Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Triệu chứng học bệnh của hệ thống thân-tiết niệu – Phần 1 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.7 KB, 18 trang )

Triệu chứng học bệnh của hệ
thống thân-tiết niệu – Phần 1

1. Triệu chứng lâm sàng.
1.1. Triệu chứng cơ năng:
1.1.1. Đau:
Có thể gặp đau ở vùng thắt lưng, đau ở vùng niệu quản, đau ở vùng bàng quang.
1.1.1.1. Đau ở vùng thắt lưng:
* Cơn đau quặn thân:
+ Cơn đau quặn thân là cơn đau điển hình trong một số bệnh của thân và đường
niệu, cơn đau có đặc điểm:
. Khởi phát đau: thường xuất hiện sau vận động mạnh, sau chấn thương vùng thắt
lưng, tuy nhiên cũng có thể xuất hiện cả lúc nghỉ ngơi.
. Cường độ đau: đau thường dữ dội thành từng cơn, cơn có thể ngắn 20-30phút có
thể kéo dài nhiều giờ hoặc cả ngày. Không có tư thế giảm đau.
. Vị trí và hướng lan của đau: đau thường xuất phát ở vùng thắt lưng, lan ra phía
trước xuống vùng bàng quang, xuống bìu (ở nam) hoặc bộ phận sinh dục ngoài (ở
nữ). Thông thường chỉ đau một bên, trong cơn đau có thể có buồn nôn hoặc nôn.
ấn điểm sườn-thắt lưng và vỗ hố thắt lưng bệnh nhân rất đau.
. Diễn biến của cơn đau: cơn đau thường kết thúc từ từ, nhưng cũng có khi kết
thúc đột ngột. Sau cơn đau thường có đái ra máu đại thể hay vi thể, có thể có rối
loạn tiểu tiện như: đái khó, đái rắt, đái buốt. Cơn đau quặn thân thường hay tái
phát.
Trên đây là cơn đau điển hình, trong lâm sàng có những thể không điển hình, chỉ
đau thoáng qua hoặc ngược lại đau kéo rất dài từ một ngày đến 2-3 ngày.
+ Chẩn đoán cơn đau quặn thân dựa vào: đau đột ngột dữ dội vùng thắt lưng lan
xuống bìu và bộ phận sinh dục ngoài; đái ra máu đại thể hoặc vi thể; có các điểm
đau vùng thân và niệu quản; tiền sử có thể đã có những cơn đau quặn thân hoặc
đái ra sỏi.
+ Chẩn đoán phân biệt: chẩn đoán cơn đau quặn thân điển hình thường dễ nhưng
cũng cần chẩn đoán phân biệt với các trường hợp:


- ở bên phải hay nhầm với:
. Cơn đau quặn gan: đau ở vùng hạ sườn phải lan lên vai, sau cơn đau có sốt, vàng
da; khám vùng gan và túi mật đau, dấu hiệu Murphy (+).
. Đau ruột thừa: đau vùng hố chậu phải, có sốt, có bạch cầu trong máu tăng, ấn
điểm
Macburney đau.
- ở bên trái hay nhầm với:
. Cơn đau thắt ngực: cơn đau thắt ngực không điển hình không lan lên vai và cánh
tay mà lan xuống bụng; điện tim trong cơn có hình ảnh thiếu máu cơ tim; cho
ngậm nitroglyxerin thì cơn đau hết nhanh.
- Chung cho cả hai bên có thể nhầm với:
. Cơn đau do loét dạ dày, thủng dạ dày: đau ở vùng thượng vị không lan xuống
dưới, có thể lan ra sau lưng, ấn điểm thượng vị đau. Nếu thủng dạ dày thì có phản
ứng thành bụng, bụng cứng như gỗ, gõ vang vùng trước gan. Tiền sử có thể có hội
chứng loét dạ dày- hành tá tràng; chụp X quang ổ bụng thấy có liềm hơi.
. Viêm tuỵ chảy máu, hoại tử: đau rất dữ dội vùng thượng vị, buồn nôn, nôn; điểm
thượng vị và điểm sườn-cột sống đau; người bệnh trong tình trạng sốc: vã mồ hôi,
mặt tái, huyết áp hạ; nồng độ amylaza trong máu tăng rất cao.
. Tắc ruột: đau bụng, nôn, bí trung tiện, bí đại tiện, bụng chướng hơi, có triệu
chứng rắn bò, X quang có mức nước-mức hơi.

