Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Đề tài " Mâu thuẩn biện chứng với việc tìm hiểu những cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO” potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.13 KB, 28 trang )

LÊ HOÀNG ANH - CH16J
Đề tài
" Mâu thuẩn biện chứng với việc tìm
hiểu những cơ hội và thách thức khi
Việt Nam gia nhập WTO”
1
1
LÊ HOÀNG ANH - CH16J
MỤCLỤC
Lời mởđầu
Chương I :Cơ sở lý luận
1. Lý luận triết học
2. Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan của các nước trong
giai đoạn hiện nay
Chương II :Cơ sở thực tế :
1. Tình hình quốc tế và khu vực làm nảy sinh và phát triển quá trình hội
nhập.
2. Hội nhập kinh tế với các nước đang phát triển
3. Sự hình thành tất yếu của chủ trương hội nhập kinh tế quốc tếở nước ta
4. Nhận định về những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trên con
đường hội nhập kinh tế quốc tế.
4.1. Những cơ hội mà Việt Nam cóđược khi tham gia hội nhập kinh tế
quốc tế
4.2. Những thách thức mà chúng ta gặp phải trên con đường hội nhập
5. Những quan điểm chỉđạo trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tếở nước
ta
Các kiến nghịđề xuất trên phương diện triết học để hạn chế các nhược điểm và
phát huy những mặt tích cực của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tếở nước ta
kết luận
Tài liệu tham khảo
Mục lục


2
2
LÊ HOÀNG ANH - CH16J
LỜIMỞĐẦU
Năm 2006 đối với Việt Nam là năm hội tụ nhiều sự kiện lịch sửđánh
dấu những điểm mốc quan trọng về hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế , là
năm chúng ta phải hoàn thành việc cắt giảm thuế quan để thực hiện khu vức
mậu dịch của ASEAN , năm đăng cai diễn đàn tổ chức APEC 14 với tiêu đè
hướng tới một cộng đồng năng động với sự phát triển và thịnh vượng . Năm
nước ta được gia nhập vào tổ chúc thương mại thế giới ,hoàn thành một số
cam kết trong hiệp định thương mại song phương Viêt Nam – Hoa Kỳ,thúc
đẩy mạnh mẽ các hiệp định hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN vói các đối tác
Trung Quốc,Nhật Bản,Hàn Quốc,ấn độ,úc và New_Zealand,đặc biệt hiệp định
CA-FTA.
Từ nhũng năm đầu của thập kỷ 90, Việt Nam đã nhận thức và chủđộng
tựđổi mới nền kinh tế và bắt đầu chuyển hướng tư duy sang hội nhập kinh tế
khu vực và quốc tế .Hành động đầu tiên đó là Việt Nam ký hiệp định với liên
minh châu âu (EU) vào năm 1992.Điểm mốc hội nhập khu vực cóý nghĩa lớn
đó là tham gia vào hiệp hội các quốc gia Đông nam á và thực hiện khu vực
mậu dịch tự do AFTA của khu vực năm 1996.Tiếp đến trở thành viên của khối
hợp tác kinh tế Châu á-Thái bình dương APEC năm 1998.Đến năm 2000 Việt
Nam đã ký hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ. Với việc gia nhập
PECC (01/1995), ASEAN (07/1995), ký kết hiệp định chung về hợp tác kinh
tế với EU (7/1995), tham gia APEC (11/1998), vàđang chuẩn bị tích cực cho
các cuộc đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Việt Nam
từng bước vững chắc hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Ngày 27/11/2001, Bộ Chính trịđã ra Nghị Quyết về hội nhập kinh tế quốc tế
nhằm cụ thể hoá một chủ trương lớn được nêu ra tại Đại hội lần thứ IX của
3
3

