ở dây thái dương và ngành tai của đám rối

thần kinh cổ.
1.2.3. Ống tai ngoài (meatus, ear canal)
1.2.3.1. Hình thể ngồi
Ống tai ngồi đi từ cửa tai đến màng nhĩ. Do màng nhĩ nằm chếch xuống
dưới và vào trong nên thành trên sau ống tai dài khoảng 24 - 25mm, trong khi thành
trước dưới dài khoảng 31mm. Thiết diện ngang của ống tai hình bầu dục, dẹp theo
chiều trước sau [36].
Nhìn chung, ống tai ngồi đi từ ngoài vào theo hướng từ trước xuống dưới
thành một đường cong hình chữ S, ở gần vành tai nó cong lồi ra trước và đến màng
nhĩ thì cong lõm ra trước [36], chúng tạo ra một chỗ rất hẹp của ớng tai, được gọi là
khuỷu. Vì vậy, ở người trưởng thành, khi soi tai muốn nhìn thấy màng nhĩ phải kéo
vành tai lên trên và ra sau để làm bớt đi độ cong này.


9

Hình 1.5: Hình thể ớng tai ngoài [2].
(1) Ớng tai ngoài.

(2) Màng nhĩ.

(3) Xương con.

1.2.3.2. Liên quan
- Thành trước liên quan với hố hàm ở phía trong và một phần tuyến mang tai
ở phía ngồi. Vì vậy, một chấn thương vào cằm có thể làm cho lồi cầu xương hàm
dưới trật ra sau và làm vỡ thành trước ống tai [57] và ngược lại, một nhiễm trùng ở
ống tai ngoài có thể lan đến tuyến mang tai.
- Thành dưới liên quan đến tuyến mang tai.
- Thành trên cách ngách thượng nhĩ và tầng giữa của sọ bởi một mảnh của

xương thái dương.
- Thành sau cách xoang chũm bằng một lớp xương mỏng [20].
1.2.3.3. Cấu tạo
Ống tai là được cấu tạo bởi sụn, xương và da.
Một phần ba ngồi ƠT được cấu tạo bởi sụn (sụn chun và sụn xơ), sụn này
liên tiếp với sụn vành tai [36]. Ở thành trước sụn có hai khuyết sụn ƠT làm cho
vành tai dễ di động và giúp dễ dàng nong rộng ống tai ngoài.
Hai phần ba trong ống tai được cấu tạo bởi xương nhĩ (một phần của xương
thái dương). Xương nhĩ có hai mặt, bốn bờ. Trong đó, mặt trên sau của xương tạo
nên thành trước của ống tai ngồi và hịm nhĩ; bờ ngoài tạo thành phần lớn ống tai
ngoài; bờ trong nằm ngang phía dưới và phía ngồi lỗ ống tai .


10

Ống tai ngồi được lót bởi da liên tục với da loa tai và phủ mặt ngoài của
màng nhĩ [36]. Da của ƠT có lơng, tuyến bã và tuyến ráy tai có tác dụng làm lớp da
khỏi bị khơ, giữ độ pH và ngăn cản một phần các dị vật xâm nhập, bảo vệ màng nhĩ
[36]. Da dính chặt vào sụn và xương nên nhọt ở ÔT gây đau đớn dữ dội [3], [20].
1.2.3.4. Mạch máu và thần kinh
- Động mạch: Ống tai ngoài được cấp máu bởi ĐM tai sau, ĐM thái dương
nông và ĐM tai sâu của ĐM hàm.
- Thần kinh: Cảm giác ống tai ngoài được chi phối bởi TK ống tai ngoài
thuộc TK hàm dưới (dây V3) và nhánh tai thuộc TK lang thang (dây X). Vì vậy,
những bệnh của răng dưới và lưỡi, nơi chịu sự chi phối cảm giác của dây V3 cũng
có thể gây cảm giác đau tai ngoài và những vật lạ ở ống tai ngồi có thể kích thích
dây X gây nên phản xạ buồn nôn và ho [20].