+ Cơ chế của cơn đau quặn thân: tắc đường dẫn nước tiểu đột ngột do sỏi di
chuyển, hoặc do sỏi kích thích gây co thắt niệu quản, làm ứ nước tiểu ở đài-bể
thân, gây tăng áp lực trong thân vì thân được bao bọc một vỏ xơ. Khi đường dẫn
nước tiểu lưu thông (chẳng hạn sỏi di chuyển làm nước tiểu có thể lọt qua được,
áp lực trong bể thân giảm xuống), cơn đau giảm hoặc hết.
+ Nguyên nhân: chẩn đoán nguyên nhân cơn đau quặn thân đôi khi khó, các
nguyên nhân thường gặp là:
. Sỏi thân và đường niệu: sỏi ở đài-bể thân ít khi gây cơn đau quặn thân; sỏi niệu
quản thường gây cơn đau quặn thân điển hình. Đây là nguyên nhân thường gặp

nhất của cơn đau quặn thân.
. Lao thân: có tới 20% trường hợp lao thân có cơn đau quặn thân do các mảnh tổ
chức, tổ chức bã đậu trôi theo dòng nước tiểu xuống gây tắc niệu quản. Cũng có
thể do lao niệu quản gây chít hẹp niệu quản,
. Các nguyên nhân gây hẹp niệu quản khác như: thân di động dễ dàng gây gập
niệu quản, u vùng bể thân-niệu quản, u trong ổ bụng đè ép vào niệu quản đều có
thể gây ra cơn đau quặn thân.
* Đau âm ỉ vùng hố thắt lưng:
Đau vùng hố thắt lưng âm ỉ, không thành cơn hoặc chỉ có cảm giác nặng tức vùng
hố thắt lưng. Loại đau này thường là đặc điểm của các bệnh thân hai bên như
viêm cầu thân cấp, viêm cầu thân mạn, hội chứng thân hư, viêm tấy tổ chức quanh
thân. Viêm thân-bể thân cấp hoặc đợt tiến triển của viêm thân-bể thân mạn
thường chỉ đau âm ỉ một bên, nhưng cũng có thể đau cả hai bên. Đau thường
không lan xuyên, chỉ khu trú tại chỗ.
Nếu viêm mủ quanh thân thì đau có thể kèm theo nóng, đỏ, phù nề vùng hố thắt
lưng.
1.1.1.2. Đau ở các điểm niệu quản:
Ngoài nguyên nhân do cơn đau quặn thân, đau ở các điểm niệu quản còn có thể
gặp khi có sỏi niệu quản, viêm niệu quản, lao niệu quản và thường liên quan với
các quá trình bệnh lý ở thân và bàng quang.

1.1.1.3. Đau ở vùng bàng quang:
Đau ở vùng bàng quang thường gặp do sỏi bàng quang, viêm bàng quang, lao
bàng quang, bệnh lý của tuyến tiền liệt. Đau ở vùng bàng quang thường kèm theo
các rối loạn bài niệu: đái rắt, đái buốt.
1.1.1.4. Đau do trào ngược nước tiểu bàng quang-niệu quản:
Đây là thể đau đặc biệt, thường gặp ở trẻ em do suy yếu cơ thắt chỗ niệu quản đổ
vào bàng quang, thường là bẩm sinh. Người bệnh thấy đau vùng hố thắt lưng một
hoặc hai bên khi rặn đái, đau mất đi khi đái xong.
Cơ chế của cơn đau này là do: khi rặn đái, áp lực trong bàng quang tăng lên do cơ

