Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.17 KB, 73 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Tín dụng là hoạt động kinh doanh phức tạp nhất của các ngân hàng thương
mại, hoạt động tín dụng tạo ra lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng nhưng cũng là
hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất. Một khi rủi ro tín dụng xảy ra nó sẽ tác động
trực tiếp đến sự phát triển và tồn vong của ngân hàng, xa hơn nữa nó sẽ ảnh hưởng
lan rộng ra toàn bộ hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế. Quản lý rủi ro tín
dụng là vấn đề khó khăn nhưng rất cần thiết. Đặc biệt đối với những ngân hàng
thương mại Việt Nam khi thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm từ từ 60-80% thu
nhập của ngân hàng.
Thực tế hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang phát triển mạnh dẫn đến nhu
cầu sử dụng vốn của các doanh nghiệp là rất lớn cùng với quá trình hội nhập và tự
do hóa tài chính làm cho cạnh tranh càng trở nên gay gắt đã tất yếu dẫn đến sự
tăng trưởng mạnh dư nợ tín dụng của các ngân hàng thương mại kéo theo tỷ lệ nợ
xấu và nợ quá hạn của các ngân hàng gia tăng.
Xuất phát từ thực tế đó, công tác quản lý rủi ro tín dụng hiện nay đang là
vấn đề rất bức thiết. Chính vì vậy trên cơ sở những kiến thức đã được học tại
trường và thời gian thực tập tại chi nhánh ngân hàng ĐT&PTNam Hà Nội, em đã
chọn đề tài “ Tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại chi nhánh ngân hàng đầu
tư và phát triển Nam Hà Nội” làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Mục đích của đề tài làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản về cơ sở lý luận quản
lý rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại, đi sâu nghiên cứu thực trạng quản
lý rủi ro tín dụng tại chi nhánh ngân hàng ĐT&PT Nam Hà Nội, qua đó đánh giá
những mặt tích cực cũng như hạn chế của công tác này. Từ đó đưa ra những đề
xuất, kiến nghị nhằm tăng cường công tác quản lý rủi ro tín dụng cảu chi nhánh
ngân hàng ĐT&PTNam Hà Nội
Võ Mạnh Cường Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47B
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO
TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI


1.1. Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm và tác động của rủi ro tín dụng
1.1.1.1. Khái niệm rủi ro và rủi ro tín dụng
Rủi ro là những biến cố không mong đợi khi xảy ra dẫn đến tổn thất về tài
sản của ngân hàng, giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm
một khoản chi phí để có thể hoàn thành được một nghiệp vụ tài chính nhất định.
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, tín dụng là hoạt động kinh doanh
đem lại lợi nhuận chủ yếu của ngân hàng nhưng cũng là nghiệp vụ tiềm ẩn rủi ro rất
lớn.Các thống kê và nghiên cứu cho thấy, rủi ro tín dụng chiếm đến 70% trong tổng
rủi ro hoạt động ngân hàng. Mặc dù hiện nay đã có sự chuyển dịch trong cơ cấu lợi
nhuận của ngân hàng, theo đó thu nhập từ hoạt động tín dụng có xu hướng giảm
xuống và thu dịch vụ có xu hướng tăng lên nhưng thu nhập từ tín dụng vẫn chiếm từ
½ đến 2/3 thu nhập ngân hàng (Peter Rose, Quản trị ngân hàng thương mại). Kinh
doanh ngân hàng là kinh doanh rủi ro, theo đuổi lợi nhuận với rủi ro chấp nhận được
là bản chất ngân hàng. P. Volker, cựu chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) cho
rằng: “Nếu ngân hàng không có những khoản vay tồi thì đó không phải là hoạt
động kinh doanh”. Rủi ro tín dụng là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây tổn
thất và ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng kinh doanh ngân hàng. Có nhiều
định nghĩa khác nhau về rủi ro tín dụng:
Trong tài liệu “Financial Institutions Management – A Modern Perpective”,
A.Saunder và H.Lange định nghĩa rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng khi ngân
hàng cấp tín dụng cho một khách hàng, nghĩa là khả năng các luồng thu nhập dự
tính mang lại từ khoản cho vay của ngân hàng không thể được thực hiện đầy đủ về
cả số lượng và thời hạn.
Theo Timothy W.Koch: Một khi ngân hàng nắm giữ tài sản sinh lợi, rủi ro
xảy ra khi khách hàng sai hẹn – có nghĩa là khách hàng không thanh toán vốn gốc
và lãi theo thỏa thuận. Rủi ro ro tín dụng là sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập thuần
Võ Mạnh Cường Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47B
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368

và thị giá của vốn xuất phát từ việc khách hàng không thanh toán hay thanh toán
trễ hạn (Bank Management, University of South Carolina, The Dryden Press,
1995, page 107).
Còn theo Henie Van Greuning… Sonja Brajovic Bratanovic: Rủi ro tín
dụng được định nghĩa là nguy cơ mà người đi vay không thể chi trả tiền lãi hoặc
hoàn trả vốn gốc so với thời hạn đã ấn định trong hợp đồng tín dụng. đây là thuộc
tính vốn có của hoạt động ngân hàng. Rủi ro tín dụng tức là việc chi trả bị trì hoãn,
hoặc tồi tệ hơn là không chi trả được toàn bộ. điều này gây ra sự cố đối với dòng
chu chuyển tiền tệ và ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của ngân hàng (The
World Bank).
Theo khoản 1 Điều 2 Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự
phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban
hành kèm theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước, rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động
ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả
năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.
Các định nghĩa khá đa dạng nhưng tựu trung lại chúng ta có thể rút ra các
nội dung cơ bản của rủi ro tín dụng như sau:
- Rủi ro tín dụng khi người vay sai hẹn (defaut) trong thực hiện nghĩa vụ trả
nợ theo hợp đồng, bao gồm vồ và/ hoặc lãi. Sự sai hẹn có thể là trễ hạn (delayed
payment) hoặc không thanh toán (nonpayment).
- Rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến tổn thất tài chính, tức là giảm thu nhập ròng và
giảm giá trị thị trường của vốn. Trong trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến
thua lỗ, hoặc ở mức độ cao hơn có thể dẫn đến phá sản.
- Đối với các nước đang phát triển (như ở Việt Nam), các ngân hàng thiếu
đa dạng trong kinh doanh cá dịch vụ tài chính, các sản phẩm dịch vụ còn nghèo
nàn, vì vậy tín dụng được coi là dịch vụ sinh lời chủ yếu và thậm chí gần như là
duy nhất, đặc biệt đối với các ngân hàng nhỏ. Vì vậy rủi ro tín dụng cao hay thấp
sẽ quyết định hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Võ Mạnh Cường Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47B

3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Mặt khác, rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng là hai đại lượng đồng
biến với nhau trong một phạm vi nhất định (lợi nhuận kỳ vọng càng cao, thì rủi ro
tiềm ẩn càng lớn).
- Rủi ro là một yếu tố khách quan cho nên người ta không thể nào loại trừ
hoàn toàn được mà chỉ có thể hạn chế sự xuất hiện của chúng cũng như tác hại do
chúng gây ra.
Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu rủi ro tín dụng theo nghĩa xác suất, là khả
năng,do đó có thể xảy ra hoặc không xảy ra tổn thất. Điều này có nghĩa là một
khoản vay dù chưa quá hạn nhưng vẫn luôn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra tổn thất, một
ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn thấp nhưng nguy cơ rủi ro tín dụng sẽ rất cao nếu
danh mục đầu tư tín dụng tập trung vào một nhóm khách hàng, ngành hàng tiềm ẩn
nhiều rủi ro. Cách hiểu này sẽ giúp cho hoạt động quản trị rủi ro tín dụng được chủ
động trong phòng ngừa, trích lập dự phòng, đảm bảo chống đỡ và bù đắp tổn thất
khi rủi ro xảy ra.
1.1.1.2. Tác động của rủi ro tín dụng
Đối với nền kinh tế
Hoạt động của các ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với hoạt động của
các doanh nghiệp, các ngành, các cá nhân, vì vậy khi một ngân hàng gặp phải rủi
ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền ở các ngân hàng khác hoang mang lo
sợ và có thể dẫn đến tình trạng rút tiền ồ ạt ở các ngân hàng khác nhau, làm cho
toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp khó khăn. Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng lớn
đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, không có tiền trả lương dẫn
đến đời sống công nhân gặp khó khăn, không có vốn dẫn đến bỏ lỡ những dự án
có mức sinh lời cao… Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng ảnh hưởng rất
lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Nó làm cho kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua
giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định.
Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới vì ngày
nay nền kinh tế của mỗi quốc gia đều là nền kinh tế mở phụ thuộc vào nền kinh tế

