Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Đề tài:''''Tình huống nâng cao năng lực quản trị và xử lý rủi ro tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực BĐ" pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.09 KB, 33 trang )

Lớp Bồi dưỡng kiến thức Chuyên viên chính K2.08
Tình huống nâng cao năng lực quản trị và
xử lý rủi ro tín dụng của Chi nhánh Ngân
hàng Công thương khu vực BĐ
1
Thái Minh Lượng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Lớp Bồi dưỡng kiến thức Chuyên viên chính K2.08
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Phần thứ nhất: MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
1)– Hoàn cảnh ra đời vào mục tiêu xử lý tình huống.
2) –Diễn biến tình huống.
Phần Thứ hai: PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN, HẬU QUẢ VÀ CÁC PHƯƠNG
ÁN XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
1. Nguyên nhân
a) Về phía doanh nghiệp.
b. Về phía Ngân hàng.
2/-Hậu quả của rủi ro tín dụng
3/- Các phương án và biện pháp giải quyết tình huống
a/Phương án thứ nhất.
b/ Phương án thứ hai:
c/Phương án thứ ba:
Phần thứ ba: KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
a/ Kiến nghị với Chính phủ và các ngành liên quan.
b/ Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước.
c/ Kiến nghị với Ngân hàng Công thương Việt Nam.LỜI NÓI ĐẦU
Có thể hiểu Ngân hàng Thương mại theo một trong các khái niệm như
sau :
 Ngân hàng Thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt chuyên kinh doanh
trên nhiều lĩnh vực tiền tệ tín dụng. Trong đó chức năng chủ yếu là làm
trung gian Tín dụng giữa các doanh nghiệp các cá nhân trong nền Kinh


Tế.
 Ngân hàng Thương mại là một Tổ chức kinh doanh tiền tệ và thực hiện
các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng.
2
Thái Minh Lượng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Lớp Bồi dưỡng kiến thức Chuyên viên chính K2.08
 Ngân hàng Thương mại là Tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ
yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm
hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu
và làm phương tiện thanh toán.
 Ngân hàng Thương mại là một tổ chức Tín dụng quan trọng nhất trong
các ngân hàng trung gian.
 Điều 20: Luật các tổ chức Tín dụng (Luật số 02/1997/QH-10) chỉ rõ :
“ Ngân hàng Thương mại là một tổ chức Tín dụng được thực hiện toàn bộ
hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.”
Như vậy, có thể nói rằng Ngân hàng Thương mại là định chế tài chính
trung gian quan trọng vào loại bậc nhất trong nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ
thống định chế này mà các nguồn tiền vốn nhàn rỗi sẽ được huy động, tạo lập
nguồn vốn Tín dụng to lớn để có thể cho vay phát triển kinh tế.
Từ đó có thể nói bản chất của Ngân hàng Thương mại thể hiện qua các
điểm sau:
 Ngân hàng Thương mại là một tổ chức kinh tế.
 Ngân hàng Thương mại hoạt động mang tính chất kinh doanh.
 Ngân hàng Thương mại hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực Tiền tệ
Tín dụng và dịch vụ ngân hàng.
 Ngân hàng Thương mại là loại ngân hàng trực tiếp giao dịch với các
Công ty, tổ chức kinh tế, các tổ chức đoàn thể và các cá nhân bằng
việc nhận tiền hoặc gửi tiền tiết kiệm,… cho vay và cung cấp các dịch
vụ Ngân hàng cho các đối tượng nói trên.
Sơ đồ : Hoạt động của Ngân hàng Thương mại

Cá nhân công ty, XN, tổ chức
NHTM
- Công ty, XN
- Hộ gia đình, cá nhân
3
Thái Minh Lượng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Lớp Bồi dưỡng kiến thức Chuyên viên chính K2.08
- Các tổ chức
Nhận tiền gửi
Tiết kiệm
Cho vay
Cung cấp dịch vụ
ngân hàng
Vì hoạt động ngân hàng có mối quan hệ với đủ các loại kinh tế cho nên
việc hoạt động kinh doanh Ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc biệt tiềm ẩn
nhiều rủi ro. Như chúng ta đều biết quan trọng nền kinh tế thị trường các quy
luật kinh tế đặc thù như quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh,
… ngày càng phát huy tác dụng. Những rủi ro trong sản xuất - kinh doanh của
nền kinh tế trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến hiệu quả kinh doanh của các
Ngân hàng Thương mại - những nhà cung ứng vốn và dịch vụ Ngân hàng. Bản
thân hoạt động dịch vụ kinh doanh của ngân hàng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Trong từng nghiệp vụ cụ thể của Ngân hàng nếu không được quản lý theo
những qui trình chặt chẽ cũng có nhiều khả năng rủi ro.Ví dụ : các nghiệp vụ tín
dụng, bảo lãnh, thanh toán, kinh doanh ngoại tệ, tiền tệ kho quỹ, huy động và sử
dụng vốn,…Vì vậy công tác quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh Ngân
hàng giữ vai trò quan trọng trong phòng ngừa, hạn chế và xử lý rủi ro, đảm bảo
hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng.
Mặt khác, hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng Thương mại phụ thuộc vào
mức độ rủi ro:
Ngân hàng Thương mại là một Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong

