Tải bản đầy đủ (.docx) (75 trang)

Luận văn: “Chế độ pháp lý nhằm quản lý rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ” ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.92 KB, 75 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Hoàng Thị Hà
Luận văn:
“Chế độ pháp lý nhằm quản lý rủi ro
tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Láng Hạ”
1
Trường ĐH Kinh tế Quốc dân - 1 - Lớp: Luật KD - K45
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Hoàng Thị Hà
MỤC LỤC
2
Trường ĐH Kinh tế Quốc dân - 2 - Lớp: Luật KD - K45
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Hoàng Thị Hà
LỜI NÓI ĐẦU
Sau hơn 20 năm đổi mới nền kinh tế đất nước, cùng với sự phát triển nhanh chóng
của các ngành kinh tế, lĩnh vực Tài chính- Ngân hàng cũng được điều chỉnh và tập
trung phát triển cho phù hợp với yêu cầu thời kỳ mới.Bên cạnh đó, hệ thống các Ngân
hàng Thương Mại (NHTM) Việt Nam không ngừng lớn mạnh về mọi mặt, kể cả số
lượng, qui mô, nội dung và chất lượng; đã có những đóng góp xứng đáng vào công
cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa nền kinh tế nói chung và quá trình đổi mới, phát
triển của các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp và dân doanh nói riêng; thực sự là
ngành tiên phong trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế. Đặc biệt trong những năm
qua, hoạt động ngân hàng nước ta đã góp phần tích cực huy động vốn, mở rộng vốn
đầu tư cho lĩnh vực sản xuất phát triển, tạo điều kiện thu hút vốn nước ngoài để tăng
trưởng kinh tế trong nước. Ngành ngân hàng đã xứng đáng là công cụ đắc lực hỗ trợ
cho nhà nước trong việc kiềm chế, đẩy lùi lạm phát, ổn định giá cả, bình ổn thị trường
và phát triển sản xuất, kích thích tiêu dùng.
Trong hoạt động của ngân hàng thì hoạt động tín dụng là một trong những hoạt
động tạo ra giá trị lớn cho ngân hàng. Hoạt động tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu của hệ
thống NHTM ở nước ta hiện nay, chiếm tỷ trọng lớn nhất (trên 60%) trong danh mục
tài sản nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất. Do đó, song song với việc tăng trưởng tín


dụng, nhiệm vụ đặt ra đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam là phải chú trọng hơn nữa
đến việc áp dụng và hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm kiểm soát rủi ro hạn
chế các tiêu cực mà các rủi ro này gây ra.
Trước tình hình đó, cộng với những kiến thức có được trong quá trình nghiên cứu
thực tập tại chi nhánh Ngânh hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ, tôi
quyết định chọn tên đề tài “Chế độ pháp lý nhằm quản lý rủi ro tín dụng tại chi
nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ” để từ đó có
nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của quản lý rủi ro tín dụng đối với sự an toàn và
vững mạnh của NHTM nói chung và chi nhánh Ngânh hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Láng Hạ nói riêng
Kết cấu của chuyên đề ngoài lời mở đầu và kết luận gồm 3 phần:
3
Trường ĐH Kinh tế Quốc dân - 3 - Lớp: Luật KD - K45
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Hoàng Thị Hà
Chương 1: Vấn đề pháp lý chung nhằm quản lý rủi ro tín dụng
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật nhằm quản lý rủi ro tại chi nhánh Ngânh
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngânh
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ nói riêng
4
Trường ĐH Kinh tế Quốc dân - 4 - Lớp: Luật KD - K45
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Hoàng Thị Hà
CHƯƠNG 1. VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CHUNG NHẰM QUẢN LÝ RỦI RO TÍN
DỤNG
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG
1.1.1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng
1.1.1.1. Khái niệm về hoạt động Tín dụng Ngân hàng
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động Ngân hàng đã có bước phát triển
rất nhanh chóng, các dịch vụ Ngân hàng cung cấp ngày càng phong phú, đa dạng và đã
mang lại nguồn thu rất lớn cho hệ thống các Ngân hàng, trong các hoạt động đã thì

hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động chủ yếu tạo ra nguồn lợi nhuận lớn
cho Ngân hàng.
Vì vậy theo điều 20.8 Luật các tổ chức Tín dụng 2004 thì hoạt động tín dụng được
hiểu là việc các Ngân hàng sử dụng nguồn vốn tự có của mình, để cấp Tín dụng. Việc
cấp Tín dụng là công việc chủ yếu của hầu hết các Ngân hàng Thương Mại, là việc các
Ngân hàng Thương Mại thoã thuận để các khách hàng sử dụng một khoản tiền với
nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính,
bảo lãnh và các dịch vụ khác… Hầu hết các thoã thuận giữa Ngân hàng và các chủ thể
khác trong nền kinh tế được thể hiện thông qua các hợp đồng Tín dụng. Các hợp
đồng này phải bao gồm các nội dung sau:
• Điều kiện vay
• Mục đích sử dụng tiền vay
• Hình thức vay
• Số tiền vay
• Lãi suất vay
• Thời hạn vay
5
Trường ĐH Kinh tế Quốc dân - 5 - Lớp: Luật KD - K45
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Hoàng Thị Hà
• Hình thức bảo đảm
• Giá trị tài sản bảo đảm
• Phương thức trả nợ
• Các cam kết khác
1.1.1.2. Khái niệm và phân loại tín dụng
Rất nhiều các khái niệm khác nhau về tín dụng của ngân hàng. Tuy nhiên, chung
quy lại tín dụng được hiểu là quan hệ vay mượn có hoàn trả vốn và lãi sau một thời
gian nhất định giữa ngân hàng với các chủ thể khác trong nền kinh tế (các cá nhân, hộ
gia đình, các tổ chức…). Tín dụng được phân loại theo nhiều tiêu thức:
* Theo thời gian, Tín dụng được phân chia thành
- Tín dụng ngắn hạn: là những khoản vay có thời gian dưới 01 năm để tài trợ

