Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Luận văn tốt nghiệp : Kiễm toán viên và tính chính xác của báo cáo kiểm toán tài chính phần 3 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.91 KB, 11 trang )

Đề án môn học
Trờn õy l quy nh, chun mc o c ngh nghip m KTV phi tuõn th trong
cụng vic ca mỡnh. Vy thỡ trỏch nhim i vi BCTC thuc v ai? iu ny c
quy nh trong chun mc kim toỏn Vit Nam v quc t.
2.2/ Trỏch nhim i vi bỏo cỏo ti chớnh
*/ Trong chun mc kim toỏn Vit Nam giỏm c (hoc ngi ng u) n
v c kim toỏn chu trỏch nhim lp, trỡnh by trung thc, hp lý BCTC theo
ỳng chun mc v ch k toỏn hin hnh (hoc c chp thun) v cỏc quy
nh cú liờn quan. KTV v cụng ty kim toán phải chịu trỏch nhim kim tra, chun
b v trỡnh by ý kin ca mỡnh v BCTC. Vic kim toỏn ti chớnh khụng lm
giảm nh trỏch nhim ca giỏm c n v c kim toỏn i vi BCTC.
*/ Trong chun mc kim toỏn quc t: Trỏch nhim lp v trỡnh by BCTC
thuc v ban giỏm c cụng ty, chuyờn gia kim toỏn ch chu trỏch nhim hon
thnh v din t ý kin v BCTC. Vic kim toỏn BCTC cng khụng miễn hon
ton trỏch nhim ca ban giỏm c.
2.3/ Trỏch nhim phỏp lý:
KTV khụng nhng phi tuõn th trỏch nhim o c ngh nghip m cũn phi
tuõn th trỏch nhim phỏp lý ca mỡnh. Viờc xỏc nh trỏch nhim phỏp lý ca
KTV tu thuc vo phỏp lut ca tng quc qia gm:
2.3.1/ Trỏch nhim dõn s
Nhỡn chung, nguyờn nhõn ch yu ca nhng sai phm cú th dn ti trỏch
nhim dõn s thng do KTV thiu thn trng ỳng mc, hoc do khụng tụn trng
cỏc chun mc ngh nghip. Lỳc ny h cú th chu trỏch nhim dõn s trc cỏc
i tng:
- Chu trỏch nhim i vi khỏch hng l ngi thuờ kim toỏn BCTC thng
liờn quan n vic khụng hon thnh hp ng kim toỏn v gõy thit hi cho
khỏch hng.
- Chu trỏch nhim i vi ngi s hu chng khoỏng ca cụng ty
- Chu trỏch nhim vi cỏc bờn th 3 cú liờn quan
2.3.2/ Trỏch nhim hỡnh s
Ngoi trỏch nhim dõn s nu do gian ln, KTV cũn phi chu trỏch nhim hỡnh


s v nhng sai phm ca mỡnh. Ti nhiu quc gia trong ú cú Vit Nam KTV s b
truy t v To ỏn hỡnh s s xột x.
§Ò ¸n m«n häc
Với những trách nhiệm đạo đức, pháp lý được trình bày ở phần trên thì nếu
KTV tuân thủ đúng đắn sẽ hạn chế không những được rất nhiều sai phạm mà còn tăng
chất lượng kiểm toán BCTC.
II/ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1/ Mối quan hệ giữa chức năng kiểm toán với chất lượng báo cáo tài chính
1.1/ Những yếu tố quyết định chất lượng báo cáo tài chính :
Đầu tiên là tính độc lập của cơ quan kiểm toán là vấn đề cơ bản cho công tác
kiểm tra tài chính có hiệu lực và hiệu quả. Kết quả kiểm tra tài chính đối với tất cả các
cơ quan, đơn vị, các tổ chức nói chung chịu nhiều tác động về nhiều mặt. Tính độc
lập đầy đủ của cơ quan kiểm toán, cũng như KTV là yếu tố quan trọng trực tiếp tác
động đến chất lượng kiểm toán bởi vì trong hoạt động kiểm toán mọi ý kiến đánh giá,
nhận xét và kết luận của KTV đều dựa vào bằng chứng kiểm toán và tuân thủ pháp
luật không chịu sự tác động của bất kì sức ép nào nhất là sức ép quyền lực.