khu vực và nền kinh tế thế giới. Kinh nghiệm cho ta thấy cuộc khủng hoảng tài
chính châu Á(1997), khủng hoảng tài chính Nam Mỹ(2001-2002), và mới đây nhất
là cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ dẫn đến khủng hoảng tài chính toàn cầu ít nhiều
Võ Mạnh Cường Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47B
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
liên quan đến rủi ro tín dụng cùng dòng tiền đầu tư trực tiếp lẫn gián tiếp giữa các
quốc gia. Mặt khác, mối liên hệ về tiền tệ, đầu tư giữa các nước phát triển rất
nhanh nên rủi ro tín dụng tại một nước ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế các
nước liên quan.
Đối với các ngân hàng
Khi gặp rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và
lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến
hạn, điều này làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi. Khi không thu
được nợ thì vòng quay vốn tín dụng giảm làm ngân hàng kinh doanh không có
hiệu quả. Khi gặp phải rủi ro tín dụng ngân hàng thường rơi vào tình trạng mất khả
năng thanh khoản, làm mất lòng tin của người gửi tiền, ảnh hưởng đến uy tín của
ngân hàng, bị cấp trên khiển trách. Đối với cấp dưới, do gặp phải rủi ro tín dụng
nên không có tiền trả lương cho công nhân viên vì thế nhưng người có năng lực sẽ
thuyên chuyển công tác gây khó khăn cho ngân hàng.
Tóm lại, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra ở mức độ khác nhau: nhẹ
nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất
khi ngân hàng không thu được vốn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng
bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ
bị phá sản, gấy hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân
hàng nói riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản lý ngân hàng phải hết sức cẩn
trọng và cso những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay.
1.1.2. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
1.1.2.1. Nguyên nhân từ phía Ngân hàng.
Thực tế kinh doanh của Ngân hàng trong thời gian qua cho thấy rủi ro tín

dụng xảy ra là do những nguyên nhân sau:
- Ngân hàng đưa ra chính sách tín dụng không phù hợp với nền kinh tế và thể
lệ cho vay còn sơ hở để khách hàng lợi dụng chiếm đoạt vốn của Ngân hàng.
- Do cán bộ Ngân hàng chưa chấp hành đúng quy trình cho vay như: không
đánh giá đầy đủ chính xác khách hàng trước khi cho vay, cho vay khống, thiếu tài
sản đảm bảo, cho vay vượt tỷ lệ an toàn. Đồng thời cán bộ Ngân hàng không kiểm
tra, giám sát chặt chẽ về tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng.
Võ Mạnh Cường Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47B
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Do trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng còn nên việc đánh giá các dự án,
hồ sơ xin vay còn chưa tốt, còn xảy ra tình trạng dự án thiếu tính khả thi mà vẫn
cho vay.
- Cán bộ Ngân hàng còn thiếu tinh thần trách nhiệm, vi phạm đạo đức kinh
doanh như: thông đồng với khách hàng lập hồ sơ giả để vay vốn, xâm tiêu khi giải
ngân hay thu nợ, đôi khi còn nể nang trong quan hệ khách hàng.
- Ngân hàng đôi khi quá chú trọng về lợi nhuận, đặt những khoản vay có lợi
nhuân cao hơn những khoản vay lành mạnh.
- Do áp lực cạnh tranh với các Ngân hàng khác.
- Do tình trạng tham nhũng, tiêu cực diễn ra trong nội bộ Ngân hàng
1.1.2.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng.
- Người vay vốn sử dụng vốn vay sai mục đích, sử dụng vào các hoạt động
có rủi ro cao dẫn đến thua lỗ không trả được nợ cho Ngân hàng.
- Do trình độ kinh doanh yếu kếm, khả năng tổ chức điều hành sản xuất kinh
doanh của lãnh đạo còn hạn chế.
- Doanh nghiệp vay ngắn hạn để đầu tư vào tài sản lưu động và cố định.
- Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thiếu sự linh hoạt, không cải tiến quy
trình công nghệ, không trang bị máy móc hiện đại, không thay đổi mẫu mã hoặc
nghiên cứu nâng cao chất lượng sản phẩm...dẫn tới sản phẩm sản xuất ra thiếu sự
cạnh tranh, bị ứ đọng trên thị trường khiến cho doanh nghiệp không có khả năng

thu hồi vốn trả nợ cho Ngân hàng.
- Do bản thân doanh nghiệp có chủ ý lừa gạt, chiếm dụng vốn của Ngân hàng,
dùng một loại tài sản thế chấp đi vay nhiều nơi, không đủ năng lực pháp nhân.
1.1.2.3. Nguyên nhân khác
- Do sự thay đổi bất thường của các chính sách, do thiên tai bão lũ, do nền
kinh tế không ổn định.... khiến cho cả Ngân hàng và khách hàng không thể ứng
phó kịp.
- Do môi trường pháp lý lỏng lẻo, thiếu đồng bộ, còn nhiều sơ hở dẫn tới không
kiểm soát được các hiện tượng lừa đảo trong việc sử dụng vốn của khách hàng.
- Do sự biến động về chính trị - xã hội trong và ngoài nước gây khó khăn cho
doanh nghiệp dẫn tới rủi ro cho Ngân hàng.
Võ Mạnh Cường Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47B
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Ngân hàng không theo kịp đà phát triển của xã hội, nhất là sự bất cập trong
trình độ chuyên môn cũng như công nghệ Ngân hàng.
- Do sự biến động của kinh tế như suy thoái kinh tế, biến động tỷ giá, lạm
phát gia tăng ảnh hưởng tới doanh nghiệp cũng như Ngân hàng.
- Sự bất bình đẳng trong đối sử của Nhà nước dành cho các NHTM khác nhau.
- Chính sách Nhà nước chậm thay đổi hoặc chưa phù hợp với tình hình phát
triển đất nước.
1.1.3. Các dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng
1.1.3.1. Nhóm các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng
- Trong quá trình hạch toán của khách hàng, xu hướng của các tài khoản của
khách hàng qua một quá trình sẽ cung cấp cho ngân hàng một số dấu hiệu quan
trọng như: Phát hành Sec quá bảo chứng hoặc bị từ chối; khó khăn trong thanh
toán lương; sự dao động của các tài khoản mà đặc biệt là giảm sút số dư tài khoản
tiền gửi…
- Các hoạt động vay: Mức độ vay thường xuyên gia tăng; thanh toán chậm
các khoản nợ gốc và lãi; thường xuyên yêu cầu ngân hàng cho đáo hạn; yêu cầu

các khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến.
- Phương thức tài chính: Sử dụng nhiều các khoản tài trợ thương mại cho các
hoạt động phát triển dài hạn; chấp nhận sử dụng các nguồn tài trợ đắt nhất. ví dụ:
thường xuyên sử dụng nghiệp vụ chiết khấu các khoản phải trả; giảm các khoản
phải trả và tăng các khoản phải thu; các hệ số thanh toán phát triển theo chiều
hướng xấu; có biểu hiện giảm vốn điều lệ…
1.1.3.2. Nhóm các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý của khách hàng
- Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản trị điều hành hoặc ban
điều hành.
- Hệ thống quản trị hoặc ban điều hành luôn bất đồng về mục đích, quản trị
điều hành độc đoán hoặc phân tán.
- Cách thức hoạch định của khách hàng có biểu hiện: Được hoạch định bởi
HĐQT hoặc giám đốc điều hành ít hay không có kinh nghiệm; HĐQT hoặc giám
đốc điều hành các doanh nghiệp lớn tham gia quá sâu vào vấn đề thường nhật;
Võ Mạnh Cường Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47B
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thiếu quan tâm đến lợi ích của cổ đông, chủ nợ; Thuyên chuyển nhân viên diễn ra
thường xuyên; lập kế hoạch xác định mục tiêu kém, xuất hiện các hành động nhất
thời, không có khả năng đối phó với những thay đổi.
- Quản lý có tính gia đình: Có biểu hiện thiếu tin tưởng vào những người
quản lý không thuộc gia đình, cho thành viên của gia đình không có chuyên môn
đảm nhận cương vị then chốt.
- Có tranh chấp trong quá trình quản lý.
- Có các chi phí quản lý bất hợp lý: tập trung quá nhiều chi phí để gây ấn tượng
như thiết bị văn phòng quá hiện đại, phương tiện giao thông đắt tiền, ban giám đốc có
cuộc sống xa hoa, lẫn lộn giữa chi phí kinh doanh và tài chính cá nhân.
1.1.3.3. Nhóm dấu hiệu liên quan đến các ưu tiên trong kinh doanh
- Dấu hiệu hội chứng hợp đồng lớn: Doanh nghiệp bị ám ảnh bởi một khách
hàng có tên tuổi mà sau này có thể trở nên lệ thuộc; ban giám đốc cắt giảm lợi

nhuận nhằm có được những hợp đồng lớn.
- Dấu hiệu hội chứng sản phẩm đẹp: Bị ám ảnh bởi một sản phẩm mà không
chú ý đến các yếu tố khác.
- Sự cấp bách không thích hợp như: Do áp lực nội bộ dẫn đến việc tung ra
sản phẩm dịch vụ quá sớm, các hạn mức thời gian kinh doanh đưa ra không thực
tế, tạo mong đợi trên thị trường không đúng lúc…
1.1.3.4. Nhóm các dấu hiệu thuộc vấn đề kỹ thuật thương mại
- Thay đổi trên thị trường: tỷ giá, lãi suất; thay đổi thị hiếu; cập nhật kỹ thuật
mới; mất nhà cung ứng hoặc khách hàng lớn; thêm đối thủ cạnh tranh.
- Sản phẩm của khách hàng mang tính thời vụ cao.
- Có biểu hiện cắt giảm các chi phí sửa chữa, thay thế.
1.1.3.4. Nhóm các dấu hiệu về xử lý thông tin tài chính, kế toán
- Chuẩn bị không đầy đủ số liệu tài chính hoặc chậm trễ, trì hoãn nộp các báo
cáo tài chính.
- Những kết luận về phân tích tài chính cho thấy: Sự gia tăng không cân đối
về tỷ lệ nợ thường xuyên; khả năng tiền mặt giảm; tăng doanh số bán nhưng lãi
Võ Mạnh Cường Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47B
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
giảm hoặc không có, số khách hàng nợ tăng nhanh và thời hạn thanh toán của các
con nợ kéo dài…
- Những dấu hiệu phi tài chính khác như: những vấn đề về đạo đức, dáng vẻ
của nhà kinh doanh; sự xuống cấp trông thấy của nơi kinh doanh; kho lưu trữ hàng
hóa quá nhiều, hư hỏng và lạc hậu.
1.2. Quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng
Về bản chất có thể hiểu quản lý rủi ro tín dụng của NHTM có thể hiểu là
quá trình tác động có tổ chức, có hướng đích của các nhà quản lý ngân hàng lên
các đối tượng quản lý và các khách thể kinh doanh nhằm mục tiêu phòng ngừa,
hạn chế và giảm thiểu các rủi ro trong kinh doanh từ đó nâng cao mức độ an toàn,

khả năng sinh lời và đạt được các mục tiêu tăng trưởng trong ngắn hạn và dài hạn
của mỗi NHTM.
Nhiều nhà nghiên cứu và hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng
cho rằng: đối với các NHTM quản lý kinh doanh cũng chính là quản lý rủi ro, hay
nói cụ thể hơn, quản lý rủi ro chính là trung tâm hoạt động quản lý điều hành ngân
hàng. Hiểu một cách đơn giản thì quản lý rủi ro chính là quá trình các nhà quản lý
ngân hàng áp dụng các nguyên lí, các phương pháp và kinh nghiệm quản trị kinh
doanh của NHTM ở các quốc gia phát triển vào hoạt động kinh doanh của mình để
giám sát, phòng ngừa, hạn chế và giảm thấp rủi ro trong hoạt động tín dụng, đầu tư
và các hoạt động kinh doanh khác để giảm những tổn thất nhất định cho ngân
hàng, đồng thời không ngừng tăng uy tín và nâng cao sức mạnh của ngân hàng
trên thương trường.
Đối với rủi ro tín dụng, đầu tiên phải coi đó là một hiện tượng có thể xảy ra
ngoài mong muốn của ngân hàng khi thực hiện cho vay đối với khách hàng. Với
quan niệm như vậy, mỗi khi bắt đầu xem xét một khoản tín dụng, ngân hàng cần
lường trước những rủi ro có thể xảy ra. Đây cũng chính là xuất phát điểm hình
thành nên ý tưởng quản lý rủi ro tín dụng của NHTM. Mặc dù rủi ro tín dụng là
một hiện tượng tiềm ẩn và không bao giờ cũng xảy ra khi ngân hàng cung cấp một
khoản tín dụng nhưng trong nhiều trường hợp do tính lặp lại của rủi ro nên người
Võ Mạnh Cường Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47B
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ta có thể nhận biết được quy luật của nó. Chính vì điều này mà ngân hàng có thể
tìm ra được những biện pháp quản lý nhằm hạn chế khả năng xảy ra rủi ro tín dụng
và giảm thiểu tổn thất do rủi ro tín dụng gây ra
Vậy quản lý rủi ro tín dụng là một trong những nội dung quản lý của
NHTM bao gồm: nhận biết và đánh giá mức độ rủi ro, thực thi các biện pháp hạn
chế khả năng xảy ra rủi ro tín dụng và giảm thiểu tổn thất khi rủi ro tín dụng xảy
ra.
1.2.2. Nội dung quản lý

1.2.2.1. Quản lý tổng thể
Đối với mỗi ngân hàng, tín dụng luôn là hoạt động phong phú, đa dạng tạo
ra lợi nhuận lớn cho ngân hàng nhưng cũng đồng thời tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro
nhất. Do vậy, để đảm bảo được mục tiêu nâng cao hiệu quả, kiểm soát rủi ro, phát
triển bền vững, hường tời thông lệ quốc tế, nhất thiết phải xây dựng chính sách và
đường lối quản lý rủi ro tín dụng thống nhất và hợp lý, phù hợp với đặc điểm nội
tại và tính đặc thù của hệ thống, phát huy được các thế mạnh, khắc phục hạn chế
được các điểm yếu vì mục tiêu an toàn rõ ràng, lành mạnh và áp dụng thống nhất
trong toàn hệ thống
a. Chính sách cấp tín dụng
Chính sách tín dụng bằng văn bản là yếu tố căn bản, là nền tảng quản lý tín
dụng hiệu quả. Chính sách tín dụng được xây dựng khoa học, cẩn thận, thông suốt
từ trên xuống dưới sẽ tạo điều kiện để ngân hàng duy trì tiêu chuẩn tín dụng của
mình tránh rủi ro quá mức và đánh giá đúng cơ hội tín dụng. Chính sách tín dụng
được xây dựng đúng đắn là điều kiện tiên quyết để quản lý tốt rủi ro tín dụng. Một
chính sách tín dụng tốt phải là một ứng dụng thông minh của những nguyên tắc tín
dụng thích hợp với những thay đổi của các nhân tố và môi trường kinh tế. Công
việc của người cán bộ ngân hàng là khoản tín dụng nào nên cấp, áp dụng loại sản
phẩm nào, cấp cho ai, với những điều kiện như thế nào. Chính sách tín dụng tốt sẽ
nâng cao chất lượng của khoản tín dụng.
Đặc biệt ở các nước đang phát triển chính sách tín dụng lại càng quan trọng
vì ngân hàng phải thích ứng với nền kinh tế biến đổi liên tục, phải đối mặt với
Võ Mạnh Cường Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47B
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
những vấn đề mới trước đây gặp rất ít hoặc không quan tâm và là nền kinh tế có
nhu cầu vốn ngân hàng rất lớn.
Nội dung cơ bản của một chính sách tín dụng thường bao gồm:
- Miêu tả thị trường tín dụng mục tiêu của ngân hàng.
- Tiêu chuẩn với danh mục cho vay của ngân hàng.