cho tài sản lưu động
- Tín dụng trung hạn: là những khoản vay thông thường từ 01 đến 05 năm tài
trợ cho các tài sản cố định như máy móc thiết bị
- Tín dụng dài hạn: là những khoản vay từ 5 năm trở lên để tài trợ cho các tài
sản cố định có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài.
Nhìn chung, tỷ trọng tín dụng ngắn hạn thường cao hơn tín dụng trung và dài hạn.
Vì tín dụng ngắn hạn chủ yếu tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động của khách hàng, hơn
nữa Tín dụng ngắn hạn có rủi ro thấp hơn tín dụng trung và dài hạn, độ an toàn cao,
Trong khi đó tín dụng trung và dài hạn thì thời gian thu hồi vốn rất dài, thời gian sử
dụng vốn lâu…
* Theo hình thức tài trợ:
6
Trường ĐH Kinh tế Quốc dân - 6 - Lớp: Luật KD - K45
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Hoàng Thị Hà
- Cho vay: Là việc Ngân hàng cho khách hàng vay tiền với cam kết khách hàng
phải hoàn trả gốc và lãi trong thời gian xác định. Hầu hết các Ngân hàng Thương Mại
thì hình thức cho vay chiếm một tỷ trọng rất lớn trong hoạt động Tín dụng
- Bảo lãnh: Theo điều 20.12 Luật các tổ chức Tín dụng 2004 đã là các cam kết
bằng văn bản của Ngân hàng (hay tổ chức Tín dụng khác) với bên có quyền về việc
thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện
đúng nghĩa vụ cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho Ngân hàng số tiền
đã được trả thay.
- Cho thuê: Là việc Ngân hàng bỏ tiền mua các tài sản để cho khách hàng thuê
theo sự thoã thuận của hai bên. Có hai hình thức cho thuê đó là cho thuê tài chính và
cho thuê nghiệp vụ. Trong đó hình thức cho thuê tài chính là hoạt động chủ yếu trong
các hoạt động cho thuê, đây là hoạt động tín dụng trung, dài hạn trên cơ sở các hợp
đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là Ngân hàng với các khách hàng thuê. Khi
kết thúc thời hạn thuê khách hàng có thể mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo
các điều kiện thoã thuận trong hợp đồng thuê. Trong thời hạn cho thuê không được
đơn phương huỷ hợp đồng (theo điều 20.1, Luật các tổ chức Tín dụng năm 2004).

* Theo tài sản đảm bảo:
- Tín dụng có tài sản đảm bảo: là việc ngân hàng cho khách hàng vay vốn dựa
trên cam kết người nhân tín dụng sẽ dùng tài sản đảm bảo để trả nợ trong một số
trường hợp.
- Tín dụng không có tài sản đảm bảo: có thể được cấp cho khách hàng có uy
tín, thường là làm ăn thường xuyên có lãi hoặc các khoản vay của các tổ chức lớn hay
theo chỉ định của Chính phủ. Ngoài ra, tín dụng ngân hàng còn có nhiều cách phân
loại khác nữa. Việc phân loại tín dụng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho ngân hàng
trong việc theo dõi rủi ro, lợi nhuận…
1.1.2. Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng
7
Trường ĐH Kinh tế Quốc dân - 7 - Lớp: Luật KD - K45
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Hoàng Thị Hà
1.1.2.1. Khái niệm, phân loại rủi ro tín dụng
Hoạt động tín dụng là một lĩnh vực hoạt động nhạy cảm và tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Đặc biệt trước xu thế hội nhập các ngân hàng sẽ phải đối phó với cạnh tranh cũng
như nhiều loại hình rủi ro khác. Hơn nữa do nước ta có xuất phát điểm của các ngân
hàng khác thấp so với các nước trong khu vực nên việc phải tập trung phát triển và
quan tâm đến lợi nhuận được xem là ưu tiên số 1, chúng ta đã bỏ qua các loại hình
rủi ro trong hoạt động tín dụng. Những rủi ro này có thể mang những tổn thất
nghiêm trọng, đó là lý do tại sao tỉ lệ nợ xấu rất cao, khả năng kiểm soát thì rất thấp.
Để hạn chế bớt rủi ro cho hoạt động tín dụng trước hết chúng ta phải hiểu thế nào là
rủi ro tín dụng. Có rất nhiều khái niệm về rủi ro tín dụng:
- Theo điều 2.1 quyết định số: 493/2005/QĐ-NHNN, ngày 22/4/2005 của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước thì “rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức
Tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức Tín dụng
do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình
theo cam kết”
- Theo điều 2.1 quyết định số: 165/QĐ-HĐQT, ngày 06/6/2005 của Hội đồng Quản
trị Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam thì “rủi ro trong hoạt

động của các Chi nhánh là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động kinh doanh, do
khách hàng không thực hiện, hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình
theo cam kết ”
Theo các quyết định này thì rủi ro tín dụng có nghĩa là Ngân hàng cho khách hàng
vay, khi đến hạn thanh toán bao gồm cả phần gốc và lãi thi khách hàng không thể trả
được hoặc có thể bị trì hoãn. Rủi ro tín dụng được tiến hành phân loại theo các tiêu
thức sau:
- Theo cơ cấu các loại hình rủi ro, rủi ro tín dụng đựơc chia thành rủi ro theo
khoản vay ngắn, trung và dài hạn
8
Trường ĐH Kinh tế Quốc dân - 8 - Lớp: Luật KD - K45
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Hoàng Thị Hà
- Theo nguồn gốc hình thành, rủi ro tín dụng được chia thành 3 loại:
+ Rủi ro từ phía người cho vay: là những rủi ro do chính sách của Ngân hàng,
việc nghiên cứu, dự báo, theo dõi, xử lý rủi ro tín dụng, cán bộ tín dụng, công tác
kiểm tra, kiểm soát kém.
+ Rủi ro từ phía người vay: Đây là loại rủi ro chủ yếu trong các loại rủi ro tín
dụng
Ví dụ: Rủi ro vì khả năng Tài chính yếu kém, rủi ro trong hoạt động kinh
doanh…
+ Rủi ro từ các nguyên nhân khác: Đó là các rủi ro liên quan tới các khâu quản
lý của Ngân hàng Nhà nước; chế độ chính sách; môi trường; các biến động bất
thường trong nền kinh tế…
1.1.2.2. Tác động của rủi ro tín dụng:
Rủi ro trong hoạt động tín dụng có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của ngân
hàng cũng như nó tác động rất mạnh mẽ tới các hoạt động của nền kinh tế. Đó là các
tác động rất xấu, thể hiện ở các khía cạnh sau:
* Rủi ro làm suy giảm uy tín của ngân hàng:
Một ngân hàng có rủi ro lớn là một ngân hàng hoạt động không có hiệu quả, tình
hình đó sẽ được báo chí nêu làm cho dân chúng thiếu lòng tin và như vậy khó lòng có