Thứ hai: trình độ nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của KTV là nhân tố quyết
định đến chất lượng kiểm toán. Nếu tất cả các yếu tố hợp thành tạo nên môi trường
kiểm toán thuận lợi nhưng do KTV thiếu trình độ nghiệp vụ không đáp ứng nhiệm vụ
được giao hoặc không trung thực, khách quan hoặc để các lợi ích cá nhân chi phối đến
hoạt động kiểm toán thì kết quả kiểm toán sẽ bị sai lệch, bóp méo.
Thứ ba là cơ cấu tổ chức và cơ chế phân cấp phân nhiệm của cơ quan kiểm toán
có tác động đến chất lượng kiểm toán. Nếu cơ cấu tổ chức hợp lý quy định rõ chức
năng nhiệm vụ của đơn vị theo từng chuyên ngành sẽ tạo điều kiện cho các đơn vị
chuyên môn hoá hoạt động kiểm toán theo hướng chuyên sâu thì hiệu quả chất lượng
kiểm toán từng bước được nâng cao và ngược lại. Việc bố trí hợp lý và giao việc phù
hợp với khả năng chuyên môn nghiệp vụ của từng thành viên trong đoàn là yếu tố
quyết định đến chất lượng và hiệu quả kiểm toán.
Yếu tố tiếp theo ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán BCTC là việc tuyển dụng
cán bộ, KTV: KTV là nhân tố quan trọng quyết định chất lượng kiểm toán, ngoài

những tiêu chuẩn của một công chức khi tuyển dụng KTV cần đặc biệt chú ý đến hai
tiêu chuẩn đó là: phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và có kiến thức về pháp luật
có nghĩa là người đó đã tốt nghiệp theo một chuyên ngành về mặt pháp lý và kinh
nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực được đào tạo. Việc đánh giá về phẩm chất đạo đức
được thực hiện chủ yếu là đánh giá trên hai góc độ đó là về mặt lý lịch về lịch sử cá
§Ò ¸n m«n häc
nhân thông qua cơ quan quản lý cán bộ và các tổ chức, đoàn thể mà người đó đã từng
tham gia đồng thời phải kết hợp với việc thăm dò dư luận của quần chúng để xác định
đối chiếu những ý kiến nhận xét đã nêu trong lí lịch.
Mặt khác chính sách cán bộ và đào tạo cũng ảnh hưởng đến chất lượng kiểm
toán BCTC. Chính sách này luôn tác động trực tiếp đến tâm lý làm việc của KTV, nếu
chính sách cán bộ tốt sẽ khuyến khích KTV hăng say có trách nhiệm trong công việc
được giao và ngược lại. Vì vậy muốn xây dựng, ban hành các chính sách cán bộ để
mọi KTV biết lấy đó làm mục tiêu phấn đấu. Việc đánh giá năng lực để phân loại đề
bạt khen thưởng KTV phải được thực hiện thường xuyên, việc đánh giá phải dựa trên
kết quả các cuộc kiểm toán mà KTV đó có thực hiện, thông qua hội đồng bình xét theo
từng cấp độ để đảm bảo tính dân chủ, khách quan, tránh mọi biểu hiện định kiến cá
nhân. Vì vậy việc đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán và pháp luật là hết sức
quan trọng nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Yếu tố thứ sáu ảnh hưởng tới chất lượng kiểm toán BCTC là hệ thống văn bản
quy định chuyên môn nghiệp vụ. Việc hoàn thiện hệ thống văn bản chuyên môn,
nghiệp vụ không những là yếu tố quan trọng tác động đến chất lượng kiểm toán mà
còn là cơ sở pháp lý đảm bảo tính độc lập khách quan cho hoạt động kiểm toán tạo
niềm tin cho những người sử dụng kết quả kiểm toán.