lĩnh vực tiền tệ - tín dụng và dịch vụ Ngân hàng. Cũng như các Doanh nghiệp
khác, các Ngân hàng Thương mại hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh
4
Thái Minh Lượng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Lớp Bồi dưỡng kiến thức Chuyên viên chính K2.08
lời. Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng có nhiều yếu tố khách quan và chủ
quan mang lại rủi ro, nhiều yếu tố bất khả kháng nên không tránh khỏi rủi ro.
Chính vì vậy, hàng năm các Ngân hàng Thương mại được phép trích lập quỹ bù
đắp rủi ro. Quy mô quỹ bù đắp rủi ro căn cứ vào mức độ và khả năng rủi ro.
Nếu rui ro thấp thì hiệu quả kinh tế sẽ tăng, và ngược lại. Như vậy hiệu quả kinh
doanh của Ngân hàng Thương mại tỷ lệ nghịch với mức độ rủi ro của doanh
nghiệp. Khi rủi ro quá lớn đến mức Ngân hàng Thương mại mất khả năng thanh
toán sẽ dẫn đến phá sản doanh nghiệp.
Do đó việc quản trị xử lý Tín dụng để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh là rất quan trọng.
Sau gần 4 tháng theo học tại khóa “Bồi dưỡng kiến thức Quản lý Nhà
nước, Chương trình Chuyên viên chính năm 2008 ” tại Học viện Hành Chính,
được sự nhiệt tình giảng dạy, truyền thụ kiến thức của các Thầy, Cô trong Học
Viện, tôi đã có được những kiến thức cơ bản, bổ ích và thiết thực phục vụ cho
công tác quản lý đạt kết quả tốt. Trên cơ sở đó tôi lựa chọn đề tài “Tình huống
nâng cao năng lực quản trị và xử lý rủi ro tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng
Công thương khu vực BĐ ” để thực hiện bài Tiểu luận này.
Ngoài phần mở đầu, Tiểu luận được bố cục thành ba phần chính :
Phần thứ nhất : Mô tả tình huống.
Phần thứ hai : Phân tích nguyên nhân, hậu quả, và
phương pháp xử lý tình huống.
Phần thứ ba : Kết luận và kiến nghị.
Quản lý Nhà nước về kinh tế nói chung và quản trị rủi ro tín dụng nói
riêng là lĩnh vực rộng lớn, nhất là trong bối cảnh nước ta đang quá trình hội
nhập và trong xu thế toàn cầu hóa. Mặc dù tôi đã cố gắng vận dụng kiến thức để

hoàn thành đề tài, song không tránh khỏi những hạn chế, xin được các Thầy, Cô
đóng góp chỉ bảo thêm cho Tiểu luận được phong phú, có tác dụng thiết thực
trong ứng dụng và thực tiễn.
5
Thái Minh Lượng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Lớp Bồi dưỡng kiến thức Chuyên viên chính K2.08

Xin chân thành cảm ơn !





6
Thái Minh Lượng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Lớp Bồi dưỡng kiến thức Chuyên viên chính K2.08
Phần thứ nhất
MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
1)– Hoàn cảnh ra đời vào mục tiêu xử lý tình huống.
Từ khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Với sự tham gia của nhiều thành
phần kinh tế. Sự vận động mạnh của các thành phần kinh tế kết hợp với các cơ
chế điều hành về luật pháp và các cơ chế điều hành về luật pháp và các quy chế
chưa đồng bộ nên thị trường hàng hóa, thị trường vốn diễn ra hết sức phức tạp.
Bên cạnh đó nhiều địa phương, nhiều ngành nghề, nhiều loại hình doanh
nghiệp, từ thành thị đến nông thôn chưa có kinh nghiệm, chưa có trình độ phù
hợp để tiếp cận và vận hành sản xuất theo cơ chế mới. Mặt khác xét về cơ cấu
sở hữu, Ngân hàng Thương mại thuộc sở hữu Nhà nước chiếm thị phần chủ yếu
trong huy động vốn và cho nền kinh tế. Do vậy việc bỏ vốn đầu tư cho nền kinh
tế dựa trên phong trào, cảm thức chủ quan, và thiếu trách nhiệm…Vì vậy rủi ro

tín dụng là không tránh khỏi. Từ những năm cuối của thập kỷ 90 thế kỷ XX hoạt
động tín dụng Việt Nam đã trải qua những khó khăn, diễn ra ở toàn hệ thống các
Ngân hàng Thương mại cũng có thể gọi là khủng hoảng tín dụng. Đó là rủi ro
tín dụng xẩy ra phổ biến, nợ khó đòi tăng cao. Trước tình hình đó Ngân hàng
Thương mại thực hiện các giải pháp tình thế đi theo các giải pháp lâu dài, để
đưa lại kết quả như thông qua kiểm tra xử lý bằng giảm nợ, khoanh nợ, cho vay
mới, kể cả các biện pháp mạnh như sát nhập, giải thể hay cho phá sản những
Ngân hàng Thương mại mất khả năng thanh toán như Ngân hàng Thương mại
Việt Hoa, Ngân hàng Thương mại Châu Á Thái Bình Dương… như vậy việc
quản lý và xử lý rủi ro tín dụng là mục tiêu trước mắt và lâu dài.
7
Thái Minh Lượng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Lớp Bồi dưỡng kiến thức Chuyên viên chính K2.08
2) –Diễn biến tình huống.
Cho đến những năm đầu của thế kỷ 21 hoạt động Tín dụng của các Ngân
hàng Thương mại được khôi phục và có bước phát triển mới. Cùng với đà tăng
trưởng của nền kinh tế và dòng vốn nước ngoài đổ vào khá cao, tốc độ tăng tổng
phương tiện thanh toán và tổng dư nợ đến chóng mặt nhất là những năm gần
đây, đã báo hiệu tốc độ của lạm phát và hiện tượng kinh tế “ bong bóng ” dẫn
đến rủi ro tín dụng ( xem biểu sau đây):
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Tín Dụng
39.9 30.2 24.8 13.2 27.7 20.2 31.6 28.8 27.2 20.6 24.8 37.8
TPTTT
27.8 26.8 24.7 28.6 25.6 24.5 2.11 23.9 20.6 24.4 29.7 36.9
CPI
4.65 3.63 9.2 0.05 -0.6 0.79 4.04 3.01 9.5 8.4 6.6 12.63
Có nhiều cách phân loại rủi ro, tuy nhiên trong phạm vi hoạt động của các
Ngân hàng Thương mại Việt Nam, thì có thể tổng hợp thành 1 số loại rủi ro cơ
bản sau :