thể huy động được nguồn vốn dồi dào. Các ngân hàng vì thế mà lánh xa, không cấp
các hạn mức tín dụng, không mở quan hệ đại lý…
* Rủi ro làm cho khả năng thanh toán của ngân hàng giảm sút:
Các khoản tín dụng có rủi ro khiến cho việc hoàn trả gặp khó khăn, trong lúc đó
các khoản tiền gửi, tiền tiết kiệm của của dân cư vẫn phải thanh toán đúng kỳ hạn,
trong lúc không huy động được nguồn vốn dồi dào do mất uy tín, cũng vì thế người
9
Trường ĐH Kinh tế Quốc dân - 9 - Lớp: Luật KD - K45
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Hoàng Thị Hà
rút tiền thấy tình trạng của Ngân hàng như thế lại rút tiền càng tăng lên, kết quả là
Ngân hàng gặp khó khăn trong khâu thanh toán.
* Rủi ro đưa đến kết quả là lợi nhuận suy giảm:
Do rủi ro đưa đến nhiều mất mát thiệt hại về tài chính, thêm vào đó là quá trình
mở rộng hoạt động gặp khó khăn bế tắc, thu nhập kết quả là giảm sút lợi nhuận.
* Rủi ro có thể dẫn tới phá sản:
Nếu những tác động của rủi ro trên 3 phương diện nêu trên không được ngăn
chặn và cứ phát triển đến một mức độ nào đó sẽ đẩy ngân hàng đến chỗ phá sản
1.1.2.3. Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng
Các chuyến thăm khách hàng thường xuyên là cách tốt nhất để phát hiện nhanh
chóng những dấu hiệu này. Những chuyến thăm luôn phải có việc kiểm tra tình hình
thực tế và sổ sách của khách hàng. Sau đây là một số dấu hiệu thường thấy từ phía
khách hàng cần được kiểm tra:
* Từ báo cáo tài chính:
- Ngân hàng không nhận được cáo báo cáo tài chính từ người vay một cách kịp
thời.
- Tiền mặt của khách hàng giảm
- Khả năng thanh khoản/vốn lưu động giảm
- Những thay đổi nhanh chóng của tài sản cố định
- Xuất hiện những khoản nợ mà công ty vay hoặc cho vay cán bộ hoặc cổ đông
của công ty.

- Doanh số bán hàng giảm hoặc gia tăng một cách nhanh chóng
- Mức độ chênh lệch lớn giữa tổng doanh thu và doanh thu ròng
10
Trường ĐH Kinh tế Quốc dân - 10 - Lớp: Luật KD - K45
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Hoàng Thị Hà
- Doanh thu tăng nhưng lợi nhuận giảm
- Xuất hiện các khoản lỗ từ hoạt động kinh doanh
* Từ hoạt động kinh doanh:
- Thay đổi về phạm vi kinh doanh
- Mất những dây chuyền sản xuất chính, quyền phân phối sản phẩm hoặc nguồn
cung cấp.
- Mất một hay nhiều khách hàng có năng lực tài chính tốt hoặc nhà cung ứng
chính
- Sự thay đổi đáng kể về giá trị của đơn đặt hàng hoặc hợp đồng mà có thể làm
mất năng lực sản xuất hiện hành
* Những dấu hiệu liên quan đến giao dịch ngân hàng:
- Số dư tài khoản tại ngân hàng giảm
- Xuất hiện khoản nợ quá hạn
- Đặt niềm tin nhiều vào các khoản nợ ngắn hạn
- Xin gia hạn nhiều lần hoặc đảo nợ nhiều lần
- Xuất hiện các khoản vay có nhiều nguồn trả nợ (như theo đề nghị vay vốn)
nhưng không dễ dàng nhận thấy chúng.
- Công tác kế hoạch hoá tài chính cho các nhu cầu về tài sản cố định hoặc về vốn
lưu động thể hiện sự đơn giản và kém cỏi.
* Những dấu hiệu liên quan đến quản trị công ty:
- Báo cáo và quản lý tài chính kém cỏi
- Các chức năng điều hành và phân công xử lý công việc thể hiện một sự chắp vá
11
Trường ĐH Kinh tế Quốc dân - 11 - Lớp: Luật KD - K45
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Hoàng Thị Hà

- Mong muốn hoặc khăng khăng đòi “đánh bạc” với kinh doanh có những rủi ro
quá mức.
- Đặt giá bán hàng hoá và dịch vụ một cách không thực tế
- Những thay đổi trong quản lý, quyền sở hữu hoặc những nhân vật chủ chốt
- Chậm trễ trong việc phản ứng lại với sự đi xuống của thị trường hoặc các điều
kiện kinh tế
Tuy nhiên, khi khách hàng có một trong những dấu hiệu trên thì không đáng kể.
Nhưng khi một số dấu hiệu xảy ra đồng thời thì cán bộ cần xem xét, đánh giá kỹ để có
thể hạn chế và giảm thiểu tác động của rủi ro tín dụng
1.1.2.4.Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng:
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng. Thông thường, người ta phân rủi
ro tín dụng thành ba nhóm: nguyên nhân thuộc về ngân hàng, nguyên nhân thuộc về
người vay, nguyên nhân khác.
1.1.2.4.1. Nguyên nhân thuộc về ngân hàng:
Thứ nhất: Sự yếu kém của đội ngũ cán bộ. Sự yếu kém ở đây bao gồm cả về năng
lực và phẩm chất đạo đức. Nếu một cán bộ tín dụng non kém về trình độ, thiếu kiến
thức, thiếu kinh nghiệm thì sẽ không có khả năng thẩm định và xử lý thông tin, đánh
giá khách hàng thiếu chính xác, mức vay,lãi suất vay và kỳ hạn không phù hợp; dẫn
đến chất lượng tín dụng thấp, rủi ro cao. Ngoài ra, nếu cán bộ tín dụng không tuân thủ
theo đúng quy trình tín dụng như giải ngân trước khi hoàn thành chứng từ hay không
kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn của người vay, thì việc mất vốn rất dễ xảy ra. Hơn
nữa, cán bộ tín dụng mà phẩm chất đạo đức kém, không có tinh thần trách nhiệm, dễ
bị cám dỗ thì sẽ gây thiệt hại rất lớn cho ngân hàng bằng cách cho vay chỉ dựa trên
mối quan hệ với khách hàng, dựa trên lợi ích cá nhân mà bỏ qua những điều kiện và
thủ tục cần thiết.
12
Trường ĐH Kinh tế Quốc dân - 12 - Lớp: Luật KD - K45
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Hoàng Thị Hà
Thứ hai: Sự giám sát của các cấp quản lý trong ngân hàng là thiếu sát sao. Cán bộ
tín dụng cần có sự phê duyệt của lãnh đạo trước khi giải ngân. Vậy nên nếu cấp trên