Quan hệ với đơn vị được kiểm toán là yếu tố tiếp theo ảnh hưởng tới chất lượng
kiểm toán BCTC. Nếu KTV có quan hệ với đơn vị được kiểm toán về lợi ích kinh tế
hoặc tình cảm sẽ làm ảnh hưởng đến tính khách quan và chi phối đến các ý kiến nhận
xét, kết luận trong báo cáo kiểm toán. Để đảm bảo tính khách quan cho KTV trong quá
trình kiểm toán, Nhà nước và cơ quan kiểm toán phải quy định rõ các trường hợp KTV
không được vào kiểm toán tại đơn vị, nếu KTV có quan hệ gia đình hoặc có lợi ích

kinh tế và các lợi ích khác với đơn vị được kiểm toán.
Yếu tố cuối cùng ảnh hưởng tới chất lượng kiểm toán là kiểm tra, giám sát.
Kiểm tra là một chức năng của quản lý đối với hoạt động kiểm toán thì chức năng này
càng phải được đề cao hơn nhằm ngăn chặn biểu hiện làm việc qua loa, đại khái, hoặc
có tư tưởng thiên vị vì lợi ích cá nhân làm ảnh hưởng tới chất lượng kiểm toán. Để
nâng cao chất lượng kiểm toán cơ quan kiểm toán phải có quy chế công khai quy định
cụ thể việc kiểm tra, giám sát hoạt động kiểm toán theo từng cấp, trách nhiệm của
KTV và cán bộ quản lý đối với nhiệm vụ được giao.
§Ò ¸n m«n häc
Bên cạnh những yếu tố làm ảnh hưởng tới chất lượng của BCTC còn có những
yếu tố thuộc về khách hàng và công ty kiểm toán.
1.2/ Các sai phạm thuộc về khách hàng ảnh hưởng tới chất lượng kiểm toán BCTC
Như chúng ta đã nghiên cứu ở trên chức năng của kiểm toán là “xác minh“ và
“bày tỏ ý kiến“. Vậy với hành vi vi phạm (như gian lận và sai sót ) trên BCTC thì
KTV có nên “bày tỏ ý kiến“ với cơ quan pháp luật về hành vi đó hay không sau khi
xác định được các sai phạm đó trên BCTC ? trong khi một trong những chuẩn mực
nghề nghiệp của KTV là "bảo mật". Câu hỏi này đã được trả lời trong chuẩn mực kiểm
toán Việt Nam số 240:
"* KTV và công ty kiểm toán phải thông báo kịp thời những phát hiện của mình cho
giám đốc đơn vị được kiểm toán trong thời hạn nhanh nhất trước ngày phát
hànhBCTC hoặc trước ngày phát hành báo cáo kiểm toán khi:
- KTV nghi ngờ có gian lận, mặc dù chưa đánh giá được ảnh hưởng của
gian lận này tới BCTC
- Có gian lận
- Có sai sót trọng yếu
* Khi nghi ngờ có sai phạm hoặc sai sót trọng yếu đã xảy ra hoặc có thể xảy ra KTV
phải cân nhắc tất cả các tình huống xem cần thông báo cho cấp nào. Trường hợp có
gian lận KTV phải đánh giá khả năng gian lận này liên quan đến cấp quản lý nào.
Trong hầu hết các trường hợp xảy ra gian lận KTV và công ty kiểm toán phải thông
báo cho cấp quản lý cao hơn cấp của người có dính líu đến gian lận đó.

* KTV và công ty kiểm toán có trách nhiệm bảo mật các thông tin số liệu của khách
hàng, trừ trường hợp đơn vị được kiểm toán có gian lận và sai sót mà theo quy định
của pháp luật kiểm toán viên và công ty phải thông báo hành vi này cho cơ quan chức
năng có liên quan ".