1.3. SINH LÝ TAI NGỒI
Tai ngoài và đầu thì thụ đợng nhưng cũng đóng vai trò quan trọng trong chức

năng nghe [48].
Vành tai trông giống như chiếc loa hướng ra hai bên đầu có tác dụng hứng tất
cả những âm thanh trong khơng khí từ bốn phía và cũng có thể định hướng được nơi
phát ra âm thanh. Phía sau VT hơi lồi và mỏng, phía trước VT lại lõm vào để có thể
thu đủ mọi âm thanh và phản xạ được mọi âm ba [24], [48]. Xoắn tai của vành tai
có tác dụng cộng hưởng khoảng 5 kHz và bề mặt lồi lõm của vành tai tạo ra những
cộng hưởng và phản cợng hưởng khác [48].
Ở lồi động vật hạ đẳng có vú thường có vành tai rất to và dài vì cơ nhục nơi
đó rất dài và nhiều nên có thể tùy tiện xoay hay vểnh tai đủ mọi phía để nghe
ngóng. Nhưng tai của lồi người lại khơng như thế được, tai người tuy cố định một
chỗ nhưng vẫn có thể nghe được âm thanh phát ra từ mọi phía, song chỉ đứng ở một
vị trí thích hợp nào đó mới có thể phân biệt được nơi phát âm [12], [22], [48].
Ống tai ngồi có nhiệm vụ đưa sóng âm ba vào đến màng nhĩ. Đồng thời,
ống tai giống như một cái ống một đầu mở, một đầu đóng nên nó có tác dụng như
một vật cộng hưởng sóng. Sự cộng hưởng này được quyết định bởi chiều dài ống
tai, không liên quan đến độ cong của ống, ví dụ nếu ống dài 2,5cm thì tần số cộng


11

hưởng xấp xỉ 3,5 kHz [48]. Có tác giả cho rằng, nhờ sự cộng hưởng ở ống tai ngoài
áp lực sóng âm ba ở tần số 2888Hz có thể tăng lên gấp ba lần [22].

1.4. NGUYÊN NHÂN CỦA CHẤN THƯƠNG TAI NGOÀI
Định nghĩa trường hợp chấn thương là những trường hợp cơ thể có những
tổn thương ở các mức độ khác nhau do phơi nhiễm cấp tính đối với một nguồn năng
lượng tác động lên cơ thể với mức quá ngưỡng chịu đựng của cơ thể hay bởi sự
thiếu vắng đột ngột của các yếu tố thiết yếu, xảy ra do: tai nạn giao thông, tai nạn
sinh hoạt, tai nạn lao động, ngã, ngộ độc, bỏng, điện giật, tự tử, tự làm hại, hành
hung, đánh nhau… dẫn đến bị vết thương chảy máu, bong gân, phù nề, xây xát, gãy

xương, vỡ sụn, chấn thương sọ não, bỏng, ngạt nước, ngộ độc .v.v. [27]
1.4.1. Tai nạn giao thông
Hiện nay, chấn thương do tai nạn giao thông thường chiếm tỷ lệ cao nhất do
rất nhiều yếu tố như hệ thống đường sá không đảm bảo, các phương tiện giao thông
cũ nát, xuống cấp… [43]. Nhưng quan trọng hơn cả là do hiểu biết và ý thức chấp
hành luật giao thông của nhiều người còn kém.
Mặt khác, từ khi có Quyết định của chính phủ về việc bắt buộc người đi xe
máy phải đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thơng thì có một số ít bệnh nhân lại bị
chấn thương tai ngoài (CTTN) do những mảnh vỡ của mũ bảo hiểm cắt vào tai khi
bệnh nhân ngã đập đầu xuống đất. Như vậy, mũ bảo hiếm không đảm bảo chất
lượng hiện cũng là một yếu tố góp phần gây CTTN khi bị tai nạn giao thông.
1.4.2. Tai nạn lao động
Xảy ra khi làm việc thiếu phương tiện bảo hộ cần thiết hoặc do sự thiếu cẩn
thận và ý thức chấp hành kỷ luật lao động không nghiêm chỉnh. Ví dụ như: công
nhân xây dựng ngã giàn giáo, bỏng xăng, gas khi đang làm việc .v.v.
1.4.3. Tai nạn sinh hoạt
Trong sinh hoạt cũng có nhiều nguyên nhân có thể dẫn đến CTTN như trẻ
nhỏ bị ngã khi chạy nhảy, ngã sàn ướt, ngã cầu thang, ngã vào nước sôi hay khi
đang ngoáy tai bị va chạm gây tổn thương ống tai hoặc những CT nhỏ như đập vành
tai vào cửa, gối cứng cũng gây chấn thương vi thể dẫn đến tụ máu vành tai…
1.4.4. Tai nạn thể thao


12

Trong khi luyện tập và thi đấu thể thao, các vận động viên có thể bị CTTN
khi bị ngã, bị đấm vào tai trong quyền anh, bóng đá, đua xe… , nhất là các môn võ
thuật có tính đối kháng cao [45], [57]. Theo Perhins S. W., ở Mỹ năm 1991 có hơn
100.000 trường hợp CT đầu mặt do tai nạn thể thao xảy ra ở trẻ dưới 14 tuổi [53].
1.4.5. Đánh nhau (hay ẩu đả)