không có sự kiểm tra, đánh giá xem quyết định của cán bộ đã thực sự chính xác chưa
thì nguy cơ rủi ro tín dụng sẽ là rất cao. Hơn nữa, sau khi giải ngân rồi, cán bộ tín dụng
vẫn phải tiếp tục theo dõi khách hàng để sớm phát hiện ra dấu hiệu của những khoản
nợ có vấn đề. Tuy nhiên, việc theo dõi này đối với nhiều cán bộ chỉ mang tính hình
thức. Do vậy, nếu các cấp quản lý không có sự giám sát đối với cán bộ tín dụng, hoạt
động của các cán bộ tín dụng sẽ không hiệu quả, thậm chí dẫn đến những sai phạm đạo
đức trong cho vay và thu nợ. Ngoài ra, các cơ quan cấp trên không quan tâm đến thực
trạng tín dụng của ngân hàng thì sẽ không có những chỉ đạo kịp thời để ngăn ngừa và
xử lý rủi ro xảy ra.
Thứ ba: Ngân hàng chưa đa dạng hoá các danh môc đầu tư. Một công cụ luôn
được nhắc đến trong quản trị tín dụng ở tất cả các ngân hàng trên thế giới là quản trị
danh môc đầu tư. Quản trị danh môc làm cân đối và kiềm chế rủi ro bằng cách nhận
dạng, dự báo và kiểm soát mức độ rủi ro với từng thị trường, khách hàng, loại sản
phẩm tín dụng và điều kiện hoạt động khác nhau. Nhiều chuyên gia ngân hàng tin rằng
đa dạng hoá là giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng hữu hiệu nhất. Mặc dù hiểu rõ tầm
quan trọng của việc đa dạng hoá danh môc đầu tư, song rất nhiều ngân hàng chỉ cho
vay một hoặc hai ngành hoặc chỉ cho vay một vài doanh nghiệp lớn, nhóm kinh doanh
đơn lẻ. Một danh môc đầu tư phụ thuộc chủ yếu vào một ngành hay một loại mặt hàng
là rất nguy hiểm vì không ngành nào là không có rủi ro.
Thứ tư: Định giá khoản vay không theo mức độ rủi ro của khách hàng. Về cơ cấu,
lãi suất cho một khoản vay phải được xác định ở mức đảm bảo bù đắp được chi phí
vốn đầu vào, chi phí quản lý, phần lợi nhuận mong muốn và phần bù đắp rủi ro của
khoản vay. Khách hàng được đánh giá có mức độ rủi ro càng cao, phần bù rủi ro càng
lớn. Nhưng vì cạnh tranh nên một số ngân hàng có thể chấp nhận mức giá cho vay
thấp, thậm chí chỉ đủ chi phí vốn đầu vào và chi phí quản lý, không tính đến phần bù
rủi ro. Việc làm đó trong dài hạn không những làm giảm lợi nhuận mà còn làm tăng
tính rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
13
Trường ĐH Kinh tế Quốc dân - 13 - Lớp: Luật KD - K45
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Hoàng Thị Hà

1.1.2.4.2. Nguyên nhân thuộc về người vay:
Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro tín dụng, có thể chia nhóm này thành
hai loại chính:
Thứ nhất: Do khách hàng kinh doanh thua lỗ nên mất khả năng trả nợ. Trường hợp
này rất phổ biến do khách hàng có trình độ yếu kém trong dự đoán các vấn đề kinh tế,
yếu kém trong năng lực quản lý, sử dụng vốn sai môc đích, sản phẩm chất lượng thấp
không bán được Hơn nữa có rất nhiều người vay sẵn sàng lao vào những cơ hội kinh
doanh mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao, mà không tính toán kỹ hoặc
không có khả năng tính toán những bất trắc có thể xảy ra nên khả năng xảy ra tổn thất
với ngân hàng là rất lớn.
Thứ hai: Do khách hàng cố tình chiếm dụng vốn của ngân hàng. Để đạt được môc
đích thu được lợi nhuận, nhiều khách hàng sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn để ứng phó với
ngân hàng như mua chuộc hoặc cung cấp các báo cáo tài chính sai lệch. Trong trường
hợp này, nếu không phát hiện ra, ngân hàng sẽ đánh giá sai về khả năng tài chính của
khách và cho vay vốn với khối lượng và thời hạn không hợp lý, dẫn đến rủi ro tiềm ẩn
là rất cao. Ngoài ra, cũng có những trường hợp người kinh doanh có lãi song vẫn
không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn mà cố tình kéo dài với ý định không trả nợ hoặc
tiếp tục sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
1.1.2.4.3. Nguyên nhân khác:
Những nguyên nhân này phần lớn xuất hiện từ môi trường xung quanh như chất
lượng thông tin, biến động kinh tế, chính sách pháp luật…
Thứ nhất: Chất lượngthông tin chưa cao. Các thông tin mà ngân hàng thu thập
thường liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính của khách
hàng, tình hình kinh tế xã hội, cạnh tranh trên thị trường; sau đó dựa vào các thông tin
thu thập được để ra quyết định cho vay. Tuy nhiên, trên thực tế thì không phải lúc nào
các thông tin ngân hàng thu thập được đều có tính chính xác, đầy đủ và kịp thời. Do
vậy, nếu hệ thống thông tin tín dụng của ngân hàng không hoạt động có hiệu quả, cập
14
Trường ĐH Kinh tế Quốc dân - 14 - Lớp: Luật KD - K45
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Hoàng Thị Hà