Như vậy đối với một số doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, BCTC doanh nghiệp
lập ra chưa đảm bảo thể hiện một cách trung thực và hợp lý thì KTV độc lập sẽ đưa ra
các yêu cầu điều chỉnh lại các thông tin trên BCTC. Trong trường hợp doanh nghiệp
không muốn điều chỉnh lại do không thể khắc phục được mà các thông tin này ảnh
hưởng trọng yếu tới thông tin trình bày trong BCTC thì báo cáo của KTV sẽ nêu ra
dưới dạng xác nhận không toàn bộ (có ngoại trừ). Các điểm ngoại trừ có thể được coi
là điểm kiểm toán không xác nhận tính trung thực và hợp lý của các thông tin, điều
§Ò ¸n m«n häc
này trở thành điểm yếu của BCTC làm hạn chế và ảnh hưởng không tốt tới các giao
dịch và quan hệ kinh tế với doanh nghiệp. Trong trường hợp báo cáo kiểm toán được
cơ quan quản lý xem xét thì đây cũng là những vấn đề mà nhà quản lý không mấy hài
lòng. Do đó khi trên BCTC mà KTV phát hiện ra những sai phạm thì còn tuỳ thuộc
vào mức độ sai phạm lớn hay nhỏ làm ảnh hưởng tới BCTC như thế nào thì KTV mới
quyết định báo cáo hoặc không báo cáo với cơ quan pháp luật hoặc để cho khách hàng
tự sửa đổi.
1.3/ Những sai phạm ở đơn vị làm ảnh hưởng tới chất lượng của BCTC
Trong quá trình hoạt động của một đơn vị, nhiều sai phạm có thể xảy ra và dẫn
đến khả năng là các BCTC sẽ phản ánh không trung thực về thực trạng tài chính của
họ. Để xem xét trách nhiệm của KTV đối với các sai phạm diễn ra tại đơn vị, các
chuẩn mực kiểm toán thường đề cập đến ba nhóm hành vi sai phạm bao gồm sai sót
gian lận và không tuân thủ luật định:
*Các sai sót:
-Nhầm lẫn số học, hoặc ghi chép trong dữ liệu kế toán.
-Bỏ sót hoặc hiểu sai sự kiện.
-Áp dụng sai các phương pháp kế toán
*Gian lận như:

-Sửa đổi nguỵ tạo tráo đổi sổ sách chứng từ.
-Tham ô tài sản.
-Che giấu, bỏ sót các nghiệp vụ trên sổ sách hay chứng từ
-Ghi chép các nghiệp vụ không có thật
-Áp dụng sai các phương pháp kế toán.
*Không tuân thủ: là hành vi thực hiện sai, bỏ sót, thực hiện không đầy đủ
không kịp thời hoặc không thực hiện pháp luật và các quy định dù là vô tình hay cố ý
của đơn vị gồm tất cả những hành vi của tập thể, cá nhân mang danh nghĩa đơn vị gây
ra.
Sự phân biệt giữa các sai phạm trên không có ranh giới rõ ràng. Giữa gian lận
và sai sót tuy có sự khác biệt về bản chất nhưng trong thực tế rất khó xác định được,
mặt khác hành vi không tuân thủ chủ yếu là các sai phạm dưới góc độ của đơn vị hơn
là của các cá nhân và không cần phân biệt cố ý hay vô tình.
§Ò ¸n m«n häc
Đối với các sai phạm nêu trên thì người quản lý phải ngăn ngừa và phát hiện
những sai phạm đặc biệt là hành vi gian lận và không tuân thủ. Bởi lẽ nếu không thực
thi được điều này thì chắc chắn thông tin sẽ không trung thực và thậm chí đơn vị có
thể sẽ bị giải thể vì những hành vi không tuân thủ.
Bên cạnh trách nhiệm của nhà quản lý thì KTV cũng có trách nhiệm với việc
phát hiện các loại sai phạm trong quá trình kiểm toán:
*Đối với gian lận và sai sót: trách nhiệm của KTV là xem xét rủi ro tồn tại các
sai lệch trong BCTC do những gian lận và sai sót gây ra.
*Đối với hành vi không tuân thủ: mặc dù chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số
250 quy định hành vi không tuân thủ pháp luật và các quy định nói chung không phải
là trách nhiệm nghề nghiệp của KTV và công ty kiểm toán nhưng KTV cần ghi nhận
về các hành có thể gây ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC.