vòng chỗ niệu quản đổ vào bàng quang yếu, nên nước tiểu từ bàng quang trào
ngược lên niệu quản, làm tăng
áp lực bể thân gây nên đau. Đau thường nhẹ, âm ỉ, bệnh nhân chịu đựng được,
nhưng đôi khi đau nhiều làm bệnh nhân không dám rặn đái. Đái xong áp lực trong
bàng quang giảm xuống, nước tiểu từ niệu quản xuống bàng quang, bệnh nhân hết
đau.
Để xác định chẩn đoán, cho chụp X quang bàng quang sau khi bơm thuốc cản
quang vào bàng quang (150-200ml) ở các thời điểm trước, trong và sau khi rặn
đái. Kết quả sẽ cho thấy thuốc cản quang trào lên niệu quản khi rặn đái.
1.1.2. Rối loạn bài niệu:
+ Đái dắt:
Đái dắt là hiện tượng phải đi đái nhiều lần trong ngày, số lượng nước tiểu mỗi lần
ít chỉ vài mililít. Đái dắt có thể do bệnh lý ở bàng quang, tiền liệt tuyến, niệu đạo,
niệu quản hoặc ở thân gây kích thích mót đái; cũng có thể chỉ là hậu quả của các
bệnh lý của các cơ quan lân cận của cơ quan sinh dục nữ.
+ Đái buốt:
Đái buốt là hiện tượng khi đi đái tới cuối bãi, bệnh nhân thấy buốt ở vùng hạ vị
lan ra dương vật (ở nam) hoặc bộ phận sinh dục ngoài (ở nữ). Đái buốt thường đi
kèm với đái rắt. Nguyên nhân có thể do viêm bàng quang, lao bàng quang, viêm
niệu đạo do vi khuẩn hoặc do lậu, sỏi bàng quang.
+ Đái khó:
Đái khó là hiện tượng phải rặn mới đái được, nước tiểu chảy chậm không thành
tia, có khi đái ngắt quãng. Đái khó chứng tỏ có cản trở ở vùng cổ bàng quang như:
u vùng cổ bàng quang, u tuyến tiền liệt; hoặc cản trở ở niệu đạo như: sỏi niệu đạo,
chít hẹp niệu đạo do viêm, do chấn thương.
+ Bí đái:
Bí đái là trường hợp không đái được trong khi nước tiểu vẫn được bài tiết từ thân
xuống và bị ứ lại ở bàng quang. Phải chú ý phân biệt với vô niệu: vô niệu là
không có nước tiểu từ thân xuống bàng quang, không có nước tiểu trong bàng
quang nên không có cầu bàng quang và thông đái không

có nước tiểu; còn bí đái là nước tiểu bị ứ ở bàng quang nên có cầu bàng quang,
thông đái có nhiều nước tiểu và cầu bàng quang xẹp xuống.
+ Đái không tự chủ:
Đái không tự chủ là hiện tượng nước tiểu tự động chảy ra, ngoài ý muốn của bệnh
nhân. Đái không tự chủ có thể do nguyên nhân tại bàng quang hay niệu đạo (như
chấn thương vùng bàng quang hay niệu đạo); có thể do nguyên nhân từ tuỷ sống
(như chấn thương hoặc vết thương gây tổn thương các đốt tuỷ cùng); cũng có thể
do bệnh nhân bị bí đái kéo dài làm thành bàng quang không còn khả năng co dãn,
bàng quang trở thành một “bình” chứa nước tiểu trong khi nước tiểu tiếp tục
được bài tiết từ thân xuống, do đó nước tiểu từ bàng quang chảy ra theo niệu đạo
từng giọt và luôn có cầu bàng quang.
+ Đái đêm:
Đái đêm được coi là bệnh lý khi bệnh nhân phải đi đái nhiều lần trong đêm và kéo
dài nhiều tháng. Đái đêm là biểu hiện của giảm khả năng cô đặc nước tiểu của
thân. Khi làm nghiệm pháp Zimniski thấy số lượng nước tiểu ban đêm nhiều hơn
ban ngày.
Đái đêm thường gặp trong các bệnh gây giảm khả năng cô đặc nước tiểu của thân
(như viêm thân-bể thân mạn, viêm thân kẽ mạn do thuốc, suy thân mạn ), hoặc ở
người già do khả năng cô
đặc nước tiểu của thân bị suy giảm.
1.2. Triệu chứng thực thể:
1.2.1. Phù do thân:
Phù là triệu chứng sớm và thường gặp của các bệnh cầu thân. Phù do thân có đặc
điểm là xuất hiện đầu tiên ở mi mắt (vì mi mắt có nhiều tổ chức lỏng lẻo, áp lực
trong tổ chức thấp), mặt rồi mới phù toàn thân. Phù nặng hơn vào buổi sáng, phù
trắng, mềm, ấn lõm, tăng lên khi ăn mặn và giảm khi ăn nhạt.
Tuỳ theo từng bệnh thân, phù có thể có những biểu hiện khác nhau. Viêm cầu thân
cấp hoặc mạn thì phù thường ở mức độ trung bình. Trong hội chứng thân hư thì
phù tiến triển nhanh và nặng, có thể có tràn dịch màng bụng, màng phổi, màng
tinh hoàn, màng tim. Bệnh của ống-kẽ thân thường không có phù, phù chỉ xuất