LÊ HOÀNG ANH - CH16J
Đảng là: “Chủđộng hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát
huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ
vàđịnh hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững bản sắc văn
hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”.
Trong 5 năm lại đây ASEAN trong đó có Việt Nam đã thúc đẩy đàm
phán ký kết các hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện với năm đối tác
lớn là Nhật Bản,Trung Quốc,Hàn Quốc,úc,ấn Độ .Việt Nam cũng đã làm đơn
xin gia nhập WTO từ năm 1995, vàđã trải qua nhiều phương đàm phán song
phương với các đối tác thương mại vàđàm phán đa phương , làm việc với đoàn
công tác về Việt Nam gia nhập WTO.Đến ngày 7/11/2206 đánh dấu mốc lịch
sử là Việt Nam đã chính thúc gia nhập WTO.
Trước bối cảnh toàn cầu như vậy, công cuộc phát triển kinh tế của nước
ta không thểđứng ngoài xu thế toàn cầu hoá. Nhận thấy được tình hình kinh tế
của đất nước đang gặp khó khăn, tháng 12/1986 Đảng và Nhà nước quyết định
chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong chiến lược phát triển kinh tế, vấn đề
hội nhập nền kinh tế thế giới, tăng cường hợp tác kinh tế các nước và các tổ
chức quốc tếđang là vấn đềđược quan tâm. Với phương châm “đa dạng hoá,
đa phương hoá quan hệ” và “là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Việt Nam đã thiết lập quan
hệ ngoại giao với hơn 160 nước và hầu hết các tổ chức quốc tế và khu vực
quan trọng. Những vấn đề nêu trên là những vấn đề mà em rất tâm huyết, rất
quan tâm vàđó cũng là lí do, là sự thôi thúc em chọn đề tài: “Mâu thuẩn biện
chứng với việc tìm hiểu những cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập
WTO”.
4
4
LÊ HOÀNG ANH - CH16J
Và em hi vọng đề tài này sẽ giải đáp được phần nào thắc mắc về vấn đề

hội nhập và toàn cầu hoáở nước ta hiện nay.
5
5
LÊ HOÀNG ANH - CH16J
PHẦN 1
CƠSỞCỦAĐỀTÀI
I. CHƯƠNG I: CƠSỞLÝLUẬN
1. Lý luận triết học
Phép biện chứng đã khẳng định: các sự vật, các hiện tượng, các quá
trình khác nhau của thế giới có mối liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn
nhau, và cũng đồng thời khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ
sở của các mối liên hệđó.
Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới, dù cóđa dạng, phong phú, có
khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một
thế giới duy nhất, thống nhất – thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó,
chúng không thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà tồn tại trong sự tác động
qua lại, chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ
sởđó, triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng, mối liên hệ là phạm trù
triết học dùng để chỉ sự quy định, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật,
hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế
giới. Do đó mọi mối liên hệđều mang tính khách quan, là vốn có của mọi sự
vật, hiện tượng.
Mối liên hệ không chỉ mang tính khách quan, mà còn mang tính phổ
biến. Bởi lẽ, bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tượng
khác. Không có sự vật hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Trong thời đại
ngày nay không một quốc gia nào không có quan hệ, không có liên hệ với các
quốc gia khác về mọi mặt của đời sống xã hội. Chính vì thế mà hiện nay trên
thế giới đã vàđang xuất hiện xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá mọi mặt của
đời sống xã hội. Nhiều vấn đềđã vàđang trở thành vấn đề toàn cầu như : đói
nghèo, bệnh hiểm nghèo, môi trường sinh thái, dân số và kế hoạch hoá gia