- Rủi ro tín dụng : Rủi ro thất thoát tài sản có thể phát sinh khi một bên
đối tác không thể thực hiện một nghĩa vụ tài chính hoặc nghĩa vụ theo hợp đồng
đối với một Ngân hàng, bao gồm cả việc không thực hiện thanh toán nợ cho dù
đấy là nợ gốc hay nợ lãi khi khoản nợ đến hạn. Rủi ro này bao gồm cả rủi ro
thanh toán khi một bên thứ ba ( ví dụ một Ngân hàng thanh toán ) không thực
hiện các nghĩa vụ của mình đối với Ngân hàng này.
- Rủi ro lãi suất: Thể hiện rủi ro lỗ tiềm tàng của một Ngân hàng do các
biến động lãi suất. Rủi ro lãi xuất có thể có một số hình thức khác nhau, như rủi
ro xác định lại lãi suất, rủi ro đường cong lãi suất thay đổi, rủi ro tương quan lãi
suất, và rủi ro quyền chọn đi kèm.
- Rủi ro thanh khoản: Phát sinh chủ yếu từ xu hướng của các Ngân hàng
là huy động ngắn hạn và cho vay dài hạn. Trường hợp này thường xảy ra nếu
8
Thái Minh Lượng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Lớp Bồi dưỡng kiến thức Chuyên viên chính K2.08
như các khoản huy động về mặt kỹ thuật sẽ phải hoàn trả theo yêu cầu của
người gửi tiền, đặc biệt như chúng ta đã thấy trong bất cứ cuộc khủng hoảng
nào thì người gửi tiền sẽ rút tiền của mình ra nhanh hơn việc người đi vay sẵn
sàng trả nợ.
- Rủi ro giá cả: Đây là rủi ro về việc giá trị tài sản của một Ngân hàng có
thể bị biến động. Rủi ro này xuất hiện trong tất cả các chủng loại tài sản, từ bất
động sản đến cổ phiếu hay trái phiếu…
- Rủi ro ngoại hối : Phát sinh khi có sự chênh lệch về kỳ hạn, về loại tiền
tệ của các khoản ngoại hối nắm giữ, và vì thế làm cho Ngân hàng có thể phải
gánh chịu thua lỗ khi tỷ giá ngoại hối biến động.
- Rủi ro hoạt động : Bao gồm toàn bộ các rủi ro có thể phát sinh từ cách
thức mà một Ngân hàng điều hành các hoạt động của mình. Các ví dụ về rủi ro
hoạt động là rất nhiều như: việc cấu trúc hạn mức không phù hợp trong lĩnh vực
kinh doanh nguồn vốn, quản trị tồi các qui trình quản lý tín dụng, cán bộ tham
ô, thiếu các kế hoạch khôi phục kinh doanh trong trường hợp xảy ra thảm họa…

- Rủi ro pháp lý : Thường tác động tới các Ngân hàng theo hai cách :
– Các khách hàng và những người khác có thể khởi kiện Ngân hàng. Lý
do của việc khởi kiện có thể phát sinh từ quá trình hoạt động kinh doanh bình
thường, ví dụ việc Ngân hàng từ chối cấp lại hạn mức cho vay mà theo khách
hàng là vô lý. Tuy nhiên, các trường hợp này có thể phát sinh từ các lý do tách
biệt khỏi hoạt động kinh doanh Ngân hàng như việc tài trợ cho những khách
hàng gây ô nhiễm môi trường có thể làm Ngân hàng bị các bên thứ ba kiện
cáo…
– Khi các thu xếp pháp lý của một Ngân hàng, ví dụ: các hợp đồng cho
vay và tài sản đảm bảo tiêu chuẩn của Ngân hàng đó có vấn đề, hoặc Nhà nước
thay đổi đột ngột chính sách vĩ mô về cơ cấu kinh tế, lĩnh vực ưu tiên… điều
này có thể dẫn tới rủi ro thua lỗ cho Ngân hàng.
9
Thái Minh Lượng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Lớp Bồi dưỡng kiến thức Chuyên viên chính K2.08
- Rủi ro chiến lược : Phát sinh từ các thay đổi trong môi trường hoạt động
của Ngân hàng trên phạm vi rộng hơn về mặt kinh doanh và tài chính. Rủi ro
chiến lược cũng có thể phát sinh từ các hoạt động của bản thân các Ngân hàng.
Ví dụ: việc xâm nhập vào một thị trường mới mà thiếu sự nghiên cứu đầy đủ và
thiếu các nguồn lực cần thiết để khai thác thị trường này có thể làm Ngân hàng
gặp rủi ro thua lỗ.
- Rủi ro uy tín : là rủi ro dư luận đánh giá xấu về Ngân hàng, gây khó
khăn nghiêm trọng cho Ngân hàng trong việc tiếp cận nguồn vốn hoặc khách
hàng rời bỏ Ngân hàng.
*. Thực trạng rủi ro tín dụng :
Rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của các Tổ chức tín dụng, theo
qui định tại điều 2 Qui định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để
xử lý rủi ro tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ – NHNN ngày
22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, là khả năng xảy ra
tổn thất trong hoạt động của Tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện

hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết. Hiện nay,
dịch vụ tín dụng cho vay của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam vẫn chiếm tỉ
trọng lớn nhất (trên 60 %) trong danh mục tài sản có, do đó, song song với việc
tăng trưởng tín dụng, nhiệm vụ đặt ra đối với hệ thống Ngân hàng là phải chú
trọng hơn nữa đến việc áp dụng hoàn thiện các giải pháp nâng cao quản trị rủi
ro tín dụng, như : xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, trong đó quy
định chính sách tín dụng của Ngân hàng, chiến lược tăng trưởng tín dụng phân
theo đối tượng khách hàng, khu vực, ngành và phát triển các chính sách khách
hàng dựa vào việc đánh giá và phân loại khách hàng, quản trị lãi suất và thanh
khoản nhằm đảm bảo tính hiệu quả và phát triển bền vững trong hoạt động tín
dụng.
Trong những năm qua, hoạt động tín dụng Ngân hàng đã đạt được những
thành tựu không nhỏ đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước.
10
Thái Minh Lượng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Lớp Bồi dưỡng kiến thức Chuyên viên chính K2.08
Các Ngân hàng Thương mại đã quan tâm hơn tới việc kiểm soát tỷ lệ tăng
trưởng tín dụng, tập trung vào hiệu quả của các hoạt động tín dụng. Quy trình
tín dụng được thực hiện gần hơn với chuẩn mực quốc tế. Danh mục cho vay
theo nhóm khách hàng của các Ngân hàng Thương mại tiếp tục thay đổi tích cực
theo hướng giảm dần tỷ trọng cho vay các doanh nghiệp Nhà nước, tăng dần tỷ
trọng cho vay đối với thành phần kinh tế phi nhà nước ( tỷ trọng dư nợ tín dụng
khu vực nhà nước chiếm khoảng 39 %/ tổng dư nợ vào 12/2002 và giảm xuống
còn 34 % vào 12/2004 ). Điều này hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển của
Việt Nam và thế giới vì khu vực kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế năng động,
phát triển nhanh và ngày càng có chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng thu nhập
quốc dân. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu trong tổng dư nợ của các Ngân
hàng Thương mại Việt Nam vẫn còn ở mức cao hơn so với nhiều Ngân hàng các
nước trong khu vực và trên thế giới.
Công tác cung cấp, khai thác sử dụng thông tin tín dụng tại nhiều Ngân