hiện khi có suy thân nặng hoặc suy tim do tăng huyết áp.
1.2.2. Thân to:
+ Chẩn đoán thân to khi có khối u ở vùng thân, dấu hiệu chạm thắt lưng dương
tính, bập bềnh thân dương tính. Thân to thường kèm theo các triệu chứng khác
như: đái ra máu, đái ra mủ, đau vùng hố thắt lưng.
+ Để chẩn đoán xác định thân to cần làm các xét nghiệm cận lâm sàng như: siêu
âm thân, chụp bơm hơi sau phúc mạc, chụp thân có tiêm thuốc cản quang vào tĩnh
mạch (UIV), chụp bể thân có bơm thuốc cản quang ngược dòng, chụp CT-
scanner, chụp MRI.
+ Nguyên nhân thân to có thể do:
- ứ nước, ứ mủ bể thân: nguyên nhân của ứ nước, ứ mủ bể thân có thể do sỏi đài-
bể thân, sỏi niệu quản, khối u của niệu quản hay u trong ổ bụng đè ép vào niệu
quản, lao bể thân-niệu quản gây chít hẹp niệu quản.
- Thân nang: có thể nang đơn một bên hoặc cả hai bên, có thể thân đa nang, bệnh
nang tuỷ thân Sờ thấy bề mặt thân lổn nhổn không đều. Siêu âm là phương pháp
rất có giá trị để chẩn đoán các bệnh thân có nang.
- Ung thư thân: thường gặp ở người già; thân to, cứng, thường kèm theo đái ra
máu.

1.2.3. Thay đổi số lượng nước tiểu:
ở người lớn bình thường, khi uống lượng nước trung bình theo nhu cầu của cơ thể
thì số lượng nước tiểu trung bình một ngày khoảng 800-1800ml. Thay đổi số
lượng nước tiểu tuỳ theo mức độ như sau:
+ Vô niệu:
- Khi số lượng nước tiểu < 100ml/24giờ thì được gọi là vô niệu. Chỉ có vô niệu
bệnh lý, không có vô niệu sinh lý. Vô niệu là trạng thái bệnh lý rất nặng, gây ra
nhiều rối loạn nội môi và đe doạ tính mạng bệnh nhân.
- Nguyên nhân: có thể gặp vô niệu do suy thân cấp, đợt tiến triển của suy thân
mạn, giai đoạn cuối của suy thân mạn.
+ Đái ít (thiểu niệu):