nhật được những thông tin đáng tin cậy thì tất yếu dẫn đến việc ngân hàng thất thoát
vốn khi cho vay.
Thứ hai: Những biến động kinh tế không dự báo được. Khi nền kinh tế ổn định,
tăng trưởng lành mạnh thì nhu cầu đầu tư trong xã hội có xu hướng gia tăng, tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, khi xuất hiện những biến động kinh
tế như lạm phát, giá tăng ở một số mặt hàng nào đó ảnh hưởng đến một nhóm ngành
thì rủi ro tín dụng với ngân hàng là rất lớn. Nhiều người vay có thể thích ứng và vượt
qua khó khăn đó, nhưng cũng có rất nhiều người bị đình trệ hoạt động sản xuất, kinh
doanh thua lỗ nên khả năng trả nợ vốn vay ngân hàng không được đảm bảo.
Thứ ba: Sự thay đổi trong các chính sách kinh tế, pháp luật. Sự thiếu nhất quán
trong các chính sách kinh tế pháp luật cũng gây ảnh hưởng không nhỏ tới ngân hàng
cũng như như các doanh nghiệp có sử dụng vốn vay ngân hàng. Hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp sẽ không ổn định khi có những thay đổi trong quy định về
thuế, vốn ,cũng như hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng bị tác động nhiều bởi
những văn bản luật về tài sản đảm bảo, dự trữ, trích lập… Như vậy, các chính sách
kinh tế, pháp luật không hoàn chỉnh cũng gây khó khăn có doanh nghiệp về khả năng
trả nợ, cũng như đe doạ đến sự an toàn của ngân hàng trong cho vay
1.1.2.5. Nhân tố ảnh hưởng tới hạn chế rủi ro tín dụng
Như đã phân tích ở trên, rủi ro tín dụng luôn đi đôi với hoạt động kinh doanh ngân
hàng. Do vậy, ngân hàng chỉ có thể đưa ra các biện pháp ngăn ngừa để giảm khả năng
xảy ra hoặc giảm tổn thất do rủi ro tín dụng gây nên mà không thể loại trừ. Tuy nhiên,
việc hạn chế rủi ro tín dụng được nhiều hay ít lại phụ thuộc phần lớn vào chính bản
thân các ngân hàng. Sau đây là một số nhân tố ảnh hưởng tới việc hạn chế rủi ro tín
dụng.
1.1.2.5.1. Chính sách và quy trình tín dụng:
Chính sách tín dụng là hệ thống các chủ trương, định hướng, quy định chi phối
hoạt động tín dụng do ngân hàng đưa ra nhằm sử dụng hiệu quả nguồn vốn để tài trợ
15
Trường ĐH Kinh tế Quốc dân - 15 - Lớp: Luật KD - K45
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Hoàng Thị Hà

cho các doanh nghiệp, hộ gia đình và các cá nhân; đồng thời thiết lập môi trường nhằm
giảm bớt rủi ro trong hoạt động tín dụng. Thông thường, chính sách tín dụng quy định
đối tượng vay vốn, nhu cầu vay vốn, hạn mức, điều kiện vay, phương thức quản lý…
Nếu chính sách tín dụng được xây dựng khoa học, cẩn thận, thông suốt từ trên xuống
dưới sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng duy trì tiêu chuẩn tín dụng của mình, tránh rủi ro
quá mức và đánh giá đúng về cơ hội kinh doanh. Ngược lại, chính sách tín dụng không
cụ thể, không thích ứng được với những thay đổi của môi trường, không phù hợp với
khả năng và môc tiêu của ngân hàng sẽ làm giảm chất lượng của những khoản vay, dễ
phát sinh rủi ro. Thực tế đã chứng minh rằng ngân hàng nào xây dựng được một chính
sách tín dụng hợp lý, chất lượng tín dụng tại ngân hàng đó thường cao hơn.
Trong khi đó, quy trình tín dụng lại bao gồm các bước cụ thể hoá chính sách tín
dụng, giúp cán bộ tín dụng tiến hành quá trình cho vay diễn ra thống nhất, khoa học,
góp phần đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng. Quy trình cho vay gồm nhiều
bước nhỏ nhưng thường được chia thành 4 giai đoạn: phân tích trước khi cấp tín dụng,
xây dựng và ký kết hợp đồng, giải ngân, kiểm soát sau khi cấp tín dụng. Chính vì cán
bộ tín dụng cho vay chủ yếu dựa vào các bước trong quy trình tín dụng nên đối với
mỗi ngân hàng, quy trình cần được xây dựng cụ thể, chi tiết đối với mỗi loại hình tín
dụng, mỗi đối tượng khách hàng để đảm bảo việc thực hiện đúng, đủ quy trình là có
thể hạn chế được rủi ro xảy ra.
1.1.2.5.2. Chính sách quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng:
Trong công tác phòng ngừa rủi ro tín dụng, ngoài việc tuân thủ theo các quy chế
cho vay, bảo lãnh, bảo đảm tiền vay…do ngân hàng trung ương ban hành, các ngân
hàng thương mại cần xây dựng riêng cho mình một chính sách quản lý rủi ro tín dụng
phù hợp. Môc tiêu của xây dựng chính sách này là nhằm giảm đến mức tối thiểu khả
năng xảy ra rủi ro tín dụng và tổn thất ở mức ngân hàng cho là hợp lý. Do vậy, chính
sách này cần phải quản lý được các rủi ro hiện hữu ở từng khoản vay, cả trước và sau
khi rủi ro gây ra tổn thất cho ngân hàng. Thông thường, chính sách quản lý rủi ro tín
dụng thường đưa ra những khuyến cáo về ngành, lĩnh vực, đối tượng khách hàng
không nên hoặc thận trọng cho vay để cán bộ tín dụng có thể sớm nhận biết được
16