Trong chấn thương tai ngoài, đánh nhau cũng là một nguyên nhân thường
gặp do bị đánh, đấm vào tai bằng tay không hoặc bằng dụng cụ, một số khác do bị
chém vào tai bằng dao, mã tấu…, đặc biệt còn có một vài trường hợp bị CTTN do
bị động vật cắn hay người cắn trong lúc đánh nhau. Những trường hợp chấn thương
này thường có liên quan đến vấn đề pháp lý nên bệnh nhân thường khai không đúng
sự thật và ít tuân thủ theo đúng yêu cầu điều trị và tái khám của bác sỹ.
Tổ chức Y tế Thế giới năm 2002 đã đưa ra dự đoán chấn thương do tai nạn
giao thông và bạo lực sẽ tăng một cách mạnh mẽ cho tới những năm 2020 [27]. Do
đó, đây là một trong những mối lo ngại cho cộng đồng và ngành y tế.
1.4.6. Tai nạn hỏa khí
Nguyên nhân này gặp nhiều trong thời chiến do sát thương của mảnh đạn,
mảnh bom, mìn… Tuy nhiên, trong thời bình cũng có thể gặp khi bộ đội diễn tập, ở
những công trình có dùng đến thuốc nổ, vô tình dẫm phải mìn trong chiến tranh còn
sót lại…
1.4.7. Các nguyên nhân khác
Các nguyên nhân này có thể là biến chứng mổ tai [50], [57], tự sát hay không
rõ nguyên nhân (theo nghiên cứu của Phạm Xuân Phụng có 58% CT tụ dịch VT
không rõ nguyên nhân [18])... Tuy nhiên, chúng chiếm tỷ lệ rất thấp trong CTTN.

1.5. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG CỦA CHẤN THƯƠNG
TAI NGOÀI
Vết thương được định nghĩa chung là sự mất liên tục của bất cứ phần nào
của cơ thể do CT hoặc những tấn công cơ học gây ra, kể cả những tổn thương do
hóa chất, nhiệt, tia xạ, vi khuẩn và những chất có tính độc hại cho mô tế bào [21].
Chấn thương tai ngoài có những hình thái sau:


13

1.5.1. Rách, đứt, giập vành tai

1.5.1.1. Lâm sàng
- Đau, chảy máu, sưng nề, biến dạng vành tai.
- Có vết thương trên vành tai. Các vết thương này có thể là vết thương xây
xát da, rách da lộ sụn, vết thương xuyên, thiếu hổng vành tai, vết thương đứt rời
một phần hoặc vết thương đứt lìa vành tai hoàn toàn. Các vết thương đứt lìa vành tai
hoàn toàn thường kéo theo đứt lìa ống tai.

Hình 1.6: Rách, đứt, giập vành tai [58].
1.5.1.2. Biến chứng
- Viêm sụn màng sụn.
- Hoại tử sụn.
1.5.2. Tụ máu, tụ huyết thanh vành tai
Tụ dịch vành tai thường do những chấn thương nhẹ như đánh vật vào vành
tai, gối đầu vào gỗ… Những chấn thương kín vào VT gây vỡ các mạch máu nhỏ
chạy xuyên qua các khe và lỗ thủng nhỏ của sụn VT, làm chảy máu và thanh dịch
khu trú giữa màng sụn và sụn. Do đó, làm bóc tách da và lớp màng sụn ra khỏi sụn
và gây gián đoạn sự cấp máu đến sụn. Tụ dịch VT cũng có thể tự phát do rối loạn
tuần hoàn của mạch máu, nhất là ở những người già hoặc người suy nhược [18].
1.5.2.1. Lâm sàng
- Không có (hoặc có rất mơ hồ) các dấu hiệu báo trước. Bệnh phát hiện tình
cờ khối tụ máu vành tai do sờ tai hoặc soi mặt chải tóc.


14

- Vành tai thường khơng đau hoặc đau ít, chỉ cảm giác khó chịu hoặc ngứa ở
vành tai, đau tăng khi có sự nhiễm trùng hoặc vỡ rách khối u [18], [31].
- Có khối u có bề mặt trịn, phồng lên dạng bán cầu hoặc chỏm cầu, đều,
nhẵn, căng mọng, màu da đỏ bầm hoặc tím xanh hoặc bình thường; sờ khối u thấy
mềm, nắn bùng nhùng; vị trí thường ở mặt trước và 1/3 trên vành tai [18], [22].


Hình 1.7: Tụ máu vành tai sau chấn thương [32], [47].
1.5.2.2. Tiến triển:
Tụ máu vành tai có nhiều diễn biến khác nhau. Nếu là u nhỏ bằng đầu ngón
út (≈ 1cm), nó sẽ tan đi sau một vài tuần (7 - 14 ngày) và để lại một vành tai dày
cộp ở chỗ u cũ. Với khối máu tụ lớn bằng ngón chân cái (≈ 2,5 - 3cm), nó cũng có
thể tan được nhưng vành tai sẽ bị méo mó và biến dạng [7], [18], [47].
1.5.2.3. Biến chứng:
Trong một số trường hợp u máu vành tai có thể bị nhiễm trùng gây viêm
màng sụn dẫn đến hoại tử sụn mà sau khi điều trị tích cực vẫn để lại di chứng co
dúm vành tai. Đây một biến chứng rất nặng nề về mặt thẩm mỹ [18], [37], [47].
1.5.3. Rách, đứt, vỡ ống tai ngoài
Chấn thương ống tai có thể do tai nạn, do ngoáy tai, lấy dị vật tai bằng vật
sắc nhọn hoặc khi cằm đập vào vật cứng làm lồi cầu khớp thái dương - hàm đánh
mạnh vào xương nhĩ có thể gây ra vỡ xương nhĩ, rách da ÔT, hẹp ÔT [7], [57].
1.5.3.1. Lâm sàng
- Đau tai, ù tai, sưng nề, chảy máu ống tai ngoài.


