Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Cảnh thiên nhiên và con người trong bài thơ Việt Bắc pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.98 KB, 30 trang )

Cảnh thiên nhiên và con người trong bài thơ Việt Bắc

Cuộc chia tay đầy lưu luyến nhờ thương giữa những

người cán bộ kháng chiến và nhân dân Việt Bắc được

nhà thơ Tố Hữu phản ánh trong bài thơ “Việt Bắc” như

cuộc chia tay của một đơi bạn tình. Ta và mình đã sống

với nhau mười lăm năm keo sơn gắn bó, giờ đây phải

chia tay để làm nhiệm vụ mới. Bài thơ được kết cấu theo

lối hát đối đáp dân tộc. Đoạn trích dưới đây là lời của


người cán bộ kháng chiến nói lên nỗi yêu thương nhớ của

mình đối với Việt Bắc, với thiên nhiên tươi đẹp và với con

người Việt Bắc tình nghĩa”

”..Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao ánh nắng dao gài thắt lưng



Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hịa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”


Mở đầu đoạn thơ, người cán bộ kháng chiến hỏi Việt Bắc

có nhớ “ta” khơng và diễn tả nỗi nhớ của mình với Việt

Bắc một cách khái quát:

“Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”

Điệp từ “Ta về” và “nhớ” tăng cường nhạc điệu êm ái hợp

với tình cảm thương nhớ và nhấn mạnh tình cảm tha thiết


giữa người đi kẻ ở. Trong nỗi nhớ của người ra về, ấn


tượng sâu đậm nhất là “hoa” và “người”. “Hoa” là biểu

tượng của thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp. Đặt “hoa” bên

cạnh “người” làm tôn lên niềm yêu mến trân trọng của

người đối với nhân dân các dân tộc Việt Bắc tình nghĩa.

Đoạn thơ cịn lại diễn tả nỗi nhớ dào dạt của người về

xuôi đối với Việt Bắc. Nỗi nhớ hiện lên trong từng thời

gian và không gian của Việt Bắc. Người ra về nhớ cả hình

ảnh bốn mùa của Việt Bắc. Cũng là cái cớ để nhà thơ

phác họa vẻ đẹp rực rỡ và thơ mộng của núi rừng và gợi


hình ảnh của nhân dân Việt Bắc ân tình thủy chung.

Đây là mùa đông với màu xanh tha thiết lại đột ngột bùng

lên màu “hoa chuối đỏ tươi” như ngọn lửa của rừng, ấm

áp tìn yêu:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi


Đèo cao ánh nắg dao gài thắt lưng”

Vẻ đẹp của màu sắc, của hoa lá, của ánh sáng, của


hương hoa hòa quyện với vẻ đẹp của con người.

Giữa “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi” đã nổi bật lên hình

ảnh người lao động miền núi:

“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Tố Hữu quan sát rất tinh. Người đi rừng bao giờ cũng có

một con dao trần dắt lưng lấp lánh ánh sáng mặt trời.

Hình ảnh “đèo cao ánh nắng”… ấy làm sao mà quên

được?


“Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Bức tranh mùa xuân lại được chuyển sang gam màu lạnh.

Ngày xuân rừng núi phủ một màu trắng tinh khiết của hoa


mơ. Động từ “nở” khiến cho màu sắc như đang vận động,

màu trắng càng có sức ám ảnh đối với người đọc. Dưới

ánh sáng của rừng mơ mùa xn, hình ảnh cơ gái lao

động Việt Bắc hiện lên thanh mảnh, dịu dàng:


“Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Mùa hè, âm thanh của tiếng ve là đặc trưng của rừng núi

Việt Bắc:

“Ve kêu rừng phách đổ vàng”

Tác giả đã sử dụng bút pháp ấn tượng . Tưởng chừng

như tiếng “ve kêu” đậm đặc, rung chuyển cả cây rừng

khiến cho lá “phách đổ vàng”, Ấn tượng ấy mang lại nét lạ


cho phong cách thơ Tố Hữu. Giữa cảnh rừng mua hè, bất

chợt gặp một cơ gái “hái măng một mình”, phong cảnh

thật là hữu tình.


Cảnh thu Việt Bắc lại được miêu tả về đêm với bầu trời

cao rộng và mảnh trăng thu thanh bình.

“Rừng thu trăng rọi hịa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”

Những đêm trăng thu nổi lên “tiếng hát ân tình thủy


chung” như tạc vào trong dạ của người ra đi. Trong trí nhớ

của họ, phong cảnh Việt Bắc đầy màu sắc như một cái

nền để làm nổi bật hình ảnh người Việt Bắc đảm

đang,tình nghĩa, thủy chung.

Như vậy là màu sắc, đường nét, âm thanh của rừng núi

Việt Bắc được miêu tả trong sự vận động của thời gian,

không gian. Mùa nào, cảnh rừng Việt Bắc cũng đẹp, cũng

nên thơ đáng yêu, đáng nhớ. Có thể coi đấy là bộ tranh tứ

bình đặc sắc của cảnh rừng Việt Bắc kháng chiến in đậm

trong tâm trí của người về.