- Xác định quyền hạn trách nhiệm của cán bộ tham gia quá trình ra quyết
định cấp tín dụng.
- Những thủ tục, hoạt động cần thiết cho việc chào mời, xem xét, đánh giá và
ra quyết định đối với yêu cầu vay vốn của khách hàng.
- Các tài liệu cần thiết trong hồ sơ xin cấp tín dụng.
- Hướng dẫn tiếp nhận, đánh giá, bảo quản tài sản cầm cố, thế chấp.
- Chính sách phương pháp xác định lãi suất, các khoản phí và thời hạn vay
vốn, kỳ hạn trả nợ, một bản tiêu chuẩn thích hợp áp dụng cho toàn bộ danh mục
cho vay.
- Giới hạn cho vay tối đa của từng chi nhánh ngân hàng, từng nhóm sản
phẩm đối với toàn danh mục, của tổng dư nợ đối với tổng tài sản ngân hàng.
- Phát hiện, phân tích và xử lý các khoản vay có vấn đề.
- Chính sách cho vay thận trọng đối với các ngân hàng có khó khăn tạm thời
hay mở rộng cho vay với các ngân hàng có tiềm năng lớn
b. Giới hạn cấp tín dụng
Để hạn chế rủi ro tín dụng mỗi ngân hàng cần quy định mức cấp tín dụng
tối đa cho từng mức quản trị(mức phán quyết). Mức phán quyết có thể được quy
định theo từng chi nhánh ngân hàng, các phòng giao dịch tùy theo quy mô hoạt
động, năng lực làm việc của chi nhánh, theo loại sản phẩm tín dụng, tính chất có
hay không có tài sản đảm bảo. Ngoài ra, cũng cần xác định mức giới hạn tín dụng
đối với từng khoản riêng biệt.
Trong hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp, có hai loại rủi ro chủ
yếu có thể xảy ra: rủi ro của các giao dịch cụ thể tức giao dịch đó không hiệu quả
và rủi ro tổng thể của khách hàng tức doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ.
Một rủi ro cụ thể không nhất thiết dẫn đến rủi ro tổng thể nhưng rủi ro tổng thể
Võ Mạnh Cường Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47B
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
xảy ra thì toàn bộ các giao dịch sẽ chịu rủi ro. Giới hạn tín dụng được xác định
chính xác sẽ giúp ngân hàng quản lý tốt rủi ro tổng thể của từng khách hàng. Nó

được hiểu là mức tín dụng an toàn tối đa trong đó doanh nghiệp quản lý tốt hoạt
động kinh doanh của mình, ở mức này rủi ro tín dụng của ngân hàng được hạn chế
ở mức thấp nhất. Giới hạn tín dụng bao gồm giới hạn mức của tất cả các dịch vụ
chứa đựng rủi ro tín dụng ngân hàng cấp cho khách hàng như: dư nợ vay, thấu chi,
chiết khấu, bảo lãnh mở L/C… Vượt qua giới hạn này, độ rủi ro sẽ vượt quá mức
cho phép. Giới hạn tín dụng được xác định trên cơ sở chính sách tín dụng trong
từng thời ký, xếp hạng tín dụng ngành nghề của khách hàng và quy mô hoạt động
của họ, khả năng cung ứng và quản lý vốn của ngân hàng.
c. Định giá khoản vay
Định giá khoản vay không chỉ là khâu quan trọng nhất trong hoạt động tín
dụng mà còn là công cụ vô cùng quan trọng trong tiến trình quản lý rủi ro tín dụng.
Thông thường thu nhật mà một khoản vay mang lại cho ngân hàng gồm có tiền lãi,
phí( ví dụ như phí thẻ tín dụng). Ở nhiều ngân hàng phần số dư bù doanh nghiệp
phải duy trì ở ngân hàng vay vốn cũng góp phần làm tăng thu nhập của ngân
hàng, tăng chi phí vay thực tế của doanh nghiệp vì doanh nghiệp cũng không được
sủ dụng hết số tiền nhận nợ.
Có nhiều phương pháp định giá khoản vay phổ biến nhất là phương pháp
định giá tổng hợp chi phí trong đó cơ cấu lợi suất của một khoản vay phải được
xác định ở mức đảm bảo được chi phí đầu vào, chi phí quản lý, phần bù rủi ro của
khoản vay và phần lợi nhuận mong đợi của ngân hàng. Khách hàng được đánh giá
là có mức độ rủi ro càng cao thì phần bù rủi ro càng cao. Lãi suất cũng phụ thuộc
vào món vay, giá trị khoản vay. Thông thường lãi suất đối với các khoản vay nhỏ
thường cao hơn so với các khoản vay lớn do chi phí quản lý cao. Lãi suất cũng phụ
thuộc vào giá trị và tính thanh khoản của tài sản đảm bảo. Trong nền kinh tế thị
trường, lãi suất là giá cả của khoản vay, phụ thuộc vào tương quan cung cầu tín
dụng trên thị trường vào thời điểm vay, vào mức độ cạnh tranh giữa các ngân
hàng. Vì cạnh tranh, có thể một số ngân hàng chấp nhận giá cả của khoản vay ở
mức thấp thậm chí chỉ đù bù đắp chi phí đầu vào, chi phí quản lý không tính đến
phần bù rủi ro> Việc cạnh tranh như vậy trong dài hạn sẽ làm giảm lợi nhuận của
Võ Mạnh Cường Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47B

12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngân hàng và tăng rủi ro trong hoạt động tín dụng. Thực tế không phải khi nào
ngân hàng cũng có thể xác định chính xác được các chi phí hoạt động nên nhiều
ngân hàng áp dụng phương pháp định giá lãi suất của từng khoản vay theo công
thức:
Lãi suất Lãi suất cơ sở( gồm lợi phần bù rủi ro Phần bù rủi ro
cho vay = nhuận biên,chi phí quản + tín dụng + kỳ hạn
lý và hoạt động)
= Lãi suất cơ sở + Chí phí tăng thêm
Những khoản vay dài hạn thường bao gồm phần bù rủi ro kỳ hạn bởi vì cho
vay với kỳ hạn dài thường làm cho ngân hàng mất đi những cơ hội kiếm lời khác,
đồng thời ngân hàng phải đối mặt với rủi ro cao hơn. Xác định độ lớn của phần bù
rủi ro là công việc khó nhất trong quá trình định giá một khoản vay. Ở một số ngân
hàng trên thế giới thường đưa ra một cách thức phân bổ phần bù rủi ro theo chất
lượng khoản vay như bảng dưới đây:
Bảng 1 : Phân bổ phần bù rủi ro
Mức độ rủi ro Phần bù rủi ro(%)
Không 0.00
Thấp 0.25
Trung Bình 0.50
Cần phải chú ý 1.50
Dưới chuẩn 2.50
Đáng ngờ 5.00
Nguồn : quản trị ngân hàng thương mại( peter rose)
Lãi suất được tính toán chính xác và đầy đủ buộc doanh nghiệp phải kinh
doanh có hiệu quả, tạo ra suất sinh lời cao hơn so với lãi suất ngân hàng thì mới có
lãi. Tuy nhiên, việc áp dụng toàn bộ mức rủi ro đối với khách hàng có chất lượng
tín dụng thấp không phải là một biện pháp hay. Thực tế một chính sách như vậy sẽ
làm tăng khả năng khách hàng không trả được nợ theo đúng hợp đồng, làm cho lợi