15

- Nghe kém: tùy trường hợp chỉ có tổn thương ÔT hay tổn thương phối hợp
với tai giữa và tai trong mà có nghe kém dẫn truyền hay nghe kém hỡn hợp [57].
- Có vết thương xây xát, rách da lộ sụn, đứt một phần hay hoàn toàn da và
sụn ống tai.
- Có thể có hẹp ống tai ngồi mợt phần hoặc hoàn toàn.
- Phim Schuller và CT scan xương chũm có thể thấy hình ảnh vỡ xương nhĩ,
hẹp ớng tai ngoài [57].
1.5.3.2. Biến chứng
- Viêm ống tai ngoài.

- Sẹo hẹp ống tai.
1.5.4. Bỏng tai ngoài
Theo Jordan J. R. (2006), bỏng tai ngoài gặp trong hơn 90% các trường hợp
bỏng vùng đầu mặt cở [45]. Bỏng tai ngồi thường do tiếp xúc trực tiếp với mơi
trường nóng (nước sơi, lửa…) hoặc lạnh (băng giá...) hay các tác nhân khác như
điện hay các chất ăn mòn (acid, base) [10], [37], [58].
1.5.4.1. Lâm sàng:
- Đau, sưng nề vùng tai, có thể có ù tai, nghe kém.
- Chảy dịch huyết thanh, chảy máu tai ngồi.
- Tổn thương lớp da tai ngồi nơng hoặc sâu.
1.5.4.2. Phân độ bỏng tai ngoài
Theo Võ Ngọc Hoàn (2007) có thể phân độ bỏng tai ngoài như sau:
 Do lạnh cóng (Frosbite): lâm sàng thể hiện theo các mức độ sau:
- Độ 1: Tím da do co thắt mạch.
- Độ 2: Thiếu máu cục bộ với sự hình thành những bóng nước.
- Độ 3: Hoại tử mơ sâu.
 Do nóng và các tác nhân khác: lâm sàng thể hiện theo các mức độ sau:
- Độ 1: Chỉ tổn thương lớp thượng bì. Vành tai đỏ, ấm, đau khi sờ.
- Độ 2: Tổn thương lớp thượng bì và một phần lớp bì.
- Độ 3: Tổn thương tồn bộ lớp thượng bì và lớp bì, lộ sụn vành tai - ớng tai,
xương ớng tai ngồi [10].


16

1.5.4.3. Biến chứng
- Viêm sụn, hoại tử sụn tai ngoài do nhiễm trùng vết thương bỏng.
- Sẹo hẹp ống tai.
1.5.5. Các chấn thương phối hợp khác
Tai là một bộ phận nằm nhô ra hai bên đầu nên rất dễ bị va chạm. Tùy theo

nguyên nhân, cường độ của lực tác động và hướng của lực tác động mà tổn thương
có thể là CT tai ngoài đơn thuần hoặc kèm theo các chấn thương khác như CT sọ
não, vỡ xương đá, CT hàm mặt , CT mắt, CT tứ chi, đa chấn thương… [14], [24].

1.6. ĐIỀU TRỊ
Trước hết, cần đánh giá các tình huống nguy hiểm liên quan đến tính mạng
như: tắc đường thở, ngừng tim, đứt mạch máu lớn, chấn thương cột sống cổ, chấn
thương sọ não… Sau đó, tiếp tục điều trị cấp cứu theo các chuyên khoa ưu tiên như
ngoại thần kinh, mắt, răng hàm mặt và tai mũi họng phới hợp điều trị.
Tai ngồi là nơi giàu mạch máu, thần kinh và có liên quan với các cơ quan
vùng đầu mặt nên các chấn thương tai ngoài cần được điều trị chống nhiễm trùng
với kháng sinh, tiêm SAT phòng uốn ván và giảm đau [24].
1.6.1. Rách, đứt, giập vành tai
* Nguyên tắc:
- Lau sạch vết thương. Lấy sạch dị vật nếu có. Cắt lọc mơ hoại tử hết sức tiết
kiệm vì vành tai có tuần hoàn phong phú mà da lại bám chặt vào sụn, khó trượt [1].
- Khâu kỹ từng lớp và đảm bảo phủ kín sụn. Vì những vết thương đứt rách
vùng đầu mặt được cung cấp máu tốt nên có thể khâu kín sớm trong kỳ đầu trong 2
- 3 ngày đầu (ưu tiên “thời gian vàng” < 8 giờ) [21], [38], [43], [52].
- Băng ép [1], [7].
* Chú ý: nếu đứt rời một phần hay toàn bộ vành tai nên đưa bệnh nhân đến
bệnh viện ngay với phần tai đứt (ngâm trong nước muối sinh lý lạnh, vô trùng) miễn
là thời gian từ lúc chấn thương đến lúc phẫu thuật không quá 2 giờ [7], [21].
* Kỹ thuật điều trị vành tai bị sứt:
- Những tổn thương có mất chất nhỏ ở gờ và rãnh luân nhĩ, các tác giả
thường cắt hình chêm rồi khâu lại [1], [11]. Theo Jordan J. R. (2006), nếu gờ luân