đình, chiến tranh và hoà bình…Ngoài ra, mối liên hệđược biểu hiện dưới
6
6
LÊ HOÀNG ANH - CH16J
những hình thức riêng biệt, cụ thể theo điều kiện nhất định Song, dù dưới hình
thức nào, chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung
nhất.
Mặt khác, mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự
tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hoặc giữa
các mặt của sự vật hiện tượng, mà sự vật hiện tượng luôn tồn tại và vận động
không ngừng theo nhiều cách thức khác nhau. Do đó mà mối liên hệ còn mang
tính đa dạng. Và trong mỗi sự vật hiện tượng có thể bao gồm rất nhiều loại
mối liên hệ, chứ không phải chỉ có một cặp mối liên hệ xác định.
2 Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan của các
nước trong giai đoạn hiện nay
“Toàn cầu hoá” là một xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại,
mà trước hết là tiến trình hội nhập kinh tế quốc tếđang diễn ra sôi động. Cách
đây hơn 150 năm, Các Mác đã dự báo xu hướng này và ngày nay đã trở thành
hiện thực. Theo ông, toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế mới của quá trình phát
triển kinh tế thị trường, phản ánh trình độ phát triển cao của lực lượng sản
xuất xã hội màởđó, phân công lao động quốc tế và quốc tế hoá sản xuất trở
thành phổ biến.
Trong lịch sử, trước khi phương thức sản xuất TBCN ra đời, do trình độ
lực lượng sản xuất thấp kém, giao thông chưa phát triển, việc sản xuất và trao
đổi hàng hoá còn bị giới hạn trong các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ, năng suất
thấp nên chưa có thị trường thế giới theo nghĩa hiện đại. Từ khi phương thức
sản xuất TBCN ra đời, đặc biệt là từ khi diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp,
đời sống kinh tế các nước có sự thay đổi căn bản. Tình trạng tự cấp, tự túc và
bế quan toả cảng của các địa phương, các dân tộc trước kia được thay thế bằng
sự sản xuất và tiêu dùng mang tính quốc tế. Tuy nhiên, cho đến trước Thế

chiến thứ 2, hình thức quốc tế hóa chủ yếu vẫn là phân công áp đặt trực tiếp,
7
7
LÊ HOÀNG ANH - CH16J
tức là các nước phát triển áp dụng chiến tranh xâm lược và bạo lực để thống
trị các nước lạc hậu, bóc lột, vơ vét tài nguyên và tiêu thụ hàng hoá. Trong đó,
mỗi nước đế quốc có một hệ thống thuộc địa riêng, phân công lao động và
quốc tế hoá còn mang tính chất cát cứ, làm cho các nước lạc hậu không thoát
khỏi tình trạng khó khăn trì trệ.
Như vậy, toàn cầu hóa kinh tế là kết quả tất yếu của quá trình xã hội hoá
sản xuất, của tốc độ phát triển nhanh của lực lượng sản xuất, bắt nguồn từ sự
thúc đẩy của khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, nó là kết quả tất yếu
của sự phát triển sâu rộng nền kinh tế thị trường trên phạm vi toàn thế giới, sự
gia tăng phân công lao động quốc tế, sự mở rộng hơn nữa trong không gian và
thời gian các mối quan hệ giao lưu phổ biến của loài người và sự hiện diện
nóng bỏng của những vấn đề toàn cầu cấp bách. Nói cách khác, nó là kết quả
của các quá trình tích luỹ về số lượng đã tạo ra một khối lượng tới hạn để số
lượng biến thành chất mới; xu hướng quốc tế hóa, khu vực hoáđã chuyển thành
xu hướng toàn cầu hoá trong thời đại ngày nay. Nó là một trong những xu thế
lịch sử tất yếu do quy luật phát triển của lực lượng sản xuất chi phối.
Và trong đóđặc trưng nổi bật của toàn cầu hoá kinh tế là nền kinh tế thế
giới tồn tại và phát triển như một chỉnh thế, trong đó mỗi quốc gia là một bộ
phận, có quan hệ tương tác lẫn nhau, phát triển với nhiều hình thức phong
phú. Tham gia toàn cầu hoá kinh tế, các quốc gia vẫn hoàn toàn độc lập về
chính trị, xã hội, vẫn là các chủ thế tự quyết định ý thức hệ, vận mệnh và con
đường phát triển của mình. Toàn cầu hoá kinh tế làm cho các quốc gia ngày
càng phụ thuộc vào nhau về vốn, kỹ thuật, công nghệ, nguyên liệu và thị
trường. Đến nay toàn cầu hoá kinh tếđã cuốn hút nhiều quốc gia ở khắp các
châu lục, đã có 27 tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu ra đời và hoạt động
[ Thẩm Kỳ Như – Trung Quốc không làm bất tiên sinh…Viện TTKH, Học