hàng Thương mại vẫn còn yếu, còn có tình trạng một khách hàng vay vốn tại
nhiều Ngân hàng Thương mại nhưng không có sự kiểm tra, đánh giá về mức độ
rủi ro. Việc phân tích, đánh giá rủi ro khách hàng còn có nhiều bất cập, chưa hỗ
trợ hiệu quả cho việc diễn ra quyết định cho vay và thu hồi nợ. Nguyên nhân
của tình trạng này là do công tác quản trị rủi ro tín dụng chưa được tiến hành
một cách bài bản, nghiêm ngặt. Rủi ro tín dụng chưa được xác định, đo lường,
đánh giá và kiểm soát một cách chặt chẽ, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và
yêu cầu hội nhập.
Để đảm bảo tăng trưởng tín dụng an toàn ,hiệu quả và bền vững, góp
phần tăng trưởng, phù hợp với thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu của Ủy ban
Basel (Basel II) về quản trị rủi ro trong hoạt động Ngân hàng, gần đây Ngân
hàng Nhà nước đã ban hành một số văn bản liên quan đến công tác quản trị rủi
ro tín dụng nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro, như :
11
Thái Minh Lượng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Lớp Bồi dưỡng kiến thức Chuyên viên chính K2.08
- Chỉ thị số 02/2005/CT- NHNN ngày 20/4/2005 yêu cầu các Ngân hàng
Thương mại tuân thủ đúng các quy định về cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài
chính, chiết khấu, bao thanh toán và bảo đảm tiền vay, bảo đảm tăng trưởng
tín dụng phù hợp với khả năng huy động vốn, đảm bảo chú trọng, đến công
tác quản trị rủi ro, kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
- Quyết định 783/2005/QĐ – NHNN ngày 31/5/2005 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà Nước sửa đổi bổ sung Quy chế cho vay của Ngân hàng Thương
mại đối với khách hàng. Các nội dung được sửa đổi quy định theo hướng
trao nhiều quyền phán quyết, hoặc tạo cơ sở Pháp lý cho Tổ chức tín dụng
chủ động thực hiện theo đặc thù kinh doanh – Ví dụ : việc cơ cấu lại thời
hạn trả nợ là do Ngân hàng Thương mại tự xem xét, quyết định trên cơ sở
khả năng tài chính của mình và kết quả đánh giá khả năng trả nợ của khách
hàng.
- Trước tình hình đó những đảm bảo an toàn vốn và ngăn chặn rủi ro tín dụng

có thể xảy ra mang tính hệ thống. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban
hành các văn bản điều hành và yêu cầu lãnh đạo các Ngân hàng Thương mại
nâng cao năng lực quản lý rủi ro và xử lý rủi ro tín dụng tồn đọng cũng như
rủi ro tiềm ẩn :
• Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22-04-2005 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước ban hành qui định về phân loại nợ, trích lập và
sử dụng dự phòng mà công văn số 354/CV của NHNN ban hành ngày
10-07-2002.

Tuy nhiên quá trình thực hiện vẫn còn tồn tại dưới các hiện tượng dưới đây:
12
Thái Minh Lượng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Lớp Bồi dưỡng kiến thức Chuyên viên chính K2.08
+ Những năm 2005-2006 nhiều Ngân hàng Thương mại tập trung vốn cho
vay các Công ty chứng khoán và môi giới chứng khoán tổng số dư nợ cho vay
kinh doanh bất động sản làm cho dư nợ tăng lên.
+ Về chất lượng tín dụng : Theo báo cáo của các Tổ chức tín dụng, tỷ lệ
nợ xấu trên tổng dư nợ giảm. Tuy nhiên, chất lượng tín dụng tại các Tổ chức tín
dụng vẫn là vấn đề cần quan tâm vì : (i) Tỷ lệ nợ xấu các Tổ chức tín dụng được
thanh tra cao hơn số liệu báo cáo; (ii) Sai phạm trong hoạt động tín dụng vẫn
xảy ra phổ biến tại hầu hết các Tổ chức tín dụng được thanh tra; (iii) Tốc độ
tăng trưởng tín dụng cao tại nhiều Tổ chức tín dụng chưa tương xứng với năng
lực quản trị điều hành, đặc biệt là quản trị rủi ro ; (iv) Một số Tổ chức tín dụng
tập trung cho vay kinh doanh các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao như chứng khoán,
bất động sản.
+ Một số Tổ chức tín dụng mở rộng mạng lưới nhưng thiếu cán bộ có
năng lực, kinh nghiệm, nhất là ở những vị trí chủ chốt nên khả năng quản trị,
điều hành Ngân hàng còn hạn chế, kinh doanh kém hiệu quả, tỷ lệ nợ xấu cao,
tiềm ẩn nhiều rủi ro.
+ Một số Tổ chức tín dụng chưa ban hành các quy định nội bộ theo quy

định, hoặc chậm sửa đổi, thay thế các văn bản không còn phù hợp; có trường
hợp văn bản quy định nội bộ của các Tổ chức tín dụng còn vi phạm các quy
định của pháp luật. Bộ máy kiểm tra, kiểm toán nội bộ tại một số Tổ chức tín
dụng hoạt động kém hiệu quả, chậm phát hiện sai phạm của Tổ chức tín dụng.
Có những lúc Tổ chức tín dụng còn chưa thành lập được bộ máy kiểm toán nội
bộ chuyên trách theo qui định.
Để chấn chỉnh tình hình Thống đốc Ngân hàng Nhà nước văn bản và kiên
quyết điều hành, đó là :
• Chỉ thị số 03/2007/CT-NHNN về việc điều hành chỉ tiêu cho vay các Tổ chức
chứng khoán xuống mức dư nợ khống chế là 3 %/ tổng dư nợ.
13
Thái Minh Lượng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Lớp Bồi dưỡng kiến thức Chuyên viên chính K2.08
• Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 15 tháng 4 năm 2007 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà Nước về việc sửa đổi bổ xung một số điều của quy định về
phân loại hỗ trợ, trích lập và sử dụng quỹ dự phòng về xử lý rủi ro tín dụng
trong hoạt động ngân hàng ban hành theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN.
Trên cơ sở 2 văn bản trên Hội đồng quản trị Ngân hàng Công thương Việt
Nam cũng ra văn bản hướng dẫn thực hiện các Quyết định của Ngân hàng Nhà
nước.
* Quyết định số 234/QĐ-HĐQT-NHCT ngày 9-6 năm 2005, của HĐQT-
NHCT-VN về việc ban hành quy chế về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng
quỹ dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng Công thương.
Vào năm 2007 cũng có Quyết định tiếp theo đó là: Quyết định số
296/QĐ-HĐQT-NHCT ngày 1-8-2007 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của
quy định về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng quỹ dự phòng để xử lý rủi ro
tín dụng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương.
3. Ngân hàng Công thương khu vực BĐ và nhiệm vụ xử lý rủi ro tín dụng
theo Quyết định số 493 của Ngân hàng Công thương Việt Nam.