17


nhĩ có vết sứt hình chữ “V” ở mép của vành tai thì có thể được sửa bằng tạo hình
chữ “Z” [45], [51]. Theo Mascio D. D. (2004), với những khuyết gờ luân nhĩ rộng
>2,5 cm mà không mất sụn và rãnh luân nhĩ nhiều thì tốt hơn nên tái tạo lại vành tai
bằng ghép vạt da hình ống của vùng da sau trên tai [46].
- Phương pháp Lexer (trích theo [13]): xén bờ chỗ sứt theo hình nét chấm
gạch rồi khâu ghép hai bờ lại (hình 1.8).

Hình 1.8: Phẫu thuật vành tai theo phương pháp Lexer (trích theo [13]).
- Phương pháp Michelson (trích theo [13]): áp dụng cho vết sứt nhỏ mà
không thể kéo hai bờ lại gần nhau được.
+ Thì mợt: lóc vạt A ở mặt trước vành tai phía dưới chỗ sứt (hình 1.9a). Lật
1800 lên phía trên theo hướng mũi tên để tạo mặt sau của miếng vá.
+ Thì hai: lóc vạt da B ở mặt sau vành tai phía trên chỗ sứt (hình 1.9b). Lật
1800 xuồng phía dưới theo hướng mũi tên để tạo mặt trước của chỗ vá.
+ Thì ba: kéo vạt A lên khâu lát vào chỗ cũ của vạt B. Rồi kéo vạt B xuống
khâu lát vào chỗ cũ của vạt A (hình 1.9c). Kết quả cuối cùng: hình 1.9d.

(a)

(b)

(c)

(d)

Hình 1.9: Phẫu thuật vành tai theo phương pháp Michelson (trích theo [13]).


18


- Những thương tổn làm chẻ đôi dái tai, cần phải cắt xén vết thương thành
hình chữ “V” cân xứng, bờ sắc thẳng, có thể dùng dao phá nhẹ lớp dưới da cách
mép da khoảng 1 mm để tránh để lại sẹo lồi. Khâu vết thương đã sửa bằng các mũi
chỉ đơn giản [29], [42].
- Những thương tổn có mất chất nhiều, khuyết lớn, cần tiến hành ghép da tự
thân bằng một vạt da sau tai hoặc vùng cổ bên tương đồng có chân nuôi ở phía trên.
Vạt có chiều dài và chiều rộng lớn hơn tổn khuyết thực 1 - 2 mm, xoay vạt đóng kín
diện khuyết. Đóng kín vùng khuyết da đã lấy bằng vạt da xê dịch [34], [51].
- Những thương tổn lớn với khuyết ở 2/3 trên vành tai, chúng ta có thể dùng
khung sụn sườn làm giá đỡ để tạo hình vành tai. Phẫu thuật này cần được tiến hành
hai thì [11], [40], [49], [50].

Hình 1.10: Khung sụn vành tai làm từ sụn sườn 6, 7 [49].
1.6.2. Rách, đứt, vỡ ống tai ngoài
* Nguyên tắc:
- Lau sạch vết thương. Lấy sạch dị vật nếu có.
- Cắt lọc mô hoại tử. Khâu kỹ từng lớp đảm bảo che kín sụn ống tai.
- Cố định bằng bấc hoặc Merocel có tẩm thuốc kháng sinh hoặc ống nhựa để
đề phịng hẹp ống tai ngồi [7], [44].
* Kỹ tḥt điều trị chít hẹp ớng tai:
- Phương pháp Kilof (trích theo[13]): áp dụng cho trường hợp chít hẹp nong
cửa ống tai.


19

+ Thì một: rạch da ngoài ống tai. Dùng mũi dao nhọn rạch ba đường đi qua
lỗ chít hẹp chia da cửa ống tai thành sáu múi đều nhau (hình 1.11a).