nhuận mà ngân hàng kiếm được từ khoản vay này thậm chí còn ít hơn đối với lợi
nhuận từ khoản cho vay theo lãi suất cơ sở. Để có thể có lãi thì doanh nghiệp buộc
phải áp dụng chiến lược kinh doanh mạo hiểm hơn để có thể hoàn trả lãi cho ngân
Võ Mạnh Cường Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47B
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hàng và làm mất đi cơ hội tiếp cận vốn vay ngân hàng đối với các khách hàng khác
có mức độ rủi ro thấp hơn. Đồng thời, việc ngân hàng quy định lãi suất cao để bù
đắp rủi ro cho mình cũng khiến cho mức độ rủi ro tín dụng tăng lên vì những
khách hàng không kinh doanh mạo hiêm không tiếp cận được vốn ngân hàng. Do
vậy, tùy thuộc vào chính sách của mình và trong từng trường hợp cụ thể ngân hàng
cũng có thể xác đinh lãi suất với phần bù rủi ro thấp đi kèm với chế độ sangg lọc
khách hàng chặt chẽ để cấp tín dụng.
d. Xếp hạng tín dụng
Việc xếp hạng tín dụng chính xác cung cấp cho ngân hàng một bản danh
sách mức độ rủi ro của từng khách hàng qua đó là cơ sở đê cân nhắc đối với từng
khoản vay đồng thời nó giúp ích nhiều cho thị trường cho các nhà đầu tư có tương
quan tổng quát về các công ty. Định kỳ ngân hàng cần xếp hạng lại tín dụng cho
khách hàng, đánh giá lại món vay và tài sản thế chấp để từ đó phân bổ mức dự
phòng, điều chỉnh lại giới hạn cấp tín dụng cho khách hàng, cho phù hợp và thực
hiện những biện pháp cần thiết nhằm thu hồi nợ trước hạn nếu phát hiện khoản
vay, tài sản thế chấp có dấu hiệu bất thường ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ
vay.
e. Tài sản thế chấp
Tài sản thế chấp là nguồn trả nợ thứ cấp cho khoản vay nếu dự án kinh
doanh của khách hàng gặp rủi ro, dòng tiền của khách hàng không đúng như dự
kiến, khách hàng mất khả năng thanh toán. Đánh giá đúng tài sản thế chấp cần có
của khoản vay sẽ làm giảm thiệt hại tối đa cho ngân hàng khi rủi ro tín dụng xảy
ra. Song, khoản vay sẽ được thanh toán bằng tiền tạo ra từ hoạt động sản xuất kinh
doanh chứ không phải bằng tài sản nên tài sản thế chấp mới là điều kiện cần chứ

chưa phải là điều kiện đủ để cho vay. Mặt khác, tài sản thế chấp luôn phụ thuộc
vào chu kỳ kinh doanh, sự khỏe mạnh của nền kinh tế, hệ thống tài chính, tính
pháp lý của tài sản nên có thể biến động rất lớn, tính thanh khoản cũng không cao,
khi phải giải ngân ngân hàng sẽ tốn chi phí nhất định, vì vậy định kỳ cán bộ ngân
hàng cần đánh giá lại giá trị tài sản thế chấp qua đó có biện pháp thích hợp. Hầu
hết cán bộ ngân hàng có kinh nghiệm đều thấy rằng tài sản thế chấp là một sự thay
Võ Mạnh Cường Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47B
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thế nghèo nàn cho các khoản thu và luồng tiền trong kinh doanh. Vì vậy, không
nên quyết đinh cho vay chỉ dựa trên tài sản thế chấp.
g. Đa dạng hóa danh mục đầu tư
Trên thị trường chứng khoán việc “ không bỏ tất cả quả trứng vào một rổ”
là yếu tố quyết định của một nhà đầu tư thành công, trong quản trị tín dụng cũng
vậy. Quản trị danh mục cân đối và kiềm chế rủi ro của danh mục bằng cách nhận
dạng, dự báo và kiểm soát mức độ rủi ro với từng thị trường, ngành nghề khác
nhau, khách hàng, mặt hàng, loại sản phẩm tín dụng và điều kiện hoạt động khác
nhau. Nhiều chuyên gia trong ngành ngân hàng tin rằng đa dạng hóa là phương
pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng hiệu quả nhất trong quản trị tín dụng. Khi một
ngân hàng phát triển chiến lược và kế hoạch kinh doanh của mình, họ phải xem xét
đến các yếu tố và mức độ rủi ro của thị trường mục tiêu và phân khúc khách hàng
của mình. Sự kết hợp các loại sản phẩm tín dụng, dịch vụ tín dụng, loại tiền cho
vay, khả năng cấp tín dụng và trọng tâm của danh mục. Yếu tố quan trọng hàng
đầu trong quản lý rủi ro tín dụng là lựa chọn thị trường mục tiêu. Việc lựa chọn thị
trường mục tiêu không chính xác chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng
nợ xấu của ngân hàng. Thông thường thị trường mục tiêu sẽ phải phụ thuộc vào
địa bàn hoạt động và quy mô của ngân hàng. Rủi ro của danh mục được đo lường
bằng độ lệch chuẩn giữa thu nhập thực tế và thu nhập kỳ vọng.
Khác với một danh mục chứng khoán, sự giảm giá hay suất sinh lời của
một chứng khoán này sẽ được bù đắp bởi sự gia tăng giá hay suất sinh lời của một

chứng khoán khác do khác biệt về mức độ rủi ro và xu hướng vận động của chúng
không cùng chiều với nhau. Một danh mục cho vay của ngân hàng thông thường
không thể có mức sinh lời cao hơn lãi suất cho vay đã quy định trong hợp đồng.
Các khoản tín dụng chỉ có thể giảm giá khi khách hàng không có khả năng trả lãi
hoặc tệ hơn nữa là không thu hồi được vốn gốc. Mặc dù vậy, việc đa dạng hóa
danh mục cho vay của ngân hàng cũng làm giảm tối đa rủi ro tín dụng do các
khoản cho vay có mức độ rủi ro khác nhau theo năng lực, quy mô khách hàng, độ
thành đạt của họ, theo ngành nghề…theo tính chất sở hữu.
Các khoản cho vay dài hạn có mức độ rủi ro cao hơn so với các khoản cho
vay ngắn hạn. Các món vay bằng ngoại tệ sẽ phải gánh chịu thêm rủi ro về tỷ giá
Võ Mạnh Cường Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47B
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
bên cạnh rủi ro tín dụng, nếu trạng thái ngoại tệ của ngân hàng không cân đối. Các
món vay lớn có chi phí quản lý rẻ hơn nhưng rủi ro hơn lớn hơn các món vay nhỏ.
Do vậy, các ngân hàng cần đa dạng hóa danh mục cho vay của mình, không nên
chỉ cho vay một, hai ngành hoặc một doanh nghiệp lớn. Việc đa dạng hóa cũng
cần được thực hiện đối với các thành phần kinh tế, loại sản phẩm, mức cho vay,
thời hạn và loại tiền cho vay và phải phù hợp với cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng.
1.2.2.2. Quản lý chi tiết từng khoản tín dụng
Việc quản lý tín dụng được thể hiện thông qua các bước cấp tín dụng hay
còn gọi là quy trình tín dụng. Mỗi bước tuy đóng một vai trò khác nhau nhưng có
quan hệ mật thiết với nhau, bước trước làm tiền đề, cơ sở cho bước tiếp theo.
Thông thường quy trình tín dụng trải qua 4 bước như sau:
Bước 1: Phân tích trước khi cấp tín dụng
Đây là bước quan trọng nhất, quyết định chất lượng của khoản vay. Nội
dung chủ yếu của bước này là thu thập và xử lý thông tin liên quan đến khách hàng
bao gồm năng lực sử dụng vốn vay, uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn
ngân quỹ, quyền sở hữu các tài sản cũng như điều kiện kinh tế đối với người vay.
Ở bước này ngân hàng thường áp dụng một số mô hình cụ thể để đánh giá rủi ro