a) Khái quát về Chi nhánh Ngân hàng Công thương - Khu vực BĐ
- Tiền thân của Ngân hàng Công thương khu vực BĐ là Chi điếm Ngân
hàng Nhà nước.
- Năm 1988 thực hiện Nghị định 53 của Hội đồng Bộ trưởng Chi điếm
Ngân hàng BĐ được chuyển đổi thành một Chi nhánh Ngân hàng Thương mại
quốc doanh với tên gọi là Chi nhánh Ngân hàng Công thương quận BĐ trực
thuộc Ngân hàng Công thương thành phố Hà Nội.
- Trước những khó khăn vướng mắc về mô hình, vào ngày 1-4-1993-
NHCT-VN thực hiện thí điểm mô hình tổ chức ngân hàng công thương hai cấp
14
Thái Minh Lượng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Lớp Bồi dưỡng kiến thức Chuyên viên chính K2.08
(TW- quận), xoá bỏ cấp trung gian là Ngân hàng công thương Hà Nội cùng với
việc đổi mới và tăng cường công tác cán bộ, chi nhánh Ngân hàng Công thương
quận BĐ một lần nữa được nâng cấp quản lý và chuyển đổi thành Chi nhánh
Ngân hàng Công thương khu vực BĐ theo quyết định số 67-QĐ-NH5 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
b) Đặc điểm hoạt động tín dụng của Ngân hàng Công thương - Khu vực
Hà Nội
Ngân hàng Công thương khu vực BĐ là chi nhánh loại lớn được Ngân
hàng Công thương - Việt Nam uỷ quyền theo dõi và cho vay nhiều Tổng Công
ty, Tập đoàn kinh tế, và hoạt động tín dụng với kinh tế nhiều thành phần trên địa
bàn, vì vậy trong cơ cấu bộ máy, có 3 Phòng Tín dụng là:
+ Phòng khách hàng doanh nghiệp lớn.
+ Phòng khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ.
+ Phòng khách hàng cá nhân.
Đáng lưu ý là từ khi có Quyết định số 493 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước về việc phân loại nợ, trích lập và xử lý nợ rủi ro thì Ngân hàng Công
thương - khu vực BĐ đã thành lập thêm Phòng Quản lý rủi ro và nợ có vấn đề.
Tình hình cho vay của Ngân hàng Công thương - Khu vực BĐ trước

những năm chưa có văn bản xủ lý nợ, có số dư nợ khá lớn và tập trung vào các
tập đoàn kinh tế, các tổng công ty (thường chiếm trên 50% số dư nợ cho vay
nền kinh tế của Ngân hàng Công thương - BĐ).
c) Số nợ xấu cần được giải quyết.
Chỉ tiêu
Nợ tồn
đọng
Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007
15
Thái Minh Lượng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Lớp Bồi dưỡng kiến thức Chuyên viên chính K2.08
- Tổng dư nợ 2.816.000 2.360.000 2.643.000
+ Nợ xấu tồn đọng
trước năm 2001
3.120 tỷ
+ Nợ xấu quá hạn
cần xử lý
77.361 68.337 80.446
+ Dư nợ quá hạn 19.600 4.554 19.308
Như vậy Ngân hàng Công thương BĐ có số nợ xấu tiềm ẩn rủi ro qua các
năm cần phải xử lý theo từng năm 2005-2006-2007 với số tương ứng là 77 tỷ -
68 tỷ vào 80 tỷ.
Đáng quan tâm hơn cả là phải quản lý và xử lý số nợ tồn đọng từ những
năm trước 2001 lên tới 3000 tỷ. Năm 2005 mới xử lý được 103 triệu đồng bằng
3,3%.
16
Thái Minh Lượng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Lớp Bồi dưỡng kiến thức Chuyên viên chính K2.08
Phần Thứ hai
PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN, HẬU QUẢ

VÀ CÁC PHƯƠNG ÁN XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
1. Nguyên nhân
Khi phân tích nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng chúng ta đã đưa ra hai
loại nguyên nhân đó là nguyên nhân các khách hàng gây nên và loại nguyên
nhân thuộc về phía Ngân hàng nhưng phần lớn nguyên nhân chủ yếu vẫn là các
khách hàng vay vốn gây ra rủi ro.
a) Về phía doanh nghiệp.
+ Đó là một số doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn kinh tế, hoạt động kém
hiệu quả, buông lỏng quản lý, lãng phí, kém sức cạnh tranh, dựa dẫm ỷ lại vào
nhà nước và vô trách nhiệm của một số lãnh đạo các doanh nghiệp này dẫn đến
thua lỗ, mất vốn không trả được nợ cho Ngân hàng.
+ Đó là các chủ dự án, các giám đốc doanh nghiệp ngoài quốc doanh do
trình độ điều hành, trình độ nhận thức pháp luật còn rất hạn chế, không nắm
vững chủ trương chính sách, hoạt động vi phạm pháp luật.
+ Đó là nhiều doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn trong
hoạt động sản xuất kinh doanh có biểu hiện làm ăn chụp giật, lừa đảo, cạnh
tranh không lành mạnh, tẩu tán tài sản dưới nhiều hình thức và vi phạm pháp
luật.
+ Thiếu thông tin, hoặc không đủ trình độ để xử lý thông tin, không năng
động trong điều hành để tìm hướng làm mới, thị trường không có vốn để nâng
cao năng lực sản xuất và năng lực cạnh tranh.
+ Một số doanh nghiệp do trình độ, kinh nghiệm tổ chức sản xuất kinh
doanh của chủ dự án yếu kém lỏng lẻo, lối sống buông thả dẫn tới nhiều doanh
nghiệp có nguy cơ phá sản.
17
Thái Minh Lượng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Lớp Bồi dưỡng kiến thức Chuyên viên chính K2.08
+ Một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức trong bộ máy công quyền của
Nhà nước còn nhiều nhũng nhiễu, công quyền, cản trở sự phát triển của các
doanh nghiệp.