Khi số lượng nước tiểu từ 100 đến < 500ml/24giờ thì được gọi là đái ít. Đái ít có
thể do sinh lý hay do các bệnh lý ngoài thân hoặc các bệnh lý của thân. Người ta
chia đái ít ra làm hai loại:
- Đái ít, nước tiểu có nồng độ các chất hoà tan cao: nước tiểu thường xẫm màu; tỉ
trọng nước tiểu cao trên 1,020; độ thẩm thấu nước tiểu cao trên 600mOsm/kg
H2O; nồng độ urê trong nước tiểu cao. Nguyên nhân thường do uống ít nước, do
tình trạng mất nước của cơ thể, do suy thân chức năng
- Đái ít, nước tiểu có nồng độ các chất hoà tan thấp: nước tiểu thường nhạt màu; tỉ
trọng nước tiểu thấp; độ thẩm thấu nước tiểu thấp; nồng độ urê trong nước tiểu
thấp. Nguyên nhân thường do suy thân cấp thực thể hay suy thân mạn.
+ Đái nhiều (đa niệu):
Khi lượng nước tiểu lớn hơn 2000ml/24giờ thì được gọi là đái nhiều.
Nguyên nhân của đái nhiều thường là do uống quá nhiều nước; giai đoạn hồi phục
của một số bệnh nhiễm trùng (như viêm gan virut cấp); là triệu chứng của một số
bệnh nội tiết (như đái tháo nhạt, đái tháo đường); do một số bệnh thân có giảm
khả năng cô đặc nước tiểu của thân (như: giai
đoạn đái trở lại của suy thân cấp), các bệnh của ống-kẽ thân (như viêm thân-bể
thân mạn); một số bệnh nhân suy thân mạn
1.2.4. Thay đổi màu sắc nước tiểu:
1.2.4.1. Nước tiểu màu đỏ đến nâu thẫm:
* Đái ra máu đại thể:
- Đái ra máu đại thể là đái ra máu với số lượng nhiều, đủ để làm thay đổi màu sắc
nước tiểu. Nước tiểu có màu hồng cho đến màu đỏ, khi để lâu thì hồng cầu sẽ lắng
xuống dưới. Lượng máu tối thiểu bắt đầu làm thay đổi màu sắc nước tiểu vào
khoảng 1ml máu cho 1lít nước tiểu.
+ Để chẩn đoán vị trí chảy máu có thể nhận định sơ bộ bằng nghiệm pháp 3 cốc.
Cách làm nghiệm pháp 3 cốc như sau: cho bệnh nhân đái một bãi chia làm 3 phần
tương đối bằng nhau, lần lượt vào 3 cốc thuỷ tinh. Nếu lượng máu nhiều nhất ở
cốc đầu tiên thì thường là chảy máu ở niệu đạo. Lượng máu nhiều nhất ở cốc thứ 3
thì thường là chảy máu ở bàng quang. Lượng máu tương đương nhau ở cả 3 cốc

thì thường chảy máu từ thân hoặc niệu quản. Tuy nhiên, nghiệm pháp này chỉ có
tính chất tương đối, vì nếu chảy máu nhiều ở bàng quang hay niệu đạo đều có thể
gây đái ra máu toàn bãi, cả 3 cốc có màu đỏ tương đương nhau.
+ Muốn xác định chính xác vị trí chảy máu, có thể soi bàng quang trong thời gian
bệnh nhân
đái ra máu. Khi soi bàng quang có thể thấy máu đang chảy từ thành bàng quang,
hoặc thấy dòng nước tiểu có màu đỏ phụt từng đợt từ lỗ niệu quản xuống bàng
quang theo nhịp co bóp của niệu quản.
+ Nguyên nhân đái ra máu có thể do các bệnh của thân (như viêm cầu thân cấp,
bệnh thân IgA, ung thư thân, chấn thương thân); có thể do bệnh của đường niệu
(như sỏi đài bể thân, sỏi niệu quản, sỏi bàng quang, viêm bàng quang, ung thư
bàng quang ); có thể do các bệnh toàn thân (như bệnh của hệ thống tạo máu, do
rối loạn quá trình đông máu). Có thể gặp (khoảng 1% số bệnh nhân) đái ra máu
không xác định được nguyên nhân.
* Cần phải chẩn đoán phân biệt đái ra máu với đái ra hemoglobin, đái ra
myoglobin và đái ra porphyrin.
+ Đái ra hemoglobin:
- Đái ra hemoglobin còn gọi là đái ra huyết cầu tố. Nước tiểu có màu đỏ hoặc xẫm
đen, khi để lâu hoặc ly tâm không có lắng cặn hồng cầu. Soi dưới kính hiển vi
không có hồng cầu trong nước tiểu.
- Đái ra hemoglobin không phải do bệnh lý tại thân mà do tan máu. Bình thường
chỉ có 1-4mg
hemoglobin/100ml huyết thanh, trong nước tiểu không có hemoglobin. Khi có
tan máu cấp, hemoglobin từ hồng cầu giải phóng vào huyết tương với số lượng
lớn, gan không chuyển hoá kịp thành bilirubin, nó được đào thải nguyên dạng ra
nước tiểu.
- Nguyên nhân đái ra hemoglobin:
. Sốt rét ác tính đái ra huyết cầu tố (thường do Plasmodium falciparum).
. Nhiễm khuẩn (thường do Clostridium perfringens).
. Nhiễm độc hoá chất (như asenic), nọc độc các loại rắn, một số thuốc (như