viện CTQG HCM, H1999, tr358-359 ] Đây là sự phát triển mới chưa từng có.
8
8
LÊ HOÀNG ANH - CH16J
Lịch sửđã chứng tỏ không một quốc gia nào, dù lớn và giàu đến đâu, cũng
không thể sản xuất được tất cả các sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế. Chúng ta
không quên 100 năm về trước Trung Quốc đóng cửa nền kinh tếđể rồi phải
chịu sự thụt lùi về mọi mặt. Thành tựu cóđược như ngày nay là nhờ vào mở
cửa kinh tế.Như vậy rõ ràng xu thế này là xu thế phát triển tất yếu của thời đại
không thể khác được. Chỉ có những quốc gia nào nắm bắt nhịp xu thế này, biết
tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức mới đứng vững và phát triển. Cự tuyệt
hay khước từ toàn cầu hoá kinh tế tức là tự gạt mình ra ngoài lề của sự phát
triển.
II. CHƯƠNG II: CƠSỞTHỰCTẾ :
1 Tình hình quốc tế và khu vực làm nảy sinh và phát triển quá trình
hội nhập.
Đại hội VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ “mở rộng quan hệ kinh
tếđối ngoại, chủđộng tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và
nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế”. Đại hội lần thứ IX khẳng định
chủ trương “phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài
và chủđộng hội nhập kinh tế quốc tếđể phát triển nhanh, có hiệu quả và bền
vững”.[Trích văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX – trang 89] Chủ
trương hội nhập kinh tế quốc tếđược đề ra trong bối cảnh tình hình thế giới và
khu vực diễn ra nhanh chóng, phức tạp, khó lường trước được, với những đặc
điểm sau:
Trong hơn thập kỉ qua, kinh tế thế giới nhìn chung phát triển không
đồng đều. Trên thế giới đã xảy ra mấy cuộc khủng hoảng lớn, sâu rộng hơn cả
là cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính nổ ra năm 1997. Vị thế các nước và
các khu vực thay đổi theo hướng: kinh tế Mỹ phát triển nhanh vàổn định liên
tục trong nhiều năm vàđến 2002 bắt đầu suy giảm; kinh tế Tây Âu hiện không

9
9
LÊ HOÀNG ANH - CH16J
còn phát triển nhanh như các thập kỉ trước; kinh tế Nhật suy thoái chưa có lối
ra; các nước thuộc Liên Xô trước đây và nước Đông Âu rơi vào tình trạng suy
thoái kéo dài, vài năm gần đây tăng trưởng tương đối khá; kinh tế Trung Quốc
phát triển ngoạn mục; Đông Nam á vàĐông á phát triển nhanh vào bậc nhất
thế giới trong những thập kỷ trước, tuy nhiên vừa qua đã rơi và suy thoái và
nay đang hồi phục; Nam Á và Châu Phi vẫn chưa thoát khỏi tình trạng trì trệ
kéo dài; kinh tế Mỹ latinh có khá hơn song cũng không ổn định.
Xu thế toàn cầu hoá kinh tế diễn ra mạnh mẽ, ảnh hưởng đến cuộc sống
của tất cả các dân tộc trên thế giới. Ngày nay các nền kinh tế của các quốc gia
gắn bó hữu cơ và tuỳ thuộc vào nhau. Tính thẩm thấu lẫn nhau của các nền
kinh tế gia tăng. Nền sản xuất thế giới mang tính toàn cầu. Phân công lao động
quốc tếđạt tới trình độ ngày càng cao. Phương châm kinh doanh lấy thế giới
làm nhà máy của mình, lấy các nước làm phân xưởng của mình, qua đó phân
công lao động quốc tế có thể lợi dụng ưu thế kỹ thuật, tiền vốn, sức lao động
và thị trường của các nước, thúc đẩy quá trình quốc tế hoá sản xuất phát triển
nhanh chóng. Trong quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá, nổi lên xu hướng
liên kết kinh tế dẫn tới sự ra đời, rồi hợp nhất của nhiều tổ chức kinh tế và
thương mại, tài chính quốc tế và khu vực, như Tổ chức thương mại thế giới
(WTO), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Liên minh
Châu âu (EU), khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ (AFTA)…
Hiện nay, các nước lớn, nhỏđều giành ưu tiên cho phát triển kinh tế,
theo đuổi chính sách kinh tế mở. Nay những nước có tiềm năng và thị trường
lớn như Trung Quốc, Nga, ấn Độ, Mỹ…và cả một số nước vốn khép kín, theo
mô hình tự cung tự cấp cũng dần dần mở cửa, từng bước hội nhập vào nền
kinh tế khu vực và thế giới.
Mặt khác cộng đồng thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu
mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu không có sự hợp