b. Về phía Ngân hàng.
Nguyên nhân từ phía Ngân hàng đưa lại rủi ro thể hiện trên các mặt sau
đây:
Một là: Việc cho vay không tuân thủ đầy đủ cơ chế tín dụng do ngân hàng
nhà nước ban hành.
Hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng là do vận hành của nhiều
cơ chế điều chỉnh trong đó cơ chế tín dụng ngân hàng là một trong những cơ
chế chủ yếu trực tiếp chi phối đến hoạt động kinh doanh của tổ chức này.
Vì vậy, chúng ta có thể hiểu cơ chế tín dụng Ngân hàng là phương thức
kinh doanh của các tổ chức tín dụng trong từng giai đoạn nhất định. Chính vì
vậy nó có nhiều biện pháp thể chế khác nhau hình thành một hệ thống văn bản.
Từ năm 1990 thực hiện Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước, Pháp lệnh Ngân
hàng, Hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính và các văn bản quy phạm pháp
luật khác, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành các cơ chế tín dụng, thường xuyên
chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với hệ thống pháp luật của Nhà nước và sự phát
triển của thị trường tiền tệ, cụ thể như sau:
Năm 1997, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành các Quyết định
chỉnh sửa, bổ sung một số điều của thể lệ tín dụng ngắn hạn theo Quyết định số
199/QĐ-NH1 và sửa đổi một số điều của thể lệ tín dụng trung và dài hạn theo
Quyết định số 200/QĐ-NH ngày 28/6/1997 và Chỉ thị số 09CT-NH ngày 27-8-
1997 về một số điều kiện và thủ tục tín dụng.
- Các cơ chế tín dụng đã thể chế hoá chủ trương của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước; về cơ bản cơ chế tín dụng phù hợp với hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, cá nhân và Tổ chức tín dụng; cơ chế tín dụng được
18
Thái Minh Lượng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Lớp Bồi dưỡng kiến thức Chuyên viên chính K2.08
ban hành kịp thời cho đầu tư tín dụng theo mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế
nhà nước.
Sau khi hai đạo luật về Ngân hàng ra đời đã trở thành lịch sử đầu tiên ở

nước ta hoạt động Ngân hàng có cơ sở pháp lý cao nhất đầy đủ từ trước đến nay.
Ngân hàng Nhà nước đã nhanh chóng tổ chức học hỏi nước ngoài và tập trung
các cán bộ chuyên môn đầu ngành soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật.
Các Ngân hàng Thương mại,các Tổ chức tín dụng cũng tiến hành cụ thể hóa các
văn bản của Ngân hàng Nhà nước để thực hiện phối hợp với từng bộ phận trực
thuộc cụ thể là :
* Không tuân thủ quy chế cho vay
Ngày 30/09/1988, Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước ban hành Quy chế
cho vay Tổ chức tín dụng đối với khách hàng theo Quyết định số 324/1998/QĐ-
NHNN1 quy chế này đã thực hiện đã khắc phục được những hạn chế tồn tại do
các quy chế trước đây chưa giải quyết được. Tuy nhiên, do thực tiễn của hoạt
động kinh tế nước ta cũng như công cuộc Việt Nam chuẩn bị hội nhập đòi hỏi
sự chuyển động nhiều hơn, nhanh hơn của các doanh nghiệp và hoạt động Ngân
hàng do vậy việc thực hiện quy chế chưa được bao lâu những hạn chế tồn tại
vẫn phát sinh và gây nhiều vướng mắc trong giải quyết. Vì vậy, Thống đốc
NHNN lại tiếp tục ban hành quy chế 15/8/2000. Quy chế cho vay này thay thế
cho Quy chế 324/1998/QĐ-NHNN1 nhằm nâng thêm một bước phù hợp với các
văn bản pháp luật có liên quan mới được thi hành của nền kinh tế như Luật
doanh nghiệp sửa đổi, Luật Nhà đất, Luật phá sản v.v
Bối cảnh ra đời của hai Quy chế cho vay đối với khách hàng trên đây (số
324/1998 và số 284/2000) sau thời gian trong khu vực xảy ra khủng hoảng tài
chính ở Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ đó là chất lượng tín dụng
giảm sút vào những năm 1997-1998 nợ tín dụng xấu ở một số Ngân hàng
Thương mại tăng cao nhiều doanh nghiệp thua lỗ dẫn đến phá sản kéo theo rủi
19
Thái Minh Lượng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Lớp Bồi dưỡng kiến thức Chuyên viên chính K2.08
ro tín dụng của các Ngân hàng Thương mại lên hàng ngàn tỉ đồng như Tamexco,
Efco Minh Phụng. Quy chế cho vay số 284/2000/QĐ-NHNN bộc lộ nhiều thiếu
sót.

Vì vậy, ngày 31/12/2001, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ra Quyết định
số 1267/2001/QĐ-NHNN về việc ban hành Quy chế cho vay cho Tổ chức tín
dụng đối với khách hàng.
Luật Ngân hàng ra đời vào thời điểm Việt Nam bước vào thời kỳ tăng tốc
xây dựng và hoàn thiện nhiều bộ luật của đất nước như: Luật kinh tế, một biến
đổi và là động lực khác đó là việc Việt Nam cũng tăng tốc việc hội nhập khu
vực và thế giới thể hiện đầy đủ nhất là một quá trình diễn ra việc đàm phán để
gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) mà đầu năm 2006 đã thành công,
Việt Nam đã trở thành thành viên của tổ chức này. Với sự kiện quan trọng này,
pháp luật Việt Nam cũng cần được sửa đổi điều chỉnh từng bước vừa bảo đảm
tạo điều kiện cho kinh tế trong nước phát triển vừa phù hợp cho thông lệ quốc
tế. Chính vì lẽ đó, quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng
theo Quyết định số 627/2001/QĐ/NHNN cũng được nhiều lần tiếp tục sửa đổi
và bổ sung những nội dung mới như:
- Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/2/2005 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi bổ sung một số điểm của quy chế cho vay
của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành theo Quyết định
1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
- Quyết định số 783/2005/QĐ-NHNN ngày 31/05/2005 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung khoản 6 điều 1 của Quyết định số
127/2005/QĐ-NHNN, ngày 03/05/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
* Không thực hiện tốt quy chế bảo đảm tiền vay.
Vậy khi đã có Luật Ngân hàng cần phải có văn bản pháp quy dưới Luật
tạo lập tính đồng bộ trong hoạt động cho vay vốn, vốn cho vay của Ngân hàng
Thương mại là vốn đi vay vốn huy động của đơn vị và của các tổ chức kinh tế
20
Thái Minh Lượng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Lớp Bồi dưỡng kiến thức Chuyên viên chính K2.08
khác tạm thời nhàn rỗi, nhằm đảm bảo an toàn vốn giảm bớt rủi ro thì khi Ngân
hàng cho vay phải đưa những điều kiện cần thiết mà người vay vốn phải có đó