Đây là đoạn thơ đặc sắc trong bài thờ “Việt Bắc” nổi tiếng

của Tố Hữu. Đoạn thơ đã diễn tả được tình cảm nhớ

thương Việt Bắc sâu nặng của người cán bộ kháng chiến

khi rời Việt Bắc để trở về thủ đô Hà Nội. Ngôn ngữ uyển

chuyển, ngọt ngào. Những từ “ta”, “mình” được nhà thơ

sử dụng có ý nghĩa mới. Những từ vón rất riêng được Tố

Hữu dùng với nghĩa chung, khiến cho cái chung có sứ

rung động lạ thường. Nhạc điệu của câu thơ lục bát êm

đềm có sức ngân vang trong lòng người đọc như một

khúc hát ru kỉ niệm. Điệp từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần


với nhiều cấp độ khác nhau tăng cường nhạc điệu du

dương của đoạn thơ và nhấn mạnh được nỗi lòng lưu

luyến của tác giả với chiến khu, với cảnh, với người Việt

Bắc. Đặc biệt hơn cả là trong tâm tưởng của người ra vè


in sâu hình ảnh sắc màu của bức tranh tứ bình tươi sáng

rực rỡ thơ mộng. Đoạn thơ đã diễn tả được một khía cạnh

sâu sắc của chủ đề bài thơ “Việt Bắc” là tình cảm thủy

chung – thủy chung với cách mạng.

Mình sẽ post cho bạn thêm một bài nữa để bạn có được

nhiều dẫn chứng cho bài văn của bạn thêm hay hơn.


Chúc bạn làm bài tốt!!!

Việt Bắc của Tố Hữu là một trường ca tuyệt đẹp về cuộc

kháng chiến vĩ đại của dân tộc chống thực dân Pháp. Bài

thơ đi vào lịng người bằng giọng điệu ân tình chung thuỷ

như ca dao, khắc hoạ sâu sắc nỗi niềm của những người

con rời “thủ đô kháng chiến”, thâm tâm đầy ắp kỷ niệm

nhớ thương.Trong tâm trạng kẻ ở - người đi, hình bóng

của núi rừng – con người Việt Bắc vẹn nguyên cùng ký


ức, với bao hình ảnh đơn sơ mà cảm động. Để hôm nay,


những câu thơ còn rung động lòng người với những sắc

màu, âm thanh tươi rói hơi thở của núi rừng chiến khu,

hơi ấm của tình người lan toả :

“ Ta về , mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Mùa xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợ giang

Ve kêu rùng phách đổ vàng


Nhớ cơ em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng dọi hịa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.


Bài thơ được Tố Hữu viết về buổi chia tay của cán bộ

kháng chiến với người dân Việt Bắc.Bằng tiếng nói ngọt

ngào tha thiết của khúc hát giao duyên trong ca dao, nhà

thơ đã ca ngợi tình cảm gắn bó thủy chung với cách

mạng, với đất nước , với nhân dân.Khổ thơ được phân

tích thuộc đoạn 2 của bài thơ.Đây được coi là 10 câu thơ

hay nhất diễn tả nỗi nhớ thiên nhiên và con người VB của


người ra đi.Qua nỗi nhớ ấy người đọc liên tưởng tới thiên

nhiên VB giống như 1 bức tranh tứ bình.

Hai câu thơ đầu tiên của khổ thơ đã thể hiện rõ tâm trạng

của người ra đi:

“ Ta về , mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”.

Hai câu thơ sử dụng từ “mình” và “ta” quen thuộc trong ca

dao, “ta” chỉ người ra đi và “mình “ chỉ người ở lại.Cụm từ


“ta về”, “nhớ” được nhắc đi nhắc lại tới 2 lần ,trong câu

thơ đầu tiên là người ra đi hỏi người ở lại,còn trong câu

thơ thứ 2 là để bày tỏ tâm trạng của người ra đi: nỗi nhớ


“hoa cùng người”. “Hoa” tượng trưng cho thiên nhiên VB,

“người” là để chỉ nhân dân VB.Nỗi nhớ hoa và người đan

xen hòa trộn trong tâm trạng của người ra đi.Trong 8 câu

thơ tiếp theo nỗi nhớ ấy lần lượt hiện lên với tất cả những

gì đẹp nhất,thơ mộng nhất.

Mở đầu cho bức tranh tứ bình là khung cảnh m

đơng,một mùa đông mang vẻ đẹp lạ lùng:

“ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.

Câu thơ tả những cánh rừng VB tràn ngập 1 màu xanh

của cây lá,màu xanh của sự sống.Giữa màu xanh bạt



ngàn bừng lên màu đỏ tươi của hoa chuối,màu đỏ tươi

sáng ấm áp như xua đi khơng khí lạnh lẽo.hoang sơ của

núi rừng .Hai màu xanh đỏ tương phản nhưng cùng tô

điểm cho bức tranh thiên nhiên thêm đẹp rực rỡ.Và giữa

khung cảnh rừng núi thơ mộng ấy bỗng hiện lên bóng

người trên đèo cao.Nhà thơ ko tả dáng người , ko tả

gương mặt mà tả tư thế con người trong công việc, một tư

thế khỏe khoắn của người làm chủ thiên nhiên.Trên trời

cao ánh nắng hắt xuống lưng người , chiếu vào con dao

làm ánh lên 1 màu sáng kì diệu.Cái nắng hiếm hoi của

mùa đơng đã tơ điểm cho bức tranh thiên nhiên thêm tươi


tắn, mang 1 vẻ đẹp riêng độc đáo.