10
10
LÊ HOÀNG ANH - CH16J
tác đa phương như: bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ dân số, đẩy lùi
dịch bệnh hiểm nghèo, chống tội phạm quốc tế…
Tuy nhiên trong xu thếđó, các nước công nghiệp phát triển, đứng đầu là
Mỹ, do cóưu thế về thị trường, nắm được tiến bộ khoa học- công nghệ, có nền
kinh tế phát triển cao, đã ra sức thao túng, chi phối thị trường thế giới, áp đặt
điều kiện với những nước chậm phát triển hơn, thậm chí dùng nhiều biện pháp
thô bạo như bao vây cấm vận, trừng phạt, làm thiệt hại lợi ích của các nước
đang phát triển và chậm phát triển. Trước tình hình đó các nước đang phát
triển đã từng bước tập hợp nhau lại, đấu tranh chống chính sách tăng cường
quyền áp đặt của Mỹđể bảo vệ lợi ích của mình vì một trật tự kinh tế bình
đẳng, công bằng.
ở khu vực Đông Namáđã diễn ra nhiều biến đổi sâu sắc. Mặc dù trải qua
cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính trầm trọng trong thời gian 1997 -1998,
song vẫn là khu vực có nhiều tiềm năng do vị tríđịa lý chính trị vàđịa lý kinh
tế của mình, dung lượng thị trường lớn, tài nguyên phong phú, lao động dồi
dào, được đào tạo tốt, có quan hệ quốc tế rộng rãi.
Toàn bộ tình hình trên đem lại nhiều thuận lợi to lớn, đồng thời cũng
đặt ra nhiều thách thức gay gắt đối với nước ta trong quá trình phát triển đất
nước nói chung và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng.
2. Hội nhập kinh tế với các nước đang phát triển
Thế giới ở vào thời điểm chuyển giao giữa hai thế kỷđang chứng kiến
những đổi thay sâu sắc trên tất cả mọi lĩnh vực, từ sản xuất vật chất đến đời
sống tinh thần xã hội. Toàn cầu hoá nổi lên như một trong những xu hướng
chủđạo chi phối hệ thống quan hệ quốc tế hiện đại. Xét trên phương diện sản
xuất vật chất xã hội, một giai đoạn mới của lịch sử nhân loại đang từng bước
quáđộ từ xẫ hội gắn với nền văn minh công nghiệp lên nấc thang phát triển
11

11
LÊ HOÀNG ANH - CH16J
cao hơn. Nấc thang phát triển này được đặc trưng bởi công nghệ và cơ cấu
kinh tế mới – kinh tế tri thức, trên cơ sởáp dụng rộng rãi các thành tựu khoa
học – công nghệ tiên tiến, các phương tiện truyền tin hiện đại và máy tính.
Nhìn một cách tổng quát, toàn cầu hoá kinh tế là quá trình phổ biến theo
hướng nhất thể hoá trên phạm vi toàn cầu những giá trị, tri thức, những hoạt
động, những mô hình – cấu trúc trong lĩnh vực kinh tế và cả khoa học, kỹ
thuật. Trong đó các nước đang phát triển tham gia với động lực cơ bản là
nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo mối liên kết thương mại giữa các
quốc gia, các khu vực với nhiều hình thức phong phú, hoạt động có hiệu quả.
Và cho đến nay, một số các quốc gia đang phát triển đãđạt được những tiến bộ
vượt bậc ví như : ở khu vực Đông Namá có Thái Lan, Malayxia, Singapo đã
chuyển mạnh sang kinh tế hướng về xuất khẩu và thu được những thành quả
tốt.
Xét về việc mở rộng vàđa dạng các mối liên kết thương mại thì chính
sách tỷ giá, chính sách giảm thuế xuất nhập khẩu, bãi bỏ hàng rào thuế quan,
phi thuế quan đã làm cho hoạt động thương mại tại các nước mở rộng thị
trường và tăng khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu.
Hơn nữa, trong quá trình hội nhập kinh tế,điều chúng ta thấy rõ là thị
trường vốn có mối liên kết chặt chẽ hơn nhiều. Các nước đang phát triển có cơ
hội hội nhập với thị trường tài chính toàn cầu. Nhờ vậy mà loại bỏ việc kiểm
soát đối với đồng vốn chảy vào, đồng thời cũng bãi bỏ dần những hạn chế
trong thanh toán và giao dịch thông qua tài khoản. Hiện nay, nhiều nước đã
chấp nhận thả nổi đồng tiền, đã làm cho đồng vốn đổ vào các nước này tăng
nhanh.
Mặt khác, hội nhập kinh tế trong thời gian qua có tác động tích cực đến
việc ổn định kinh tế vĩ mô. Nhiều quốc gia đang phát triển đã mở cửa thị
trường thu hút vốn, một mặt thúc đẩy công nghiệp hoá, một mặt tăng tích
12