chính là quy chế bảo đảm tiền vay.
Thực hiện đúng đắn quy chế bảo đảm quy chế tiền vay trước hết nó đưa
lại sự an toàn vốn cho Ngân hàng mặt khác nó có tác dụng đòi hỏi người vay có
trách nhiệm cao nhất đối với vốn vay, tạo tính năng sử dụng vốn tốt nhất tiết
kiệm nhất.
Việc hình thành và triển khai quy chế đảm bảo tiền vay cũng có những
giai đoạn được thực hiện theo những quy chế khác nhau và tuỳ thuộc vào năng
lực sử dụng có hiệu quả vốn vay của người vay mà điều kiện đảm bảo an toàn
vốn được đặt ra cho phù hợp. Điều đó được thể hiện như sau:
- Sau khi có pháp luật Ngân hàng trong điều kiện trong khu vực mới trải
qua một giai đoạn suy thoái tài chính tiền tệ, trong khi đó hoạt động tín dụng ở
nước ta cũng có những vấp váp, rủi ro khá lớn, chất lượng tín dụng yếu kém. Vì
vậy quy chế bảo đảm tiền vay rất chặt chẽ cụ thể là:
+ Chính phủ ban hành Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày về bảo đảm
tiền vay các Tổ chức tín dụng.
Trên cơ sở Nghị định trên của Chính phủ ngày 23/04/2001 giữa NHNN,
Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính và Tổng cục địa chính có Thông tư liên
tịch số 03/2001/TTLT-BTP-BCA-BTC-TCĐC hướng dẫn việc xử lý tài sản đảm
bảo tiền vay để thu hồi nợ cho các Tổ chức tín dụng.
Có thể nói 2 văn bản pháp quy trên đây gây ra nhiều khó khăn cho các cơ
quan thi hành cũng như thiếu tính chặt chẽ:
+ Hầu như các khoản vay Ngân hàng đều phải có tài sản thế chấp.
+ Việc đánh giá tài sản thế chấp thường thấp hơn so với thị trường.
+ Mức cho vay so với tài sản thế chấp (không quá lớn) có tình trạng trên
bởi lẽ:
21
Thái Minh Lượng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Lớp Bồi dưỡng kiến thức Chuyên viên chính K2.08
- Sau những đổ vỡ (rủi ro tín dụng) trong những năm 1985-1987 thì các
cơ quan bảo vệ pháp luật vận dụng và áp dụng. Bộ luật hình sự vì vậy cán bộ tín

dụng luôn phải đối phó, giữ độ an toàn tuyệt đối khi có bất trắc xảy ra.
- Ngân hàng thương mại chưa được tính quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp…
Tình hình trên đây còn gặp những cản trở bởi nạn rườm rà về thủ tục hành
chính của các cơ quan công quyền về công chứng về chính quyền xác nhận về
đòi hỏi giấy tờ… đã gây khó khăn ách tắc cho các đơn vị và cá nhân người vay
vốn đến với Ngân hàng.
Trước tình trạng đó các văn bản chế tài dưới đây được ban hành:
- Nghị định số 85/2002/NĐ-CP ngày 25/10/2005 của Chính phủ về sửa
đổi, bổ sung Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ về
bảo đảm tiền vay của Tổ chưc tín dụng.
- Nghị định số 1380/2002/QĐ-NHNN ngày 16/12/2002 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước về việc huỷ bỏ định mức cho vay không bảo đảm bằng tài
sản của Tổ chức tín dụng.
- Quyết định số 138/2002/QĐ-NHNN ngày 16/12/2002 của Ngân hàng
Nhà nước, hướng dẫn cho vay không có bảo đảm bằng tài sản.
Những nội dung của các văn bản pháp quy trên đây được chính thức hóa
bằng quan điểm của Đảng và Nhà nước đó là :
- Nghị quyết số 02/2003/NQ-CP ngày 17/01/2003 của Chính phủ về cho
vay không phải bảo đảm bằng tài sản.
- Thông tư số 03/2003/TT-NHNN ngày 24/02/2003 của Ngân hàng Nhà
nước hướng dẫn cho vay không phải bảo đảm bằng tài sản theo Nghị quyết số
02/2003/NQ-CP ngày 17/01/2003 của Chính phủ về cho vay không phải đảm
bảo bằng tài sản.
Tuy nhiên việc quy định mới và nội dung trong các văn bản trên chỉ là
vận dụng việc cho vay không có đảm bảo bằng tài sản ở một số đối tượng vay
vốn như các doanh nghiệp nhà nước các hộ nông dân nghèo cho vay sinh
22
Thái Minh Lượng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Lớp Bồi dưỡng kiến thức Chuyên viên chính K2.08
viên…trong thực tế vận dụng của các bộ tín dụng ngân hàng có nợ vẫn giữ vững