Màu xanh vô tận của những cánh rừng bỗng thay đổi

thành 1 màu trắng của hoa mơ:


“Mùa xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợ giang”.

Hai câu thơ trên miêu tả mùa xuân của VB. “Ngày xuân” là

từ báo hiệu thời gian thay đổi,1 mùa đông qua đi 1 mùa

xuân mới đến.Rừng VB vào xuân trên khắp núi rừng

những bông hoa mơ thi nhau nở rộ khoa 1 màu trắng tinh

khiết.Nghệ thuật đảo ngữ trong câu thơ “trắng rừng” có

tác dụng nhấn mạnh rừng VB bạt ngàn 1 màu trắng.Màu


trắng tinh khiết của hoa mơ như lấn át tất cả màu xanh

của cây lá làm bừng sáng cả khu rừng .Câu thơ đem lại

cho người đọc 1 cảm nhận khơng khí xn lan tràn, khơng

gian núi rừng mênh mơng, thiên nhiên VB giàu sức

sống.Trong sắc x ân của thiên nhiên nhiên đất trời hiện

lên hình ảnh con người lao động làm việc chăm chỉ cần

cù, miệt mài “chuốt từng sợi giang”. “Chuốt” là 1 từ chỉ


động tác làm đi làm lại, người dân Việt Bắc tỉ mỉ cẩn thận

trong công vịêc bằng đôi bàn tay khéo léo tạo nên những

sản phẩm đẹp.

Thế rồi, khoảnh khắc nhàn hạ của mùa xuân cũng qua


mau, qua mau, con người tiếp tục sống cuộc sống của họ.

“Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Bức tranh gợi sự chú ý cho người đọc bằng thị giác, lẫn

thính giác. Đầu tiên, cái độc đáo ở đây chính là âm thanh,

âm thanh mùa hạ, tiếng “ve kêu”. Câu thơ tạo ra hình ảnh

nhân hóa. Con ve là lồi vật, vậy mà nó biết kêu, biết gọi,

nó xui khiến rừng phách đổ vàng ở đây, chúng ta nên

dành một ít thời gian để tìm hiểu cái rừng phách kì lạ này.

Rừng phách là những cây lạ ở miền Bắc. Nó khơng mọc


riêng rẽ mà mọc thành rừng, rất nhạy cảm với thời tiết.


Tiếng ve kêu râm ran đây đó đã báo hiệu mùa hạ, nhưng

lúc này đã là cuối hạ. Cái lạnh đang tràn ngập núi rừng, lá

cây bắt đầu chuyển sang màu vàng, cả rừng phách thay

áo mới, chiếc áo vàng óng ánh dưới ánh nắng mặt trời.

Cảnh thiên nhiên đẹp và rực rỡ thế lại càng lãng mạn hơn,

vì trong cánh rừng bạt ngàn ấy có thêm bóng dáng của

một sơn nữ ”hái măng một mình”. Đọc tới đây khiến ta liên

tưởng đên một hình ảnh tương tự trong thơ Nguyễn Bính,

một nhà thơ của đồng quê:

“Thơ thẩn đường chiều một khách thơ

Say nhìn ra rặng núi xanh lơ


Khí trời lặng lẽ và trong trẻo

Thấp thống rừng mơ cô hái mơ”


Đây là khổ thơ thứ nhất trong bài thơ”Cơ hái mơ”. Ta thấy

có sự giống nhau rất ngẫu nhiên: cũng là rừng núi và cô

gái đang làm việc. Chỉ có điều ở đây là “hái mơ” chớ

khơng phải “hái măng”.

Từ “hái” ở đây dường như không thể thay thế bằng một

động từ nào khác: bẻ, đốn… vì chỉ có nó mới phù hợp nét

dịu dàng, uyển chuyển, mềm mại của cô gái mà thôi. Ta

hãy thử tưởng tượng bức tranh mùa hạ như thế này đẹp

biết bao. Cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ như thế lại khảm


chạm thêm vào hình ảnh một người thiếu nữ nhẹ nhàng

làm việc. Quả thật bức tranh vừa đẹp vừa có thần nữ. Rõ

ràng thiên nhiên và con người đã hòa quyện vào nhau, tô

điểm cho nhau.

Cuối cùng đoạn thơ kết thúc bằng hình ảnh mùa thu cũng

khơng kém phần đẹp đẽ.


”Rừng thu trăng rọi hịa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Câu thơ đã xác định rõ, đây là mùa thu. Thiên nhiên mùa

thu được miêu tả bằng ánh trăng. Việc sử dụng hình ảnh

trăng thật ra cũng khơng có gì độc đáo và mới mẻ. Tuy


×