amphotericin ).
. Truyền nhầm nhóm máu gây tan máu cấp.
. Đái ra hemoglobin kịch phát do lạnh (hiếm gặp): sau nhiễm lạnh, bệnh nhân thấy
rét run,
đau bụng, đau vùng thắt lưng, đau các bắp cơ và đái ra hemoglobin.
. Đái ra hemoglobin kịch phát ban đêm: gặp ở bệnh nhân có hội chứng
Marchiafara-Micheli với biểu hiện từng đợt đái ra hemoglobin kịch phát ban đêm,
thường gặp ở tuổi 30-40.
. Đái ra hemoglobin do vận động: vận động bất thường kéo dài như chạy xa ở
người chưa quen luyện tập. Sau luyện tập thấy đái ra hemoglobin; hồng cầu trong
máu có hình thể bình thường.
. Đái ra hemoglobin do thuốc có thể gặp ở người thiếu men G6PD.
+ Đái ra myoglobin:
Giống như đái ra hemoglobin, nước tiểu có màu đỏ hoặc xẫm đen, khi để lâu hoặc
ly tâm không có lắng cặn hồng cầu. Soi dưới kính hiển vi không có hồng cầu trong
nước tiểu.
Myoglobin là sản phẩm thoái biến của cơ. Đái ra myoglobin xảy ra khi dập nát cơ
nhiều (như trong hội chứng vùi lấp). Đái ra myoglobin nguyên phát, bẩm sinh đôi
khi có tính chất gia đình. Bệnh nhân thấy đau cơ, có protein niệu ít, có hồng cầu
niệu, có myoglobin niệu, có thể có vô niệu.
+ Đái ra porphyrin:
- Lúc đầu nước tiểu có màu đỏ xẫm giống như đái ra máu, nhưng sau vài giờ nước
tiểu xẫm lại do bị oxy hoá. Khi để lâu hoặc quay ly tâm, không thấy có lắng cặn
hồng cầu. Xét nghiệm nước tiểu có porphyrin.
- Porphyrin được tạo ra trong cơ thể chủ yếu do tổng hợp từ glucocol và axít
sucinic, một phần
được tạo ra do phân huỷ hemoglobin và myoglobin. Porphyrin được đào thải qua
nước tiểu dưới dạng porphyrinogen, sau đó bị ôxy hoá để tạo thành porphyrin.
Bình thường ở người lớn mỗi ngày
đào thải khoảng 75 mg porphyrin, với số lượng này không đủ làm thay đổi màu

sắc nước tiểu.
- Chứng porphyrin niệu có những đợt cấp tính trở thành một cấp cứu, vì có thể gây
tử vong do liệt hô hấp. Biểu hiện lâm sàng là có cơn đau bụng cấp, liệt vận động,
đôi khi có cả liệt hô hấp xuất hiện sau cơn đau bụng vài ba ngày. Chứng porphyrin
niệu là biểu hiện của một số bệnh gia truyền về rối loạn chuyển hoá làm sản xuất
ra nhiều porphyrin và các chất tiền thân của porphyrin trong cơ
thể.
- Cơ chế bệnh là do thiếu một trong các enzym (có khoảng 8 enzym) tham gia vào
tổng hợp Hem trong quá trình tạo hồng cầu. Thiếu một trong các enzym này sẽ
gây ra một trong 3 chứng porphyrin sau: chứng porphyrin gan, chứng porphyrin
do rối loạn tạo hồng cầu, chứng porphyrin phối hợp.
1.2.4.2. Nước tiểu có màu đục:
+ Đái ra mủ:
- Nếu mủ nhiều có thể nhận thấy bằng mắt thường, nước tiểu có màu đục bẩn, có
nhiều sợi mủ,
để lâu mủ lắng xuống thành một lớp ở dưới. Nếu mủ ít thì nước tiểu đục trắng, có
các dây mủ lởn vởn. Xét nghiệm nước tiểu thấy có nhiều tế bào mủ là các bạch
cầu đa nhân thoái hoá.
- Để phân biệt với đái đục do cặn phosphat, cho vào nước tiểu vài giọt axít acetic
hoặc đem đun sôi nước tiểu. Nếu đái ra mủ thì nước tiểu vẫn giữ nguyên màu đục,
nếu đái ra cặn phosphat thì cặn phosphat tan và nước tiểu trở nên trong.
- Nguyên nhân: do nhiễm khuẩn thân hoặc đường niệu, có thể chia thành hai
nhóm:
. Nhiễm khuẩn thân và bể thân: viêm mủ bể thân, lao thân, thân đa nang bị bội
nhiễm, ung thư thân bị bội nhiễm.
. Nhiễm khuẩn đường niệu: viêm niệu đạo do lậu hoặc do các vi khuẩn khác, viêm
hoặc áp xe tiền liệt tuyến, viêm bàng quang.
Nếu số lượng mủ trong nước tiểu ít thì không làm đục được nước tiểu, chỉ phát
hiện được khi soi dưới kính hiển vi gọi là đái ra mủ vi thể. Để phát hiện đái ra mủ
vi thể, tốt nhất là làm xét nghiệm căn Addis.