12
LÊ HOÀNG ANH - CH16J
luỹtừđó cải thiện mức thâm hụt ngân sách. Chính sựổn định kinh tế vĩ mô này
đã tạo niềm tin cho các chương trình phát triển hỗ trợ cho những quốc gia
thành công trong cải cách kinh tế và mở cửa.
Ngoài ra, hội nhập kinh tế tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và nâng cao
mức thu nhập tương đối của các tầng lớp dân cư.
Chính những mặt thuận lợi này mà hội nhập kinh tế quốc tế có sức
mạnh to lớn. Nó kéo tất cả các quốc gia dù lớn, dù nhỏ, dù giàu hay nghèo đều
bị cuốn vào. Tuy nhiên điều đáng nói ởđây là chủ nghĩa tư bản hiện đại với ưu
thế về vốn và công nghệđang ráo riết thực hiện ýđồ chiến lược biến quá trình
toàn cầu hoá nói chung và toàn cầu hoá kinh tế nói riêng thành quá trình tự do
hoá kinh tế vàáp đặt chính trị theo quỹđạo tư bản chủ nghĩa. Bởi vậy, tất cả
các nước, nhất là các nước đang phát triển, đều phải tìm kiếm các đối sách để
thích ứng với quá trình toàn cầu hoáđa bình diện vàđầy nghịch lý.
Các nước này tuy đã giành được độc lập, đó là một thành quả vô cùng
quan trọng, song các nước này hầu hết lại là các nước nghèo, còn lạc hậu. Cho
nên, họ vẫn bị phụ thuộc vào hệ thống kinh tế của chủ nghĩa tư bản : từ khai
thác – sử dụng tài nguyên, quy trình sản xuất, vốn, kỹ thuật – công nghệđến
thị trường tiêu thụ cũng như phân công lao động quốc tế… Các nước đang
phát triển đang phải đối diện trước thách thức của nguy cơ tụt hậu ngày càng
xa về kinh tế. Bởi một cơ cấu kinh tế còn nhiều bất hợp lý, trong đó tỷ trọng
công nghiệp nhỏ bé trong tổng giá trị thu nhập quốc dân, cộng thêm với trình
độ thấp kém về năng suất lao động, cho nên tốc độ phát triển kinh tế của đa số
các nước đang phát triển thấp và bấp bênh. Trong thập niên 60, các nước đang
phát triển đạt mức tăng trưởng 5,7%, thập niên 70 đạt 5,3% thìđến thập niên
80 là 2% và những năm vừa qua của thập niên 90 tuy tình hình cóđược cải
thiện, song cũng chỉđạt mức trên 4% trong khi tỉ lệ tăng dân số vẫn còn ở mức
trên 2%/năm.
13