sự chặt chẽ quá mức ,có nơi lại quá dễ dãi,bỏ qua hết các quy định cần thiết như
bảo lãnh thế chấp…,dễ xảy ra rủi ro.Vì vậy NHNN phải tiếp tục điều chỉnh
bằng các văn bản bổ sung và các Chỉ thị chỉ đạo và uốn nắn trong hoạt động tín
dụng của Ngân hàng Thương mại.
Hai là: Nhiều Ngân hàng thương mại chưa tạo được đội ngũ cán bộ tín
dụng giỏi,nhất là năng lực điều động dự án còn hạn chế, dẫn đến phải giải quyết
cho vay kém chất lượng.
Ba là: Cũng không lại trừ do sức ép của địa phương, tính cục bộ cho vay
vốn và cho vay theo phong trào:các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp nhà nước,
doanh nghiệp và dự án trọng điểm mà xa rời quy chế cho vay.
Cuối cùng là do phẩm chất đạo đức của cán bộ mà bất chấp quy chế,luồn
lách quy chế … để cho vay vụ lợi.
2/-Hậu quả của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động của Ngân hàng thương mại,nó
phản ánh tình huống bất bình thường xảy ra gây tổn thất cho ngân hàng.Khi tổn
thất xảy ra trước hết thu nhập của Ngân hàng giảm sút dẫn đến lợi tức và trị giá
cổ phiếu của ngân hàng giảm.Việc cổ phiếu ngân hàng giảm giá, nếu không
được kịp thời chấn chỉnh sẽ có thể kéo theo việc bán hàng loạt cổ phiếu trên thị
trường, là điểm mở đầu của quá trình mua lại, sáp nhập hoặc thay thế quản lý
Ngân hàng.
Rủi ro tín dụng có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản với việc hàng loạt người
gửi tiết kiệm rút tiền ra khỏi Ngân hàng, buộc ngân hàng phải đóng cửa và
tuyên bố phá sản.
Tổn thất (ở mức thấp ) làm giảm quỹ dự phòng, giảm vốn và quỹ của
Ngân hàng.
23
Thái Minh Lượng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Lớp Bồi dưỡng kiến thức Chuyên viên chính K2.08
Để đối phó với tình huống trên, Ngân hàng có thể phải giảm tiền lương
(hoặc chi phí khác), giảm lao động …dẫn đến các ảnh hưởng không tốt về nhân

sự, về thị trường hoặc nguồn công nghệ…
3/- Các phương án và biện pháp giải quyết tình huống
a/Phương án thứ nhất.
Trên cơ sở số liệu trên báo cáo thống kê và theo dải nợ xấu tồn đọng đến
nay, giám đốc Ngân hàng công thương khu vực BĐ quyết định như sau:
- Tập trung lực lượng cán bộ tín dụng vào việc thu nợ tồn đọng
- Kiên quyết không cho vay tiếp theo đối với các đơn vị vay vốn có nợ
xấu.
- Giảm dư nợ cho vay mới đến mức thấp nhất để bảo đảm an toàn vốn.
Việc cho vay không phân biệt đối tượng khách hàng đều phải có tài sản thế chấp
mức cho vay không quá 70% giá trị thế chấp. Hoặc phải có người đủ tư cách
bảo lãnh mới cho vay.
Phương án này:
-Ưu điểm : Tích cực thu nợ tồn đọng nhằm giảm thiểu rủi ro cho Ngân
hàng BĐ
- Nhược điểm: Phương án này còn nhưng tồn tại như sau:
+ Chưa thể hiện về chất của hoạt động ngân hàng thương mại vì lợi nhuận
đã buông lỏng quản lí, cho vay không đảm bảo quy chế, chạy theo số dư nợ,
thiếu kiểm tra, thẩm định không đầy đủ… Lúc gặp rủi ro lại chặt chẽ cực đoan,
thiếu tin tưởng đội ngũ cán bộ tín dụng và đối phó với khách hàng không có
phân biệt đối xử đúng sai…
+ Là một Ngân hàng giảm dư nợ đến cực đoan là Ngân hàng không vì nền
kinh tế - gây khó khăn cho nền kinh tế, gây hoang mang tâm lí người gửi tiền và
gây tâm lí bất ổn trong đội ngũ cán bộ trong đơn vị Ngân hàng .
+ Tác hại trước nhất là đối với Ngân hàng BĐ: thu nhập kém , đời sống
khó khăn, dễ dẫn đến thua lỗ cũng dẫn đến rủi ro toàn diện hoạt động.
24
Thái Minh Lượng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Lớp Bồi dưỡng kiến thức Chuyên viên chính K2.08
+ Cuối cùng là những đơn vị đang có nợ hiện hành ,sợ ngân hàng giảm

thiểu cho vay nên sẽ đối phó bằng không tích cực trả nợ.
Chính hiện tượng này mà cấp uỷ chính quyền địa phương phải can thiệp
nhằm đảm bảo ổn định và phát triển kinh tế trên địa bàn 1 cách bình thường,
không xáo trộn dẫn đến khó khăn.
Ngân hàng cấp trên phải kịp thời uốn nắn chỉ đạo hoạt động bảo đảm
chính sách chung nhất là uốn nắn quan điểm và nâng cao năng lực cho đội ngũ
cán bộ lãnh đạo ngân hàng này.
b/ Phương án thứ hai:
Cũng trên cơ sở số liệu báo cáo thống kê và theo dõi nợ xấu tồn đọng,
giám đốc Ngân hàng khu vực BĐ quyết định như sau:
- Tiếp tục xúc tiến việc tăng cường thu hồi nợ tồn đọng
- Đổi 100% cán bộ tín dụng từ chuyên cho vay đơn vị này sang cho vay
đơn vị khác. Đồng thời,tiếp tục xiết chặt điều kiện chi vay một cách chặt chẽ
Phương án này:
-Ưu điểm là:
+ Phát huy tích cực trong thu nợ để giảm thiểu rủi ro
+ Việc chuyển đổi cán bộ tín dụng có ưu điểm là tránh được việc cán bộ
thân quen với người vay, tạo hiện tượng nể nang thậm chí dễ thoả hiệp tiêu cực.
Tuy nhiên, phương pháp này bộc lộ những nhược điểm sau đây:
+ Một là: vẫn thể hiện sự đối phó cực đoan,chưa phải biện pháp tích cực
của hoạt động ngân hàng hiện đại. Không có tính thuyết phục, thiếu tác dụng
cho việc tháo gỡ khó khăn của Ngân hàng.
+ Hai là: thể hiện sự quan tâm đến nền kinh tế chưa đúng đắn, phương
châm phải là mở rộng tín dụng an toàn,phát triển tín dụng vững chắc.
+ Ba là: Việc chuyển đổi cán bộ tuy có mặt ưu điểm nhưng vẫn đây vẫn là
thực trạng đối phó không chuẩn mực.Việc cán bộ tín dụng chuyên quản đơn vị
vay vốn là rất cần thiết và là điều kiện quan trọng để nắm vững kết quả hoạt
25
Thái Minh Lượng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

×