tín dụng. Các mô hình rất đa dạng gồm cả mô hình định tính và mô hình định
lượng. Đặc điểm của các mô hình này là không loại trừ lẫn nhau nên một ngân
hàng có thể sử dụng cùng một lúc nhiều mô hình để hỗ trợ lẫn nhau, bổ sung trong
việc phân tích và đánh giá mức độ rủi ro của khoản vay.
• Mô hình định tính: Hệ thống tiêu chuẩn được các ngân hàng sử dụng
trong mô hình định tính là: Tiêu chuẩn 6C
- Character(Tư cách người vay): Tiêu chuẩn này thể hiện tinh thần trách
nhiệm, tính trung thực, mục đích rõ ràng và thiện chí trả nợ của khách hàng. Khi
quyết định cho vay, cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng người vay có mục đích sử
dụng vốn vay rõ ràng và có thiện chí trả nợ nghiêm chỉnh khi đến hạn.
- Capacity(Năng lực của người vay): Cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng
người vay phải có đủ năng lực hành vi và năng lực pháp lý để ký kết hợp đồng tín
dụng. Tương tự, đối với khách hàng là một tổ chức cán bộ tín dụng phải chắc chắn
Võ Mạnh Cường Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47B
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
rằng người đại diện phải là người được ủy quyền hợp pháp của tổ chức. Một hợp
đồng tín dụng được ký kết bởi người không được ủy quyền sẽ không thu hồi được
nợ, tiềm ẩn nhiều rủi ro cho ngân hàng.
- Cash( thu nhập của người vay): Tiêu chuẩn thu nhập của người vay tập
trung vào câu hỏi: Người vay có khả năng tạo ra đủ tiền để trả nợ không? Nhìn
chung người vay có ba khả năng để tạo ra tiền, đó là: dòng tiền ròng từ doanh thu
bán hàng, dòng tiền từ phát hành chứng khoán và dòng tiền từ thanh lý tài sản. Bất
cứ nguồn thu nào từ ba khả năng trên đều có thể sử dụng để trả nợ ngân hàng.
- Collateral(Tài sản đảm bảo): Một khoản tín dụng nếu được đảm bảo bằng
tài sản cầm cố hay tài sản thể chấp sẽ gắn chặt hơn nghĩa vụ trả nợ của người vay.
Nếu xảy ra những rủi ro khách quan, người đi vay không trả được nợ thì tài sản
cầm cố, thế chấp sẽ trở thành nguồn thu từ nợ thứ hai của ngân hàng. Tất nhiên tài
sản đảm bảo cũng phải đáp ứng yêu cầu và điều kiên nhất định của ngân hàng và
tương ứng với từng khoản vay.

- Conditions(Các điều kiện): Để đánh giá xu hướng ngành và điều kiện kinh
tế có ảnh hưởng thế nào đến hoạt động kinh doanh của người vay, cán bộ tín dụng
cần phải biết được thực trạng về ngành nghề và công việc kinh doanh của khách
hàng, cũng như các điều kiện kinh tế thay đổi sẽ ảnh hưởng thế nào đến hoạt động
kinh doanh của khách hàng.
- Control(Kiểm soát): Tập trung vào những vấn đề như các thay đổi trong
pháp luật và quy chế có ảnh hưởng thế nào đến người vay? Yêu cầu tín dụng của
người vay có đáp ứng được các tiêu chuẩn của ngân hàng?
• Mô hình định lượng
Mô hình định tính được xem là mô hình cổ điển để đánh giá rủi ro tín dụng.Hiện
nay, hầu hết các ngân hàng đều tiếp cận phương pháp đánh giá rủi ro hiện đại hơn,
đó là lượng hóa rủi ro tín dụng. Sau đây là một số mô hình lượng hóa rủi ro tín
dụng thường được sử dụng nhiều nhất:
v Mô hình điểm số Z:
Mô hình này phụ thuộc vào: (i) chỉ số các yếu tố tài chính của người vay – X;
(ii) tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của
người
Võ Mạnh Cường Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47B
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vay trong quá khứ, mô hình được mô tả như sau:
Z = 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0,6X4 + 1,0 X5 (1)
Trong đó:
X1: tỷ số “vốn lưu động ròng/tổng tài sản”.
X2: tỷ số “lợi nhuận tích lũy/tổng tài sản”.
X3: tỷ số “lợi nhuận trước thuế và lãi/tổng tài sản”.
X4: tỷ số “thị giá cổ phiếu/giá trị ghi sổ của nợ dài hạn”
X5: tỷ số “doanh thu/tổng tài sản”.
Trị số Z càng cao, thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Như vậy, khi trị
số Z thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ để xếp khách hàng vào nhóm có nguy cơ

vỡ nợ cao.
Z < 1,8: Khách hàng có khả năng rủi ro cao.
1,8 < Z <3: Không xác định được.
Z > 3: Khách hàng không có khả năng vỡ nợ.
Bất kỳ công ty nào có điểm số Z < 1.81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ
rủi ro tín dụng cao.
Ưu điểm: Kỹ thuật đo lường rủi ro tín dụng tương đối đơn giản.
Nhược điểm:
Mô hình này chỉ cho phép phân loại nhóm khách hàng vay có rủi ro và
không có rủi ro. Tuy nhiên trong thực tế mức độ rủi ro tín dụng tiềm năng của mỗi
khách hàng khác nhau từ mức thấp như chậm trả lãi, không được trả lãi cho đến
mức mất hoàn toàn cả vốn và lãi của khoản vay.
Không có lý do thuyết phục để chứng minh rằng các thông số phản ánh tầm
quan trọng của các chỉ số trong công thức là bất biến. Tương tự như vậy, bản thân
các chỉ số cũng được chọn cũng không phải là bất biến, đặc biệt khi các điều kiện
kinh doanh cũng như điều kiện thị trường tài chính đang thay đổi liên tục. Mô hình
không tính đến một số nhân tố khó định lượng nhưng có thể đóng một vai trò quan
trọng ảnh hưởng đến mức độ của các khoản vay (danh tiếng của khách hàng, mối
quan hệ lâu dài giữa ngân hàng và khách hàng hay các yếu tố vĩ mô như sự biến
động của chu kỳ kinh tế).
v Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng:
Võ Mạnh Cường Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47B
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ngoài mô hình điểm số Z, nhiều ngân hàng còn áp dụng mô hình cho điểm
để xử lý đơn xin vay của người tiêu dùng như: mua xe hơi, trang thiết bị gia đình,
bất động sản,…Các yếu tố quan trọng trong mô hình cho điểm tín dụng bao gồm:
hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, số người phụ thuộc, sở hữu nhà, thu
nhập, điện thoại cố định, tài khoản cá nhân, thời gian làm việc.Mô hình này
thường sử dụng 7-12 hạng mục, mỗi hạng mục được cho điểm từ 1-10.

Ưu điểm: mô hình loại bỏ được sự phán xét chủ động trong quá trình cho vay và
giảm đáng kể thời gian ra quyết định tín dụng.
Nhược điểm: mô hình không thể tự điều chỉnh một cách nhanh chóng để thích
ứng với những thay đổi trong nền kinh tế và cuộc sống gia đình.
v Mô hình xếp hạng của Moody và Standard & Poor
Rủi ro tín dụng trong cho vay và đầu tư thường được thể hiện bằng việc xếp
hạng trái phiếu và khoản cho vay, trong đó Moody và Standard & Poor là những
công ty cung cấp dịch vụ này tốt nhất. Moody và Standard & Poor xếp hạng trái
phiếu và khoản cho vay theo 9 hạng theo chất lượng giảm dần, trong đó 4 hạng
đầu ngân hàng nên cho vay, còn các hạng sau thì không nên đầu tư, cho vay.
Tóm lại, việc một ngân hàng đánh giá xác suất rủi ro của người vay, trên cơ
sở đó định giá các khoản vay hoặc khoản nợ chính xác đến đâu phụ thuộc vào quy
mô của khoản đầu tư và chi phí thu thập thông tin. Các yếu tố liên quan đến quyết
định đầu tư gồm:
- Nhóm các yếu tố liên quan đến người vay vốn:
Uy tín của khách hàng: được thể hiện qua lịch sử vay trả của khách hàng.
nếu trong suốt quá trình đi vay, khách hàng luôn trả đủ và đúng hạn thì sẽ tạo được
long tin đối với ngân hàng.
Cơ cấu vốn của khách hàng; thể hiện thông qua tỷ số giữa vốn huy
động/vốn tự có. Nếu tỷ lệ càng cao thì xác suất rủi ro càng lớn.
Mức độ biến động của thu nhập: Với bất kỳ cơ cấu vốn nào, sự thu nhập
cũng sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng trả nợ của người vay. Chính vì vây,
thường các công ty có lịch sử thu nhập ổn định thường xuyên lâu dài sẽ hấp dẫn
các nhà đầu tư hơn.
Võ Mạnh Cường Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47B
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tài sản đảm bảo: Là điều kiện chủ yếu trong bất kỳ một quyết định cho vay
nào nhằm khuyến khích việc sử dụng vốn có hiệu quả đồng thời nâng cao trách
nhiệm của khách hàng trong việc trả nợ ngân hàng.