(a)


(b)

Hình 1.11: Phẫu thuật hẹp ống tai ngoài theo phương pháp Kilof (trích theo[13]).

+ Thì hai: bóc da: lần lượt lóc da của từng múi kéo ra phần rìa, để lộ toàn
phần khối xơ.
+ Thì ba: lấy bỏ tổ chức xơ: dùng dao mũi nhọn và kéo nhỏ cắt bỏ đi khối tổ
chức xơ cho tới khi đạt độ rộng tốt của cửa ống tai (hình 1.11b).
+ Thì bốn: khâu da ống tai: dùng chỉ loại nhỏ khâu ép từng múi da lát vào
thành của ống tai mới tái tạo, các đầu dây chỉ đi xuyên qua tổ chức sau tai và buộc
vào da vùng sau tai.
Kết thúc: cuối cùng đặt một ống cao su tạo sức nong to của ống tai mới tái
tạo. Sau 10 ngày cắt chỉ.
- Phương pháp Osenat - Ramadier (trích theo [13]): áp dụng cho trường hợp
hẹp sâu cả cửa ống tai và trong ống tai.
+ Thì một: rạch da sau tai như trong phẫu thuật mở khoét chũm. Rạch xuống
tận xương, bóc tách cốt mạc tới cửa ống tai để làm lộ toàn bộ đoạn chít hẹp của cửa
ống tai. Cắt bỏ hết chỗ chít hẹp để tái tạo một cửa ống tai rộng (hình 1.12a) [44].
+ Thì hai: tiếp tục bóc tách đi sâu vào trong ống tai bộc lộ các phần mềm, cắt
bỏ hết tổ chức làm chít hẹp. Nếu lỗ chít hẹp bao gồm cả xương thì dùng đục, thìa
nạo, mũi khoan để bỏ đi [44]. Kết quả tạo một ống tai thông tới màng nhĩ.
+ Thì ba: tạo một làn da lát vào hố mổ nhằm không cho xơ sẹo tái phát sẽ
chít hẹp trở lại. Cắt lọc một vạt da hình chữ nhật ở phía sau tai vùng chũm, vạt da


20

có chân cuống (hình 1.12a). Vạt da này sẽ được c̣n tròn lại và lát vào ƠT, mép
phía ngoài được khâu cớ định vào quanh cửa ƠT bằng vài nút chỉ nhỏ (hình 1.12b).


(a)

(b)

Hình 1.12: Phẫu thuật hẹp ống tai ngoài
theo phương pháp Osenat - Ramadier (trích theo [13]).
+ Thì bốn: khâu liền hai mép da sau tai. Đặt một đoạn mèche trong ƠT. Sau
3 t̀n, cắt đứt chân ćng của vạt da và khâu sửa lại cuối cùng vết rạch phía sau tai.
1.6.3. Tụ máu, tụ huyết thanh vành tai
- Nếu thương tổn nhẹ, u máu còn nhỏ, chỉ cần băng ngoài ép chặt lại và
chườm lạnh tại chỗ khoảng 2 - 3 ngày để tránh tái tụ dịch. Đồng thời, cho kháng
sinh phổ rộng kèm theo thuốc kháng viêm tồn thân [31], [42].
- Nếu thương tổn lớn, mợt số tác giả cho rằng nên hút máu tụ bằng kim chọc
lớn trong điều kiện vô khuẩn và băng ép trong 24 giờ rồi kiểm tra lại VT [38], [47].
Tuy nhiên, hiện nay phương pháp này ít được dùng vì dễ tái phát, dễ gây bội nhiễm
dẫn đến viêm sụn; nên rạch rộng ở dọc bờ trước luân nhĩ và lấy sạch mô hoại tử
bằng curette [42]. Khâu ép và ép khoang máu tụ lại bằng gạc cuộn nhằm ép chặt
màng sụn với sụn vành tai để tránh tụ máu tái phát. Hằng ngày thay băng vô khuẩn,
theo dõi tiến triển, dùng kháng sinh liều cao, kháng viêm. Cắt bỏ chỉ sau 7 ngày.
- Nếu có viêm màng sụn phát mủ, cần rạch rộng da mở to túi mủ, nạo hết các
tổ chức viêm và sụn chết, đặt ống dẫn lưu hố mổ. Băng ép. Cho kháng sinh với
kháng viêm toàn thân, đặc biệt cảnh giác với Pseudomonas rất thường có trong các
viêm sụn phát mủ vành tai [10], [13], [22], [59].