Trường ĐH Kinh tế Quốc dân - 16 - Lớp: Luật KD - K45
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Hoàng Thị Hà
những rủi ro tiềm ẩn, đồng thời đưa ra những công cụ quản trị hữu hiệu, thích hợp với
đặc điểm của từng ngân hàng. Cũng như vậy, trong trường hợp rủi ro đã xảy ra, chính
sách quản lý rủi ro tín dụng cũng quy định cách thức giải quyết sao cho thu hồi được
nợ nhiều và nhanh nhất, giảm tổn thất với ngân hàng. Có thể nói, ngân hàng ban hành
được chính sách quản lý rủi ro tín dụng đầy đủ, cụ thể bằng văn bản, ngân hàng đã đã
thành công bước đầu trong việc hạn chế rủi ro tín dụng.
1.1.2.5.3. Tổ chức quản lý tín dụng và rủi ro tín dụng
Phần lớn các ngân hàng đều thành lập tổ chức quản lý tín dụng và rủi ro tín dụng
như trung tâm thông tin tín dụng và phòng ngừa rủi ro, trung tâm giám sát và kiểm tra
tín dụng, công ty quản lý nợ và xử lý tài sản đảm bảo. Các tổ chức này có chức năng
cung cấp những thông tin thiết yếu cho cán bộ tín dụng về khách hàng, trợ giúp cán bộ
trong quá trình ra quyết định cho vay; đồng thời giám sát, kiểm tra tình hình những
khoản vay sau giải ngân để sớm phát hiện những dấu hiệu của rủi ro. Khi rủi ro xảy ra
thì có biện pháp xử lý tài sản đảm bảo, thu hồi nợ. Các tổ chức quản lý tín dụng và rủi
ro tín dụng của một ngân hàng nên phối hợp với nhau vì chỉ khi các tổ chức này hoạt
động hiệu quả thì mới hạn chế được nhiều rủi ro tín dụng. Tránh việc thành lập các tổ
chức này mang tính hình thức vì như vậy không những ngăn ngừa được mà còn làm
tình hình rủi ro tín dụng tại ngân hàng xấu đi.
1.1.2.5.4. Nhân tố công nghệ
Hiện nay, công nghệ thông tin là một trong những nhân tố có ảnh hưởng khá nhiều
đến công tác hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng. Một ngân hàng mà ứng dụng nhiều
công nghệ, kỹ thuật hiện đại thì sẽ đạt tính chính xác, độ nhanh nhạy cao trong hoạt
động tín dụng, giảm thiểu các sai sót. Ví dụ như thông tin về khách hàng cập nhật hơn,
đầy đủ hơn, đặc biệt là công tác chấm điểm khách hàng nếu làm tự động sẽ nhanh, ít
nhầm lẫn hơn. Ngoài ra, các cấp quản lý khi cần cũng có thể nắm bắt thông tin về tình
hình hoạt động tín dụng tại cơ sở nhanh nhất, chính xác nhất. Tóm lại, một ngân hàng
nên đầu tư vào các trang thiết bị, công nghệ hiện đại để vừa mở rộng tín dụng lại vừa
hạn chế được rủi ro.

17
Trường ĐH Kinh tế Quốc dân - 17 - Lớp: Luật KD - K45
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Hoàng Thị Hà
1.2. PHÁP LUẬT VIỆT NAM NHẰM QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG:
1.2.1. Sự cần thiết quản lý rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất, thường xuyên xảy ra và thường gây hậu quả
nặng nề nhất, việc đánh giá rủi ro là trách nhiệm chính của hầu hết tất cả mọi ngân
hàng trong đó có chi nhánh chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Láng Hạ. Hoạt động của ngân hàng thương mại chủ yếu là hoạt động tín dụng và
đầu tư thông thường trên thế giới nó mạng lại khoảng 6% thu nhập còn ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay thu nhập từ hoạt động tín dụng mang lại trên 90% tổng thu
nhập của mỗi ngân hàng. Nhưng đồng thời trong lĩnh vực này rủi ro đã đưa đến cho
ngân hàng những thiệt hại nặng nề, có khi dẫn đến phá sản, một ngân hàng nào đó
“các khoản tiền cho vay cũng có xác suất vỡ nợ cao hơn so với những tài sản có khác.
Do thiếu tính lỏng và có rủi ro vỡ nợ cao hơn nên ngân hàng thu được lợi tức cao
nhất nhờ vào các món vay. Rủi ro tín dụng là loại rủi ro liên quan rất phức tạp, quản
lý, phòng ngừa là cần thiết, tuy nhiên nó cũng gặp rất nhiều khó khăn, nó có thể xảy
ra bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào. Hễ cứ một rủi ro nào đó của người vay cũng có thể
đưa đến rủi ro cho ngân hàng và vì vậy thường là nằm ngoài khả năng bình thường
của cán bộ tín dụng, nó đòi hỏi ngân hàng phải có giải pháp đồng bộ hữu hạn mới có
thể hạn chế, ngăn ngừa bớt rủi ro, giảm tối thiểu những thiệt hại có thể xảy ra. Trong
quá trình thực hiện thì ngân hàng cần phải tuân thủ tất cả các quy định về phân loại
nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro xảy ra, trên cơ sở đó để dự phòng
cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của chi nhánh không thực hiện nghĩa
vụ theo cam kết.
Vì vậy quản lý rủi ro tín dụng là ưu tiên số 1 đối với các ngân hàng thương mại nói
chung và đối với chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ
nói riêng.
1.2.2.1. Các văn bản quy phạm pháp luật quy định
18

Trường ĐH Kinh tế Quốc dân - 18 - Lớp: Luật KD - K45
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Hoàng Thị Hà
Có rất nhiều văn bản pháp luật Việt Nam quy định nhằm hạn chế bớt rủi ro trong
hoạt động tín dụng của hệ thống các Ngân hàng. Bên cạnh các văn bản pháp quy do
Nhà nước ban hành còn có các văn bản do các ngành đã ban hành nhằm quản lý hoạt
động trong nội bộ ngành của mình như:
- Luật Ngân hàng Nhà nước 1997;
- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm
2003;
- Luật các tổ chức Tín dụng 1997;
- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức Tín dụng năm 2004;
- Luật dân sự Việt Nam 2005;
- Nghị định số: 52/2003/NĐ-CP, ngày 19/5/2003 của Chính phủ quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
- Nghị định số: 165/1999/NĐ-CP, ngày 19/11/1999 về giao dịch bảo đảm;
- Nghị định số: 178/1999/NĐ-CP, ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ
chức tín dụng;
- Nghị định số: 85/2002/ND-CP, ngày 25/10/2002 sửa đổi bổ sung nghị định 178;
- Nghi định số: 08/2002/NĐ-CP, ngày 10/3/2002 về đăng ký giao dịch bảo đảm;
- Nghi định số: 52/2003/NĐ-CP, ngày 19/5/2003 của Chính phủ quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
- Thông tư liên tịch số: 03/2001/TTLT, ngày 23/4/2001 giữa Ngân hàng Nhà nước -
Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính - Tổng Cục Địa chính hướng dẫn xử lý tài sản bảo đảm tiền
vay;
19
Trường ĐH Kinh tế Quốc dân - 19 - Lớp: Luật KD - K45
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Hoàng Thị Hà
- Quyết định số: 1647/2001/QĐ-NHNN, ngày 31/12/2001của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước về Quy chế cho vay đối với tổ chức tín dụng;
- Quyết định số: 127/2005/QĐ-NHNN, ngày 03/2/2005 của Thống đốc Ngân hàng