- Nhóm các yếu tố liên quan đến thị trường:
Chu kỳ kinh tế: Chu kỳ kinh tế ảnh hưởng rất lớn đến tình hình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, ngân hàng cần phân tích chu kỳ kinh tế
nhằm lựa chọn quyết định đúng vào thời điểm và nên đầu tư vào ngành nào có
mức độ rủi ro thấp.
Mức lãi suất: Một mức lãi suất cao biểu hiện kết qủa của chính sách thất
chặt tiền tệ, thường gắn với mức độ rủi ro cao. Lý do là do giá vốn quá đắt nên nhà
đầu tư thường bị hấp dẫn bởi những dự án đem lại nhiều lợi nhuận, mà lợi nhuận
càng cao thì độ rủi ro càng lớn.
Bước 2: Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng
Hợp đồng tín dụng là văn bản mang tính pháp luật xác định quyền và nghĩa
vụ của hai bên tham gia quan hệ tín dụng, đồng thời phải tuân theo các điều khoản
trong luật qui định. Nội dung chính của một hợp đồng tín dụng thường bao gồm:
 Khách hàng: Họ tên, địa chỉ, tư cách pháp nhân (nếu có)
 Mục đích sử dụng: Khách hàng phải ghi rõ khoản vốn vay dùng làm gì?
 Số lượng tín dụng: Là số tiền mà khách hàng vay. Số lượng tín dụng cũng
có thể được chia nhỏ trong từng thời kỳ và dưới các hình thức tiền tệ khác
nhau.
 Lãi suất : Hợp đồng tín dụng phải ghi rõ lãi suất mà khách hàng phải trả,
tính chất của lãi suất (lĩa suất cố định hay biến đổi), nếu lãi suất có thay đổi
phải ghi rõ các điều kiện thay đổi đó.
 Phí: Để có được cam kết tín dụng khách hàng phải trả cho ngân hàng một
khoản phí được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên hạn mức cam kết. Mức phí
và điều kiện nộp phải được thể hiện trong hợp đồng tín dụng
 Thời hạn tín dụng: Thời hạn tín dụng được xác định cụ thể (ngày, tháng,
năm) và ghi rõ trong hợp đồng tín dụng, là thời hạn mà ngân hàng cam kết
cung cấp cho khách hàng khoản tín dụng.
Võ Mạnh Cường Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47B
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368

 Các loại đảm bảo: hợp đồng tín dụng phải ghi rõ các loại đảm bảo(nếu có)
cho các khoản tín dụng(kèm theo các hợp đồng phụ) như hợp đồng bảo
lãnh vật tư hàng hóa, vật tư hàng hóa trong kho, tài sản cố định, hoặc các
chứng có giá… Các nội dung liên quan đến các đảm bảo như quyền sở hữu,
quyền chuyển nhượng hoặc bán, định giá, bảo hiểm, người bảo quản, quyền
sử dụng đối với các loại đảm bảo phải được xác định và ghi rõ trong hợp
đồng tín dụng.
 Giải ngân: nội dung này xác định điều kiện và kì hạn giải ngân.
 Điều kiện thanh toán: bao gồm thanh toán cả gốc và lãi. Ngân hàng và
khách hàng sẽ thống nhất với nhau về cách thức thanh toán gốc và lãi.
 Các điều kiện khác: Bao gồm các thỏa thuận gủi ngân hàng và khách hàng
về ưu tiên tính toán, kiểm soát vật thế chấp và các hoạt động khác của
người vay phong tỏa tài sản, điều kiện và phương thức phát mại tài snar,
nộp báo cáo định kỳ, phạt vi phạm hợp đồng.
Bước 3: Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng
Sau khi hợp đồng tín dụng được ký kết và vốn vay được giải ngân, ngân
hàng sẽ tiến hành kiểm soát khách hàng theo các nội dung chính như: Khách hàng
có sử dụng vốn vay đúng mục đích hay không? Quá trính sản xuất kinh doanh có
những thay đổi bất lợi gì? Có dấu hiệu lừa đảo hay thua lỗ hay không?.... Công
việc này giúp ngân hàng thu thập thêm các thông tin về khách hàng. Nếu các thông
tin phản ánh chiều hướng tốt, điều đó thể hiện chất lượng tín dụng được đảm bảo.
Ngược lại khi các thông tin phản hồi có dấu hiệu bất ổn, ngân hàng cần có biện
pháp xử lý kịp thời. Ngân hàng được quyền thu hồi nợ trước hạn, ngừng dải ngân
nếu khách hàng vi phạm hợp đồng. Ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng bổ sung
tài sản cầm cố thế chấp, giảm số tiền vay khi thấy cần thiết để đảm bảo an toàn tín
dụng.
Bước 4: Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới
Quan hệ tín dụng sẽ kết thúc khi ngân hàng thu hồi được cả gốc và lãi của
khoản vay. Các khoản tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản
tín dụng an toàn. Trong một số trường hợp, người vay không hoàn trả được nợ

hoặc hoàn trả không đúng hạn và đầy đủ. Điều này có nghĩa rủi ro tín dụng đã xảy
Võ Mạnh Cường Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47B
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ra. Lúc này cán bộ tín dụng cần xem xét tìm ra nguyên nhân dẫn đến việc khách
hàng không thanh toán được nợ cho ngân hàng như đã cam kết trong hợp đồng tín
dụng.
Trường hợp khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng, cố tình kéo dài thời gian
trả nợ hoặc công việc làm ăn thua lỗ không còn khả năng thanh toán cho ngân
hàng, ngân hàng áp dụng phương án thanh lí tức là sử dụng các biện pháp có thể
để thu hồi nợ như phát mại tài sản thế chấp, tước đoạt các khoản tiền gửi.
Trong trường hợp khách hàng có khó khăn về tài chính, song vẫn kiên
quyết tìm cách khắc phục để trả nợ cho ngân hàng, ngân hàng có thể xem xét để
gia hạn nợ, giảm lãi hoặc cho vay thêm.
Như vậy, để đảm bảo hiệu quả trong công tác quản lý rủi ro tín dụng, các
ngân hàng phải xây dựng một quy trình tín dụng cụ thể và thống nhất. Quy trình
này phải được ban lãnh đạo của ngân hàng thông qua và phổ biến rộng rãi đến các
phòng, ban có liên quan cũng như toàn bộ cán bộ tín dụng trong ngân hàng.
1.2.3. Sự cần thiết quản lý rủi ro tín dụng
Giả sử thiệt hại của ngân hàng hoàn toàn phụ thuộc vào rủi ro tín dụng.
Trong quá trình hoạt động của mình nhìn chung các ngân hàng chỉ chấp nhận rủi
ro tín dụng mà mức độ thiệt hại tối đa không vượt quá mức lợi nhuận mong đợi.
Song trên thực tế mọi trường hợp đều có thể tính đến – như hình dưới đây
Võ Mạnh Cường Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47B
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bảng 2 : Khái quát về sự tổn thất tương ứng với mức độ của rủi ro tín dụng
Khả năng thiệt hại của ngân hàng
Lợi nhuận Chi phí Vốn tự có
Vùng rủi ro cho phép Vùng rủi ro nguy hiểm Vùng rủi ro tham khảo