Như vậy, với những yếu tố thuộc về khách hàng, thuộc về đơn vị (công ty)
kiểm toán có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng kiểm toán BCTC thì trên cơ sở chức
năng của kiểm toán có thể hạn chế hay khắc phục được những sai phạm nhờ đó làm
tăng tính trung thực hợp lý, hợp pháp cuả BCTC từ đó nâng cao hơn chất lượng của

kiểm toán. vậy thì thực trạng chất lượng kiểm toán BCTC ở nước ta như thế nào ?
2/ Thực trạng và nguyên nhân về chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính hiện
nay ở nước ta
2.1/ Thực trạng:
Chất lượng của kiểm toán BCTC ở nước ta bước đầu đã được khách hàng tin
tưởng và ngày càng có uy tín. Tuy vậy trên thực tế sự phát triển của hoạt động kết
toán, kiểm toán hiện nay vẫn còn nhiều bất cập gây trở ngại không ít đối với quá trình
hội nhập quốc tế và khu vực. Trình độ, năng lực hành nghề của nhiều công ty kế toán,
kiểm toán ở nước ta còn nhiều hạn chế, các loại hình dịch vụ chưa đủ sức cạnh tranh
với các công ty nước ngoài, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các công ty
trong nước thông qua việc giảm giá chi phí vẫn còn tồn tại, chất lượng dịch vụ chưa
đáp ứng được thực tế đòi hỏi. Bên cạnh đó nhận thức của xã hội về các hoạt động kiểm
toán còn nhiều hạn chế. Khuôn khổ hoạt động kiểm toán tuy đã có nhiều đổi mới
nhưng chưa đồng bộ và đầy đủ, các tổ chức nghề nghiệp chưa đủ khả năng đảm nhận
việc tổ chức và hướng dẫn quản lý chuyên môn.
§Ò ¸n m«n häc
Mặt khác, chất lượng kiểm toán BCTC phản ảnh nội dung và hệ thống các chi
tiêu chưa hợp lý với yêu cầu, mục tiêu của nhiệm vụ kiểm tóan, chưa phản ánh những
vấn đề cơ bản trọng tâm của tình hình quản lý điều hành, sử dụng ngân sách nhà nước
của các cấp các ngành. Nội dung kiểm toán BCTC chỉ phản ánh ở tầm vi mô mµ chưa
phản ánh đúng tầm vĩ mô. Kết quả kiểm toán ở các bộ, ngành Trung ương hoặc ngân
sách của một tỉnh (thành phố) còn mang tính liệt kê số liệu, liệt kê tình hình, liệt kê
những sai phạm chính sách, chế độ của các đơn vị thuộc và trực thuộc bộ ngành và địa
phương được kiểm toán.
Ngoài ra chất lượng kiểm toán BCTC còn mắc nhiều sai phạm về số liệu cách
trình bày về văn phạm.
Thêm vào đó hầu hết cán bộ, KTV tuổi đời còn rất trẻ, có trình độ học vấn
nhưng để giữ cương vị chủ chốt nhiều người thiếu sự chuẩn bị kĩ càng, chưa được rèn
luyện thử thách của thực tiễn, lãnh đạo các đơn vị lại thiếu kiểm tra đôn đốc thường
xuyên nên dễ sinh ra kiêu ngạo lợi dụng quyền hạn coi thường kỉ cương, kỉ luật.

2.2/ Nguyên nhân của thực trạng
Trước hết việc xác định mục tiêu kiểm toán hàng năm của các vụ kiểm toán
chuyên ngành và kiểm toán nhà nước nhiều khi còn chung chung, mục tiêu kiểm toán
chưa g¾n kết với hệ thống các chỉ tiêu trọng điểm, chưa gắn kết với đối tượng kiểm
toán. Khi xây dựng kết hoạch kiểm toán việc lựa chọn xác định mục tiêu trọng tâm,
trọng điểm của một cuộc kiểm toán là rất quan trọng, giúp cho kết quả kiểm toán đạt
chất lượng, hiệu quả cao, nếu tất cả các cuộc kiểm toán đều phản ánh tập trung, thống
nhất vào các chỉ tiêu trọng tâm, trọng điểm của công tác quản lý, điều hành thu - chi
ngân sách của đối tượng được kiểm toán thì sẽ khắc phục được tình trạng kiểm toán
tràn lan, dàn trải, vụn vặt. Báo cáo kiểm toán không có định hướng, kết luận những
vấn đề nội dung không có giá trị ở tầm vĩ mô.