Nhà nước sửa đổi, bổ sung một số điều của quyết định số: 1647/2001/QĐ-NHNN;
- Quyết định số: 783/2005/QĐ-NHNN, ngày 31/5/2005 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước về việc sửa đổ, bổ sung khoản 6 điều 1của quyết định số: 127/2005/QĐ-
NHNN;
- Quyết định số: 72/2002/QĐ-HĐQT-TD, ngày 31/3/2002 của Chủ tịch Hội đồng
Quản trị NHNo&PTNT Việt Nam về quy định cho vay đối với khách hàng;
- Quyết định số: 159/2005/QĐ-HĐQT-TD, ngày 03/6/2005 của Chủ tịch Hội đồng
Quản trị NHNo&PTNT Việt Nam sửa đổi, bổ sung một số điều của quyết định số:
72/2002/QĐ-HĐQT-TD;
- Quyết định số: 165/2005/QĐ-HĐQT, ngày 06/6/2005 của Hội đồng Quản trị
NHNo&PTNT Việt Nam bàn hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự
phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động NHNo&PTNT Việt Nam;
- Quyết định số: 457/2005/QĐ-NHNN, ngày 19/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước về việc ban hành “quy định về các tủ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động
của tổ chức tín dụng”;
- Quyết định số: 493/2005/QĐ-NHNN, ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước ban hành “quy định về phân loại nợ, trích lập và dự phòng để xử lý rủi ro
tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của tổ chức tín dụng”;
- Chỉ thị số: 02/2005/CT-NHNN, ngày 20/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước về việc “nâng cao chất lượng tín dụng, tăng trưởng tín dụng phù hợp với khả
năng huy động vốn và kiểm soát rủi ro, bảo đảm an toàn hệ thống”
20
Trường ĐH Kinh tế Quốc dân - 20 - Lớp: Luật KD - K45
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Hoàng Thị Hà
- Chỉ thị số: 05/2005/CT-NHNN, ngày 26/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước về việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo quyết định số:
493/2005/QĐ-NHNN;
- Chỉ thị số: 3160/2005/NHNo-TD, ngày 01/7/2005 của Tổng Giám đốc Ngân hàng
NN&PT Nông thôn Việt nam về việc thực hiện chỉ thị số: 15/2005/CT-NHNN.
1.3. MỘT SỐ MÔ HÌNH LƯỢNG HOÁ RỦI RO TÍN DỤNG

Nhiều năm về trước,để đánh giá rủi ro tín dụng hầu hết các ngân hàng chỉ dựa duy
nhất vào phương pháp định tính như xem xét khách hàng có đủ tư cách không, có tài
sản thế chấp không, môc đích vay có hợp lý không…Tuy nhiên, phương pháp này tỏ
ra vừa mất thời gian, tốn kém, lại mang tính chủ quan, chính vì vậy, ngân hàng không
ngừng cải tiến phương pháp đánh giá khách hàng để ra quyết định cho vay.
Ngày nay, một số ngân hàng đã sử dụng mô hình cho điểm để lượng hoá rủi ro tín
dụng người vay. Mô hình cho điểm tín dụng có ưu điểm so với phương pháp truyền
thống ở chỗ là nó cho phép xử lý nhanh chóng một khối lượng lớn các đơn xin vay,
với chi phí thấp, khách quan, do đó góp phần tích cực trong việc kiểm soát rủi ro tín
dụng ngân hàng. Các mô hình cho điểm tín dụng sử dụng các số liệu phản ánh những
đặc điểm của người vay để lượng hoá xác suất vỡ nợ cũng như phân loại người thành
các nhóm có mức độ rủi ro khác nhau. Để sử dụng các mô hình này, nhà quản lý phải
xác định các tiêu chí về kinh tế và tài chính liên quan đến rủi ro tín dụng đối với từng
nhóm khách hàng cụ thể. Đối với tín dụng tiêu dùng, các tiêu chí đó có thể là thu nhập,
tài sản, tuổi tác, giới tính… Đối với tín dụng công ty thì các chỉ tiêu tài chính thường
là các chỉ tiêu chủ yếu. Sau khi tiêu chí đó được xác định, kỹ thuật thống kê sẽ được sử
dụng để lượng hoá xác suất rủi ro tín dụng hoặc để phân loại rủi ro tín dụng. Sau đây
là một số mô hình lượng hoá rủi ro tín dụng cơ bản thường được sử dụng
1.3.1. Mô hình điểm số Z
Mô hình điểm số Z do E.I.Altman hình thành để cho điểm tín dụng đối với các
công ty sản xuất của Mỹ. Đại lượng Z là thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín
dụng đối với người vay và phụ thuộc vào:
21
Trường ĐH Kinh tế Quốc dân - 21 - Lớp: Luật KD - K45
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Hoàng Thị Hà
- Trị số của các chỉ số tài chính của người vay (X
j
)
- Tầm quan trọng của các trị số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người
vay (trọng số)

Từ đó, Altman đi đến mô hình cho điểm như sau:
Z = 1,2X
1
+ 1,4X
2
+ 3,3X
3
+ 0,6X
4
+ 1,0X
5
Trong đó:
X
1
: tỷ số vốn lưu động ròng/tổng tài sản
X
2
: tỷ số lợi nhuận giữ lại/tổng tài sản
X
3
: tỷ số lợi nhuận trước thuế và tiền lãi/tổng tài sản
X
4
: tỷ số thị giá cổ phiếu/giá trị ghi sổ của nợ dài hạn
X
5
: tỷ số doanh thu/tổng tài sản
Trị số Z càng cao thì người vay cao xác suất vỡ nợ càng thấp. Như vậy, khi trị số Z
thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ để xếp khách hàng vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ
cao. Theo Altman, bất cứ công ty nào có điểm số Z thấp hơn 1,81 phải được xếp vào

nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao và ngân hàng chỉ cấp tín dụng khi điểm số Z được
cải thiện.
Tuy nhiên, mô hình này có những hạn chế là chỉ phân biệt được khách hàng thành
hai nhóm vỡ nợ và không vỡ nợ. Trong thực tế, vỡ nợ được phân thành nhiều loại, từ
không trả hay chậm trễ trong việc trả tiền vay đến không trả. Như vậy, cần có một mô
hình chính xác hơn, với nhiều thang điểm khác nhau để phân loại khách hàng thành
nhiều nhóm. Hơn nữa, mô hình này không tính tới một số nhân tố quan trọng nhưng
khó lượng hoá, nhưng lại ảnh hưởng đáng kể đến mức độ rủi ro tín dụng của khách
hàng như danh tiếng, mối quan hệ truyền thống hay yếu tố vĩ mô như chu kỳ kinh tế,
chu kỳ kinh doanh.
1.3.2. Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng
22
Trường ĐH Kinh tế Quốc dân - 22 - Lớp: Luật KD - K45
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Hoàng Thị Hà
Ngày nay rất nhiều ngân hàng trên thế giới, trong đó có cả Việt Nam sử dụng
phương pháp cho điểm để lượng hoá rủi ro tín dụng trong việc xử lý các đơn xin vay
của người tiêu dùng. Nhiều khách hàng ưa thích sự thuận tiện và nhanh chóng khi
những yêu cầu tín dụng của họ được xử lý bằng hệ thống cho điểm tự động. Thông
thường, khách hàng có thể gọi điện thoại đến ngân hàng để xin vay, thông qua hệ
thống máy tính nối mạng và có kết quả tín dụng sau vài phút.
Các yếu tố quan trọng liên quan đến khách hàng sử dụng trong mô hình cho điểm
tín dụng tiêu dùng bao gồm: hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, số người phụ
thộc, sở hữu nhà, thu nhập, tài khoản… Mô hình cho điểm tín dụng tiêu dùng thường
sử dụng từ 7 đến 12 hạng môc, mỗi hạng môc được cho điểm từ 1 đến 10 tương ứng
với tình trạng người xin vay. Tổng điểm ở tất cả các hạng môc của khách hàng đó là
tiêu chí để xếp hạng mức độ rủi ro cao hay thấp và từ đó có quyết định cho vay hay
không?
Rõ ràng là mô hình điểm số đã loại bỏ được sự phán xét chủ quan trong quá trình
cho vay và giảm đáng kể thời gian quyết định tín dụng của ngân hàng. Tuy nhiên, mô
hình này cũng có nhược điểm như không điều chỉnh linh hoạt thích ứng với những

thay đổi trong nền kinh tế.
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
NHẰM QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI
CHI NHÁNH NHNo&PTNT LÁNG HẠ
23
Trường ĐH Kinh tế Quốc dân - 23 - Lớp: Luật KD - K45
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Hoàng Thị Hà
2.1. GIỚI THIỆU VỀ CHI NHÁNH NHNo&PTNT LÁNG HẠ
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển:
Thành lập ngày 26-3-1988 theo Luật các tổ chức Tín dụng đến nay NHNo&PTNT
Việt Nam là Ngân hàng Thương mại hàng đầu giữ vai trò chủ đạo và chủ lực trong đầu
tư vốn và phát triển kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng như đối với các
lĩnh vực kinh tế khác của nền kinh tế Việt Nam. Đứng trước tình hình đổi mới của nền
kinh tế đất nước, nhu cầu về vốn cho phát triển ngành kinh tế ngày càng tăng. Xuất
phát từ những yêu cầu và nhiệm vụ chính trị mới trong giai đoạn đó, cùng với sự ra
đời của một số chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp tại các thành phố lớn: thành phố
Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Huế… Ngày 01/8/1996 Tổng Giám đốc Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam ra quyết định số: 334/1996/QĐ-NHNNo-02
thành lập chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Láng Hạ. Chi
nhánh đi vào hoạt động từ ngày 17/3/1997.
Chi nhánh Ngân hàng NNo&PTNT Láng Hạ là chi nhánh cấp I, đơn vị phụ thuộc của
Ngân hàng NNo&PTNT Việt Nam. Chi nhánh có con dấu riêng và có nhiệm vụ thực
hiện một phần các hoạt động của Ngân hàng NNo&PTNT Việt Nam theo sự uỷ quyền
của Ngân hàng NNo&PTNT Việt Nam.
Chi nhánh đã tổ chức được một mạng lưới cơ sở rộng khắp, trụ sở chính tại: số 24
Láng Hạ có 11 phòng, 2 đơn vị trực thuộc đó là các chi nhánh:
- Chi nhánh Bách Khoa: Số 92 Võ Thị Sáu, quận Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội.
- Chi nhánh Mỹ Đình: Nhà CT5 đường Phạm Hùng - TP. Hà Nội.
Hai Chi nhánh này về quy mô và cơ cấu tổ chức nó tương đương với chi nhánh
quận huyện. Bên cạnh đó chi nhánh có 9 phòng giao dịch:

+ Phòng giao dịch số 2: Số 179, Phố Phùng Hưng, quận Hoàn Kiếm, TP. Hà Nội.
+ Phòng giao dịch số 3: Số 36, Phạm Kế Thiện, quận Cầu Giấy, TP. Hà Nội.
24
Trường ĐH Kinh tế Quốc dân - 24 - Lớp: Luật KD - K45
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Hoàng Thị Hà
+ Phòng giao dịch số 4: Số 226 Lò Đúc - TP. Hà Nội.
+ Phòng giao dịch số 5: C2, đường Trung Kính, quận Cầu Giấy, TP. Hà Nội
+ Phòng giao dịch số 6: Số 91 Hàng Mã - TP. Hà Nội
+ Phòng giao dịch số 7: Số 106 Đào Tấn - TP. Hà Nội
+ Phòng giao dịch số 8: Đường Khuất Duy Tiến, quận Thanh Xuân, TP. Hà Nội
+ Phòng giao dịch số 9: Số 54, Lê Thanh Nghị, quận Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội
+ Phòng giao dịch số 11: Đường Nguyễn Phong Sắc, quận Cầu Giấy, TP. Hà Nội.
Ngay từ khi mới thành lập chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ đã được phép thực
hiện mọi hoạt động kinh doanh, thanh toán trong và ngoài nước, tham gia các hoạt
động mua bán ngoại tệ. Ngân hàng hoạt động kinh doanh chủ yếu trong các lĩnh vực
tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ ngân hàng trên địa bàn Hà Nội.
25
Trường ĐH Kinh tế Quốc dân - 25 - Lớp: Luật KD - K45

×