+ Đái ra phosphat:
- Nước tiểu đục, nếu để lâu thì cặn phosphat lắng xuống. Nhỏ vài giọt axít acetic
vào thì nước tiểu trở nên trong. Nếu nước tiểu vẫn đục thì có thể là đái ra mủ, đái
ra dưỡng chấp hoặc các muối khác (như oxalat hay urat). Xét nghiệm nước tiểu
thấy có nhiều cặn phosphat.
- Nguyên nhân: sốt cao kéo dài, sau các căng thẳng về thần kinh, sau động kinh,
suy nhược thần
kinh. Nếu đái ra phosphat kéo dài thường do rối loạn chuyển hoá.
- Bình thường cơ thể bài tiết khoảng 30mg phosphat/1lít nước tiểu, nếu trên
50mg/lít nước tiểu là có đái ra phosphat. Nếu đái ra phosphat kéo dài có thể dẫn
đến sỏi đường niệu.
+ Đái ra dưỡng chấp:
- Nước tiểu đục như sữa hoặc như nước vo gạo, nếu kèm theo đái ra máu thì nước
tiểu có màu chocolat. Khi để lâu thì nước tiểu sẽ tạo thành 3 lớp: lớp trên đông
như thạch, lớp giữa có màu trắng sữa, lớp cuối là cặn (gồm những hạt mỡ, tế bào
biểu mô, bạch cầu). Khi nhỏ ether vào thì dưỡng chấp tan làm nước tiểu trong lại.
Xét nghiệm sinh hoá thấy có nhiều lipit, một phần protein và fibrin.
- Nước tiểu bình thường không có dưỡng chấp, chỉ đái ra dưỡng chấp khi có một
lỗ dò từ bạch mạch vào đường niệu, thường là vào vùng đài-bể thân, ít khi ở niệu
quản hay bàng quang. Có thể thấy được đường thông giữa bạch mạch với đường
niệu bằng cách chụp X quang hệ bạch mạch, hoặc chụp bể thân có bơm thuốc cản
quang ngược dòng.
- Nguyên nhân: có thể do giun chỉ W. bancrofti, nhưng thực tế hiếm khi tìm thấy
ấu trùng giun chỉ ở người đái ra dưỡng chấp. Có thể do giun đũa, sán
Echinococcose, do viêm nhiễm, do khối u gây chèn ép làm tăng áp lực hệ bạch
mạch, do chấn thương.
- Đái ra dưỡng chấp có thể xuất hiện sau một gắng sức mạnh, nhưng cũng có thể
tự phát không liên quan với vận động. Sau khi ăn vài giờ, nhất là các bữa ăn có
nhiều mỡ sẽ thấy nước tiểu đục tăng lên do lượng dưỡng chấp trong nước tiểu
tăng.

- Đái ra dưỡng chấp nói chung là lành tính, ít ảnh hưởng đến sức khoẻ. Bệnh có
thể kéo dài vài tháng rồi tự mất đi một cách đột ngột.
2. Các xét nghiệm cận lâm sàng chẩn đoán bệnh của hệ thống thân-tiết niệu.
Biểu hiện lâm sàng của nhiều bệnh thuộc hệ thống thân-tiết niệu thường nghèo
nàn và không
đặc hiệu. Các xét nghiệm cận lâm sàng giúp ích rất nhiều cho chẩn đoán, trong
nhiều trường hợp các xét nghiệm có giá trị chẩn đoán xác định. Các xét nghiệm
chẩn đoán các bệnh thuộc hệ thống thân- tiết niệu có rất nhiều. Trong phạm vi bài
này chúng tôi chỉ trình bày các xét nghiêm thông thường
được sử dụng trong lâm sàng.

×