Bên cạnh đó việc xác đinh lựa chọn đối tượng kiểm toán hàng năm còn có
những bất hợp lý, chưa phù hợp với mục tiêu kiểm toán. Đối tượng kiểm toán hằng
năm thường vẫn là lần lượt, thứ tự từ đơn vị có nguồn thu – chi ngân sách lớn đến nhỏ,
chưa phải xuất phát từ mục đích kiểm toán hằng năm để chọn đối tượng kiểm toán phù
hợp, chưa xác định được mục tiêu kiểm toán trong năm đối với từng đối tượng kiểm
toán. Cho đến nay Vụ kiểm toán ngân sách và kiểm toán Nhà nước chưa nắm được các
thông tin cần thiết thông tin chủ yếu về tình hình kinh tế, tài chính – ngân sách của các
§Ò ¸n m«n häc
Bộ, ngành Trung ương và các địa phương để lựa chọn đối tượng kiểm toán có chiến
lược hàng năm phục vụ cho mục đích kiểm toán, chỉ đến khi lựa chọn được đối tượng
kiểm toán theo thứ tự lần lượt rồi mới đi khảo sát nắm tình hình và xác định mục tiêu
kiểm toán.
Đồng thời mẫu báo cáo kiểm toán mới sửa đổi, ban hành để sử dụng thống nhất
trong toàn ngành trong năm 2002 còn những bất hợp lý dẫn tới tình trạng chất lượng
kiểm toán chưa cao. Mẫu báo cáo kiểm toán của Bộ chưa hướng dẫn kiểm toán viên đi
vào trọng tâm, trọng điểm của chu trình lập, chấp hành cà quyết toán của đối tượng
được kiểm toán, cụ thể phần kết quả kiểm toán, không yêu cầu kiểm toán theo chu
trình vận động của ngân sách: lập, chấp hành, quyết toán mà chỉ có bảng số liệu phản
ánh chênh lệch về kinh phí, về tài sản, về hoạt động sự nghiệp giữa báo cáo tài chính

của đơn vị và của kiểm toán; sau đó giải thích nguyên nhân chênh lệch, nhưng lại đưa
nội dung phần lập và chấp hành dự toán vào phần nhận xét, đó là điều không hợp lý
làm cho kết quả kiểm toán đơn điệu, không phản ánh được tính hệ thống và bản chất
của vấn đề.
Mặt khác trình độ tổng hợp và viết báo cáo của KTV hiện nay còn qúa yếu
thêm vào đó việc chỉ đạo, phân công giữa KTV làm công tác kiểm toán tổng hợp của
một cuộc kiểm toán và KTV viết báo cáo tổng hợp lại không đồng bộ, sử dụng chưa
đúng người đúng việc. Do đó còn nhiều báo cáo kết quả kiểm toán chất lượng yếu và
còn nhiều sai sót là lẽ đương nhiên.
Dưới đây chúng ta sẽ tìm hiểu về chất lượng kiểm toán của một số nước phát
triển.
2.3/ Chất lượng công tác quản lý chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính ở Thái
Lan
Công tác quản lý chất lượng kiểm toán của kiểm toán nhà nước Thái Lan được
thể hiện trên 7 mặt:
1. Chất lượng của tổ chức quy trình kiểm toán
2. Chất lượng kiểm toán viên
3. Chất lượng của các phương tiện trong kiểm toán
4. Chất lượng của các tài liệu trong kiểm toán
5. Chất lượng của việc tổ chức thông tin trong kiểm toán
6. Chất lượng của môi trường kiểm toán
§Ò ¸n m«n häc
7. Chất lượng của công tác quản lý và giám sát kiểm toán.
Việc tổ chức đánh giá chất lượng kiểm toán của cấp quản lý (tổng kiểm toán
Nhà nước và các KTV ) thông qua các nhóm giúp việc, cụ thể : tại mỗi cơ quan kiểm
toán của Trung ương và mỗi kiểm toán của khu vực bố trí ba KTV thực hiện công tác
kiểm tra đánh giá chất lượng kiểm toán của các đoàn kiểm toán. Số chuyên viên kiểm
tra chất lượng kiểm toán này thực hiện công việc thông qua tiến hành kiểm tra trực
tiếp tại các đoàn kiểm toán. Tại kiểm toán nhà nước, giám đốc văn phòng là người
giúp tổng kiểm toán nhà nước thực hiện việc kiểm tra đánh giá chất lượng kiểm toán

BCTC.