21

Theo Godley F. A. (2003), để băng ép trong những trường hợp tụ máu vành
tai, chúng ta có thể dùng một dải băng dán linh hoạt bằng silicon cho vành tai. Đây

là một vật liệu dễ uốn, dễ dát mỏng, có thể dính chặt vào vành tai với áp lực vừa
phải, phù hợp với hình dáng vành tai và có tính thẫm mỹ. Vật liệu này còn có thể
dùng cho những thủ thuật hoặc chỉnh hình nhỏ ở da vành tai như mổ keloid, dẫn lưu
tụ máu và sửa chữa những chấn thương vành tai nhỏ, vạt ghép da nhỏ… [41].
Hiện nay, tại bệnh viện Trung ương Huế còn điều trị tụ máu, tụ huyết thanh
vành tai và viêm sụn - màng sụn vành tai bằng quang trị liệu pháp laser bán dẫn với
liệu trình: 1 ngày/1 lần/20 phút x 20 lần/đợt và phối hợp với điều trị chống nhiễm
trùng [18].
1.6.4. Bỏng tai ngồi
1.6.4.1. Do lạnh cóng
- Làm ấm bằng gạc ấm từ 38oC - 42oC cho đến khi vành tai ấm lại.
- Băng vô trùng (không được băng ép).
- Kháng sinh dự phịng, thuốc giãn mạch, có thể ức chế hạch sao tuỳ độ trầm
trọng của chấn thương. Luôn giữ tai bệnh được giữ khô, sạch [10], [37].
1.6.4.2. Do nóng và các tác nhân khác
Trước hết, cần lấy hết tác nhân bỏng, tẩy rửa nhẹ nhàng, tránh tạo sức ép và
cởi bỏ khuyên tai (nếu có) [52].
Xử trí theo mức độ tổn thương:
- Độ 1: theo dõi.
- Độ 2, 3: cần điều trị để tránh biến chứng viêm sụn và hoại tử sụn, dẫn đến
mất chất sụn thường gặp trong bỏng sâu [10].
Đối với bỏng nông thì để hở vết thương, rửa sạch vết thương rồi bôi mỡ
sulfamit. Khi có lớp vảy cứ để nguyên vì chúng có tác dụng bảo vệ da, chỉ cần bôi
thuốc mỡ cho vảy mềm và chúng sẽ rụng ra [26].
Đối với bỏng sâu, dùng các thuốc gây rụng hoại tử bỏng. Phẫu thuật cắt bỏ
hoại tử chỉ được tiến hành khi ranh giới phần lành và phần hoại tử đã rõ ràng, khi
cắt phải tiết kiệm bảo vệ các phần lành. Thường chỉ thực hiện từ ngày thứ 10 - 14.


22


Sụn bị lộ ra nên được che phủ lại với mơ có mạch máu để tránh bị viêm sụn, hoại tử
sụn; sụn thường được phủ bằng cách ghép da tự thân, tranh thủ ghép da sớm ở tuần
thứ 3 - 4 sau bỏng [26]. Chăm sóc vết thương cẩn thận, tránh băng ép [10], [52].
Nếu có dấu hiệu của viêm mủ sụn vành tai cần kịp thời rạch dẫn lưu mủ, nạo
bỏ các tổ chức hoại tử và đặt gạc tẩm kháng sinh.
Nếu có tổn khuyết VT sau bỏng thì tiến hành phẫu thuật tạo hình VT 6 tháng
sau khi lành vết thương (trẻ em sẽ được phẫu thuật khi đến tuổi trưởng thành) [26].

1.7. DIỄN BIẾN LÀNH VẾT THƯƠNG
- Đối với vết thương kín: Sau vài giờ bị tổn thương, khoảng trống vết thương
được lấp đầy tế bào viêm và dịch viêm gồm hồng cầu, bạch cầu, đại thực bào, chất
đạm huyết tương và sợi fibrin, đạt số lượng cao nhất sau 24 giờ và tồn tại trong 48
giờ. Sau 24 giờ lớp biểu bì của hai bờ mép vết thương bắt đầu dày lên, trong vòng
48 giờ toàn thể bề mặt của vết thương được biểu bì hóa. Vào ngày thứ hai hoặc thứ
ba xuất hiện nguyên bào sợi tăng dần đến ngày thứ 10 và giảm rõ vào tuần thứ tư
hoặc thứ năm. Sợi collagen xuất hiện vào ngày thứ tư của phần sâu vết thương,
nhanh chóng phát triển thành bó sợi rồi bó sợi lớn dần tạo ra cơ cấu đậm đặc gọi là
sẹo, giúp vết thương dính cứng lại với nhau.
- Đối với vết thương hở: diễn biến lành bình thường của vết thương hở cũng
giống như vết thương kín nhưng khác biệt nổi bật là sự “co rút và biểu bì hóa”. Sau
2 - 3 ngày mép biểu bì di chuyển lại và bề mặt bị thiếu nhỏ dần đi, tốc độ nhanh hơn
ngày thứ 5 - 10, chậm lại sau 2 tuần. Vết thương hở da co rút bằng cách căng da
xung quanh gần nơi bị thiếu chứ không phải tạo da mới. Bờ mép của da có thể biểu
bì hóa từ 1- 3 cm. Nếu vùng tổn thương rộng quá đến nỗi sự biểu bì hóa và sự co rút
không che hết được thì vết thương sẽ trở thành một vết loét mạn tính [21], [39].