Nguồn : quản trị ngân hàng thương mại (peter rosse)
Trong một môi trường hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro, nếu một ngân hàng
yếu kém trong quản lý rủi ro tín dụng, rủi ro tín dụng có thể xảy ra ngoài dự kiến.
Thiệt hại cho ngân hàng thể hiện trước hết : giảm lợi nhuận mong đợi, giảm nhịp
độ phát triển của ngân hàng trong tương lai. Rủi ro tín dụng không chỉ gây thiệt
hại cho ngân hàng. Nguồn vốn của ngân hàng chủ yếu được huy động từ nguồn
vốn nhàn rỗi trong xã hội, rủi ro tín dụng có thể làm giảm niềm tin của người gửi
tiền, ở mức độ nghiêm trọng hơn có thể xảy ra tình trạng rút tiền ồ ạt ra khỏi ngân
hàng. Nếu không đủ dự phòng và sự xử lý kịp thời ngân hàng có thể sụp đổ và có
thể gây ra hiệu ứng lan truyền đặc trưng của hệ thống ngân hàng - ảnh hưởng tồi tệ
một cách sâu rộng đến nền kinh tể dẫn đến khủng hoảng tài chính.
Như vậy, trong khi năng lực quản lý rủi ro tín dụng yếu kém nếu mở rộng
tín dụng thì ngân hàng chỉ ngày càng thua lỗ và có thể dẫn đến kết cục hết sức tồi
tệ. Song, cũng vì năng lực quản lý rủi ro tín dụng yếu kém dẫn đến việc ngân hàng
thắt chặt tín dụng thì ngân hàng có thể mất dần những khách hàng tốt, giảm thị
phần, do ngân hàng hoạt động dựa trên lợi thế kinh tế về quy mô nên đến một thời
điểm nào đó ngân hàng sẽ thua lỗ và dẫn đến phá sản. Do đó quản lý tín dụng, cụ
thể hơn là hoàn thiện và nâng cao năng lực quản lý tín dụng là tiền đề cho việc mở
rộng tín dụng hiệu quả, cũng là mở rộng lợi nhuận của ngân hàng.
Võ Mạnh Cường Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47B
23
Điểm
bắt đầu
giảm
lợi
nhuận
Điểm
bắt đầu
thua lỗ
Điểm

không

doanh
thu
Điểm mất
vốn tự có
và phá
sản
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nhìn nhận sâu thêm là: Khi cấp tín dụng mức lãi suất về nguyên tắc phải đủ
trang trải các khoản chi phí và cộng thêm phần lợi nhuận mong đợi. Trong phần
chi phí có phần bù đắp rủi ro. Trong điều kiện cạnh tranh ngày nay, nếu ngân hàng
đánh giá chính xác và cấp những khoản tín dụng ít rủi ro thì lợi thế trong kinh
doanh của ngân hàng sẽ tăng. Thể hiện ở chỗ ngân hàng có thể thu hút khách hàng
bằng cách giảm mức lãi suất cho khách hàng so với các đối thủ cạnh trang. Thêm
nữa thông qua việc mở rộng tín dụng, ngân hàng có cơ hội mở rộng cung cấp các
dịch vụ khác của mình.
Ở khía cạnh hiệu quả đầu tư xã hội, rủi ro tín dụng xảy ra có thể đồng nghĩa
với khoản đầu tư của người vay tiền không có hiệu quả. Nghĩa là lợi ích đầu tư đối
với cả ngân hàng, người vay tiền và xã hội là không có. Mặt khác, tại Việt Nam,
giả sử một ngân hàng thương mại Nhà nước gặp khó khăn tài chính do rủi ro tín
dụng xảy ra ngoài mong đợi, ngân hàng đó có thể nhận được sự hỗ trợ từ Ngân
sách Nhà nước. Khi ngân sách Nhà nước tăng chi cho khoản mục này thì đông thời
phải cắt giảm khoản mục khác hoặc tăng thu từ thuế. Điều đó ít nhiều ảnh hưởng
đên các mục tiêu ổn định và phát triển của quốc gia.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro tín dụng của
ngân hàng thương mại
1.3.1. Nhân tố chủ quan
Công nghệ thông tin
Công nghệ và trang thiết bị ngân hàng và việc xử lý thông tin về doanh

nghiệp là yếu tố quan trọng hàng đầu khi xem xét một hoạt động tín dụng. Nếu
công nghẹ và trang thiết bị của ngân hàng lạc hậu cùng với việc xử lý thông tin về
doanh nghiệp hạn chế sẽ dẫn đến những đánh giá thiếu xót và không chính xác
tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Những thông tin từ hồ sơ xin vay vốn của
doanh nghiệp và những thông tin do ngân hàng lưu trữ chỉ phản ảnh phần nào đó
về doanh nghiệp, ngân hàng cần tìm hiểu kỹ càng từ rất nhiều nguồn thông tin bên
ngoài qua đó mới đánh giá được toàn diện về doanh nghiệp. Do vậy, công nghệ lạc
hậu thiếu thông tin chính là nhân tố chủ quan xuất phát từ phía ngân hàng ảnh
hưởng đến quá trình quản lý rủi ro tín dụng.
Võ Mạnh Cường Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47B
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Cơ chế giám soát nội bộ
Một cơ chế giám soát hoạt động tín dụng tốt sẽ hạn chế và khắc phục kịp
thời những sai sót trong quá trình thực hiện công tác tín dụng. Sự phối hợp chặt
chẽ giữa các bộ phận trong ngân hàng sẽ đem lại hiệu quả tốt hơn, nó vừa có tác
dụng kiểm tra, kiểm soát lẫn nhau đồng thời bổ xung những thông tin cần thiết để
giám sát chặt chẽ một khoản vay và hơn nữa để hoàn thiện chính sách tín dụng
chung của ngân hàng.
Chuyên môn hóa cán bộ tín dụng
Khách hàng vay vốn của ngân hàng là rất đa dạng, đó có thể là cá nhân hay
một tổ chức trong đó phổ biến nhất là doanh nghiệp. Các doanh nghiệp vay vốn là
những doanh nghiệp có loại hình doanh nghiệp khác nhau, tính chất sỡ hữu, lĩnh
vực ngành nghề, quy mô hoạt động khác nhau. Đối với ngành nghề kinh doanh
khác nhau thì đặc trưng là các chỉ tiêu tài chính chuẩn dùng làm thước đo tình hình
hoạt động của doanh nghiệp khác nhau. Với loại hình doanh nghiệp khác nhau thì
mức độ phức tạp của báo cáo tài chính cũng khác nhau, hình thức, chu kỳ, phương
thức kinh doanh cũng khác nhau. Do đó cán bộ tín dụng sẽ gặp khó khăn bởi vấn
đề này, cần thiết phải chuyên môn hóa cán bộ tín dụng theo từng loại hình doanh
nghiệp, ngành nghề để hạn chế tối đa rủi ro của khoản vay.

1.3.2. Nhân tố khách quan
Hồ sơ xin vay vốn
Hồ sơ xin vay vốn là nhân tố phải kể đến trước tiên bởi vì đó là cơ sở đầu
tiên trong quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng xin vay vốn, do vậy mà
bộ hồ sơ có ý nghĩa rất lớn. Nếu khách hàng không cung cấp một bộ hồ sơ đầy đủ
chính xác và trình bày một cách khoa học, thậm chí là có hành vi gian lận thì việc
phân tích tình hình doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn và cho kết quả không như ý
muốn dẫn đến nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng. Vì vậy, việc kiểm tra lại độ chính
xác, phù hợp trong báo cáo tài chính là hết sức cần thiết.
Qui định về kế toán và kiểm toán
Việc hoàn thiện chế độ kế toán, kiểm toán thống nhất trong một quốc gia và
theo thông lệ quốc tế là một nhân tố khách quan ảnh hưởng lớn đến khả năng quản
Võ Mạnh Cường Lớp: Tài chính doanh nghiệp 47B
25

×