Để hạn chế những nguyên nhân khắc phục thực trạng chất lượng kiểm toán
BCTC ở nước ta hiện nay mà nguyên nhân chủ yếu là trách nhiệm của KTV trong quá
trình hành nghề ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng kiểm toán BCTC.
3/ Giải pháp nâng cao trách nhiệm của kiểm toán viên
3.1/ Giải pháp tổ chức đào tạo: theo các bước sau:
1. Xác định loại hình đào tạo hợp lý: chất lượng kiểm toán nói chung và
chất lượng KTV nói riêng phụ thuộc rất lớn vào loại hình đào tạo. Do
vậy việc xác định loại hình đào tạo hợp lý sẽ nâng cao chất lượng đào
tạo. Ngoài ra còn có các chuẩn để có được chứng chỉ một KTV thực thụ
(bằng cấp, kinh nghiệm công tác, sát hạch chuẩn quốc gia )
2. Các trường đại học, học viện thuộc khối kinh tế nơi đào taọ căn bản
bước đầu làm nền cho việc lập nghề kiểm toán, cung cấp nguồn nhân
lực cho các công ty kiểm toán cần mở chuyên ngành đào tạo kiểm toán.
Trên thực tế trong những năm qua đào tạo về kiểm toán chỉ là bước đầu
trong khối chuyên sâu của kế toán nên chưa phù hợp với những nhà
kiểm toán chuyên nghiệp do vậy cần thiết phải có một giáo trình độc lập
về kiểm toán nhằm cung cấp cho sinh viên những cái nhìn từ tổng quan
đến hệ thống về ngành kiểm toán và nghiệp vụ kiểm toán đi kèm là
những môi trường thực tiễn cho sinh viên thực hành cũng như phong
phú các loại tài liệu để tạo điều kiện cho sinh viên có thể đối chiếu so
sánh nâng cao khả năng tư duy.
3. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ sở đào tạo kiểm toán và các
công ty kiểm toán nhằm định hướng, giúp sinh viên kiểm tóan bước đầu
§Ò ¸n m«n häc
làm quen với môi trường kiểm toán để có thể nhận biết được quy trình
làm việc cũng như khả năng tác nghiệp.
4. Phát huy vai trò, chức năng và trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà
nước về kế toán, kiểm toán và hội nghề nghiệp. Cần xác định phân
nhiệm rõ ràng vai trò chức năng và trách nhiệm của các cơ quan quản lý

nhà nước cũng như của hội nghề nghiệp trong việc xây dựng chế độ,
chính sách và các quy định khác về tiêu chuẩn tuyển dụng theo từng
ngạch bậc cũng như việc thường xuyên kiểm tra khảo sát năng lực,
nghiệp vụ của đội ngũ KTV.
5. Cần thành lập các trung tâm bồi dưỡng chuyên sâu về kiểm toán. Hiện
nay đối với kiểm toán nhà nước cũng đã thành lập trung tâm bồi dưỡng
về kiểm toán và đã có những kết quả khả quan ban đầu. Ngoài ra Hội kế
toán Việt Nam cần phải có sự phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành liên
quan (Bộ tài chính, bộ tư pháp, các công ty kiểm toán ), và quốc tế để
thuận lợi trong việc cập nhật kiến thức cho đội ngũ KTV.
6. Các công ty kiểm toán nâng cao uy tín của mình thông qua chất lượng
dịch vụ, tư vấn bằng những kế hoạch cụ thể có hệ thống và dài hạn đối
với đội ngũ KTV của công ty (đào tạo tại chỗ, gửi đào tạo trong và
ngoài nước, kiểm tra sát hạch trình độ nội bộ ), thực hiện các chính
sách liên kết đào tạo, liên kết thực hành với các công ty cũng như các tổ
chức nghiệp vụ uy tín.