1.8. BIẾN CHỨNG SAU ĐIỀU TRỊ
- Nhiễm trùng vết thương gây ra viêm sụn màng sụn, huỷ hoại sụn, viêm mô
tế bào loa tai, viêm ống tai ngoài, nặng nề hơn có thể gây viêm tai ngoài ác tính

(thường gặp ở bệnh nhân đái tháo đường và suy giảm miễn dịch). Vi khuẩn thường


23

gặp nhất trong viêm sụn màng sụn VT và viêm ƠT cấp là Pseudomonas aeruginosa
(> 40%), ngồi ra cịn có các loại cầu khuẩn gram (+) và vi khuẩn tiêu hố gram (-)
[10]. Viêm mơ tế bào loa tai lại thường do vi khuẩn gram (+) như: Staphylococcus,
Streptococcus [4].
- Sẹo vành tai xấu: bề mặt da vành tai khơng cịn hình thái như ban đầu, da
vành tai dày, sần sùi, độ lồi lõm vành tai không rõ [11], [54].
- Biến dạng vành tai: Chấn thương VT gây nhiễm trùng sụn, tụ dịch dưới
màng sụn không được điều trị sẽ dẫn đến sự tiêu huỷ sụn, tạo mô liên kết, canxi hố
thứ phát làm cho vành tai biến dạng như bơng cải hoặc tai mèo [10], [50].
- Sẹo ống tai ngoài gây hẹp một phần hay hẹp hoàn toàn ống tai ngoài, bệnh
nhân có thể có nghe kém, ù tai.

Hình 1.13: Viêm màng sụn vành tai cấp
và biến dạng vành tai như bông cải [32], [47].

Hình 1.14: Chít hẹp cửa ống tai ngoài và hẹp ÔT sau chấn thương [56].


24

Chương 2

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU


2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.1.1. Mẫu nghiên cứu
Gồm 68 bệnh nhân với 69 tai được chẩn đốn xác định chấn thương tai ngồi
vào điều trị tại Bệnh viện Trung ương Huế và Bệnh viện Trường Đại học Y Dược
Huế từ tháng 04/2008 đến tháng 06/2009.
2.1.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.1.2.1. Địa điểm nghiên cứu
- Khoa Cấp cứu bệnh viện Trung ương Huế.
- Khoa Tai Mũi Họng bệnh viện Trung ương Huế.
- Khoa Tai Mũi Họng bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế.
- Các khoa liên quan như Cấp cứu, Ngoại Thần kinh, Ngoại Chấn thương
chỉnh hình, Răng Hàm Mặt, Hồi sức cấp cứu…
2.1.2.2. Thời gian nghiên cứu: Từ 05/2008 đến tháng 06/2009.
2.1.3. Tiêu chuẩn chọn bệnh
Tiêu chuẩn chọn bệnh là những bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị chấn
thương vành tai hoặc ống tai ngoài do mọi nguyên nhân, gây ra một hoặc nhiều hình
thái tổn thương như:
- Rách, đứt, giập, vỡ tai ngoài gây biến dạng cấu trúc của vành tai, ống tai.
- Tụ máu, tụ huyết thanh, tụ mủ ở vành tai.
- Các thương tổn của tai ngoài do nhiệt hoặc do điện, các chất ăn mòn.
Không giới hạn tuổi, giới, nghề nghiệp, dân tộc, địa dư.


25

2.1.4. Tiêu chuẩn loại trừ bệnh
Đối tượng nghiên cứu không gồm các bệnh nhân khơng tn thủ q trình
điều trị và không thể tái khám được.

2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: phương pháp tiến cứu và mô tả, có can thiệp lâm sàng.
2.2.2. Phương pháp tiến hành
Thăm khám và ghi nhận các chỉ tiêu nghiên cứu một cách thống nhất trong
quá trình vào khám và điều trị dựa vào phiếu bệnh án đã được lập sẵn.
Thăm khám khi lành vết thương và hẹn tái khám sau khi xuất viện 1 tháng
bằng giấy hẹn hoặc thư mời tái khám. Sau đó, khám và ghi nhận các triệu chứng,
các biến chứng sau điều trị theo phiếu tái khám đã lập sẵn.
2.2.3. Phương tiện nghiên cứu
- Bộ dụng cụ khám Tai Mũi Họng thông thường gồm đèn Clar, forceps, kẹp
khuỷu, loa soi tai các cỡ.
- Bộ dụng cụ vi phẫu và các loại kim, chỉ khâu (chúng tôi thường dùng chỉ
Dafilon 4.0 hoặc 5.0 để khâu da).

Hình 2.1: Bộ dụng cụ vi phẫu và kim, chỉ khâu.


×