3.2/ Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật
Bên cạnh giải pháp tổ chức đào tạo thì giải pháp hoàn thiện khuôn khổ pháp
luật cũng rất quan trọng. Việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về kế toán - kiểm toán với
văn bản pháp lý cao nhất là Luật kế toán đã được ban hành và có hiệu lực thi hành từ
ngày 1/1/2004 gồm các quy định về các vấn đề liên quan đến công tác kế toán, làm cơ
sở quan trọng cho việc cung cấp dịch vụ kế toán của doanh nghiệp. Các chuẩn mực kế
toán, kiểm toán Việt Nam đã được công bố cần phải kịp thời có các thông tư hướng
dẫn cụ thể bảo đảm tính khả thi đối với các doanh nghiệp các cơ quan, đơn vị hành
chính sự nghiệp và các tổ chức kinh tế. Đồng thời với việc tiếp tục xây dựng và ban
hành các chuẩn mực kế toán - kiểm toán còn lại, cần nghiên cứu xây dựng và nhanh
chóng ban hành các chuẩn mực kế toán công nhằm áp dụng cho các đơn vị hành chính
§Ò ¸n m«n häc
sự nghiệp. Việc xây dựng và ban hành hệ thống chuẩn mực kế toán - kiểm toán ngoài
việc đảm bảo “hoà nhập quốc tế“ còn phải chú trọng đến tính đặc thù của nền kinh tế

Việt Nam và nhất thiết phải tính đến xu hướng đổi mới cơ chế, chính sách tài chính
trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
3.3/ Mở rộng diện kiểm toán bắt buộc và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ
Mở rộng diện kiểm toán bắt buộc, khuyến khích các doanh nghiệp tổ chức kinh
tế tăng cường nhu cầu cung cấp thông tin tài chính, kế toán thông qua dịch vụ kế toán,
kiểm toán. Thực hiện giải pháp này Nhà nước cần có những quy định bắt buộc các
doanh nghiệp tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế phải được kiểm toán thông
qua hợp đồng kiểm toán. Giá trị của BCTC chỉ được thừa nhận khi đã được kiểm toán.
Tăng cường xử lý các thông tin tài chính kinh tế thông qua ý kiến tư vấn của các đơn
vị, tổ chức kế toán - kiểm toán được nhà nước công nhận.
Tăng cường về số lượng và đa dạng hoá loại hình dịch vụ kế toán - kiểm toán
tức là trên cơ sở tổng kết đánh giá thực trạng hoạt động dịch vụ kiểm toán - kế toán
trong những năm qua, đúc rút kinh nghiệm và xây dựng lộ trình cho việc thành lập mới
các công ty kiểm toán – kế toán. Chú trọng mở rộng loại hình các công ty chuyên sâu
như các công ty TNHH, công ty TNHH một thành viên, công ty tư nhân, công ty cổ
phần, công ty liên doanh với nước ngoài, công ty nước ngoài tại Việt Nam. Bảo đảm
việc thành lập công ty đơn giản, đúng thủ tục pháp lý, tạo môi trường cạnh tranh lành
mạnh giữa các công ty. Khuyến khích các công ty mở rộng quy mô, nâng cao chất
lượng dịch vụ, đa dạng hoá sản phẩm.
Bên cạnh đó đảng và Nhà nước ta đã định hướng và giải pháp phát triển:
3.4/ Các quan điểm phát triển kiểm toán đến năm 2010:
1. Phát triển kiểm toán Nhà nước để thực sự trở thành một công cụ quan
trọng và đủ mạnh của Nhà nước để thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát
nghiêm ngặt tài chính Nhà nước và tài sản công. Đây là một đòi hỏi có
tính tất yếu và khách quan khi nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam sử
dụng một cách rộng rãi và có hiệu lực các công cụ quản lý và kiểm soát
vĩ mô đối với các hoạt động kinh tế tài chính trong nền kinh tế thị
trường.

×