13
LÊ HOÀNG ANH - CH16J
Không những thế vấn đề nợ nước ngoài cũng trở thành gánh nặng đối
với các nước đang phát triển. Số liệu thống kê của Liên hợp quốc cho thấy, nợ
nước ngoài của các nước này đã tăng hơn 300 lần trong 4 thập niên qua : từ 6
tỉ năm 1995 lên trên 2000 tỉđầu năm 2000. Trong đó, có những nước mà tổng
số nợđã vượt xa so với tổng thu nhập quốc dân. Những bi kịch về nợ nước
ngoài của các nước đang phát triển không chỉđược biểu hiện ở tổng số nợ
khổng lồ mà còn là tình trạng nhiều nước không có khả năng thanh toán dù chỉ
là lãi suất hằng năm, trong khi dó tốc độ của các khoản vay vẫn gia tăng và
không hề có dấu hiệu giảm bớt.
Cùng với nợ nần là tình trạng bất bình đẳng trong trao đổi mậu dịch –
thương mại giữa các nước đang phát triển và phát triển. Chỉ tính riêng qua trao
đổi không ngang giá, các nước phát triển mỗi năm thu về món lợi hàng chục tỉ
USD.
Mặt khác, vẫn tiếp tục diễn ra sự phân biệt đối xử với hàng hóa – sản
phẩm của các nước đang phát triển khi thâm nhập thị trường các nước phát
triển. Qua con đường đầu tư, chuyển giao kỹ thuật – công nghệ, các cường
quốc tư bản không chỉ thu lợi do bán các thiết bị công nghệ lạc hậu và gây ô
nhiễm mà còn khống chế nhiều huyết mạch kinh tế quan trọng của các nước
đang phát triển. Còn các nước đang phát triển, do áp lực bức bách của nhu cầu
cải thiện đời sống kinh tế, đã dễ dàng chấp nhận “chào đón” bất kỳ sự cải tiến
kỹ thuật – công nghệ nào, bất kỳ nguồn vốn tư bản nào. Sựđơn giản dễ dãi
này, mặc dù trước mắt có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, song rất có thể phải
trả giáđắt bởi các hậu quả kinh tế xã hội khó lường. Do vậy, lựa chọn kỹ thuật
– công nghệ, cơ cấu kinh tế, mô hình kinh tế – xã hội đang đặt ra những tiêu
chuẩn phức tạp hơn để có thể tận dụng mọi cơ hội phát triển cho cả ngày mai,
không chỉ vì những cái lợi tức thời trước mắt.
14
14

LÊ HOÀNG ANH - CH16J
Đó là những vấn đề trên con đường hợp tác giữa các nước đang phát
triển và các nước phát triển, vậy còn hợp tác giữa các nước đang phát triển với
nhau thì sao? Con đường này cũng gặp nhiều trở ngại bởi lẽ các nước này đều
có sự tương đồng về trình độ phát triển cũng như các lợi thế về nguồn tài
nguyên, nhân lực và thị trường…trong khi tất cảđều thiếu vốn, kỹ thuật – công
nghệ và tri thức quản lý hiện đại. Hơn nữa, những lợi thế nêu trên dưới tác
động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ và toàn cầu hoá hiện nay
không còn có vai trò, ý nghĩa nổi bật như các thập niên trước đây. Điều đó cho
thấy, các nước đang phát triển cần thiết phải có cách tiếp cận mới trong hợp
tác cùng nhau. Chỉ có như vậy, khuôn khổ và cơ chế hợp tác mới thực sự trở
nên hữu ích và thiết thực đối với các nước đang phát triển. Đồng thời, nóđóng
góp và việc phối hợp các nỗ lực chung của các nước đang phát triển nhằm
từng bước khắc phục và hạn chế những hậu quả tiêu cực của toàn cầu hoá
cũng như trong quá trình xúc tiến quan hệ với các nước phát triển.
Hội nhập kinh tế là một vấn đề cấp bách và mang tính thời đại, nhưng
đó cũng là một bài toán hóc búa, đang thách đố các quốc gia, dân tộc đang
phát triển, thôi thúc họ tìm lời giải tối ưu. Giữ vững độc lập dân tộc, phát huy
nội lực và kết hợp với chủđộng mở rộng hội nhập quốc tế, trở thành một trong
những điều kiện tiên quyết – chìa khoá hữu hiệu để giải mã bài toán này trong
kỷ nguyên toàn cầu hoá hiện nay.
3. Sự hình thành tất yếu của chủ trương hội nhập kinh tế quốc tếở nước
ta
Thật ra, chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tếđể phát triển đất
nước không phải là một điều gì hoàn toàn mới đối với Đảng và Nhà nước ta.
Nó là sự kế thừa, phát triển và vận động sáng tạo vào hoàn cảnh hiện nay của
đất nước, những luận điểm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên ngay từ khi
15
15
LÊ HOÀNG ANH - CH16J

nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vừa mới ra đời sau Cách mạng tháng Tám
năm 1945. Trong bài trả lời phỏng vấn của các nhà báo ngày 23 tháng 10 năm
đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “chúng ta hoan nghênh những người Pháp
muốn đem tư bản vào xứ ta khai thác những nguồn nguyên liệu chưa có ai
khai thác…Chúng ta sẽ mời những nhà chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga
hay Tàu, đến đây giúp việc cho chúng ta trong công cuộc kiến thiết quốc gia”
(Hồ Chí Minh: Toàn tập, T4, NXB Chính trị quốc gia, HN 1995, tr74)
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, ngay từ giữa những năm 70 của thế
kỷ trước, nước ta đã gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV), tích cực tham
gia Phong trào không liên kết, Liên hợp quốc mà một trong những nội dung cơ
bản làđấu tranh cho một trật tự kinh tế thế giới công bằng. Bên cạnh mối quan
hệ với các nước trong cộng đồng XHCN, nước ta đã ra sức thúc đẩy quan hệ
hợp tác bình đẳng cùng có lợi với các nước tư bản chủ nghĩa mặc dầu lúc đó
các thế lực thùđịch thực hiện chính sách bao vây về kinh tế, cô lập về chính
trịđối với nước ta.
Trong thời kìđổi mới, chủ trương mở rộng quan hệđối ngoại và hội
nhập kinh tế quốc tế càng được thể hiện rõ nét vàđược thực hiện tích cực hơn.
Đại hội lần thứ VI của Đảng họp tháng 12 – 1986 đã chính thức khởi xướng
công cuộc đổi mới nhằm đưa nước tar a khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế –
xã hội. Việc triển khai Nghị Quyết Đại hội lại diễn ra trong bối cảnh tình hình
Liên Xô, Đông Âu xấu đi nhanh chóng và tới đầu những năm 90 thì chếđộ
XHCN đã bị xoá bỏ tại các nước này, Liên bang Xô Viết tan rã, Hội đồng
tương trợ kinh tế giải thể. Để phục vụ cho việc thực hiện đường lối đổi mới,
Đại hội và các hội nghị Trung ương tiếp theo, nhất là các Nghị quyết
13/5/1988 của bộ chính trị, Nghị quyết của Hội nghị Trung ương VIII tháng
3/1990, đã phân tích sâu sắc tình hình thế giới, đề ra các chủ trương và giải
pháp ứng phó với những tiêu cực của tình hình với nội dung chủ yếu làđẩy lùi
16
16
LÊ HOÀNG ANH - CH16J

chính sách bao vây kinh tế, cô lập về chính trịđối với nước ta, mở rộng quan
hệ quốc tế. Cũng theo tinh thần đó, năm 1987 nước ta đã thông qua Luật đầu
tư với nước ngoài với những quy định khá thông thoáng.
Đại hội lần thứ VIII họp tháng 6/1996 đã khẳng định chủ trương “xây
dựng một nền kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới”. Hội nghị Trung ương 4 khoá VIII nêu nhiệm vụ “tích cực chủđộng
thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế”, “tiến hành khẩn trương, vững chắc
việc đàm phán Hiệp định thương mại với Mỹ”, “gia nhập APEC và WTO, có
kế hoạch cụ thểđể chủđộng thực hiện cam kết trong khuôn khổ AFTA”.
4. Nhận định về những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trên con
đường hội nhập kinh tế quốc tế.
1 Những cơ hội mà Việt Nam cóđược khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình “mở cửa” nền kinh tế, đưa các
doanh nghiệp trong nước tham gia tích cực vào cạnh tranh, quốc tế. Hội nhập
kinh tế quốc tế chúng ta có cơ hội tích luỹđược những tiền đề, những điều kiện
cho một trình độ phát triển mới. Trước hết chúng ta có cơ hội thu hút vốn,
khoa học, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý kinh tế từ bên
ngoài và mở rộng thị trường đểđẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển. Tiếp đó hội nhập kinh tế
tạo khả năng mở rộng thị trường ra nước ngoài trên cơ sở các hiệp định
thương mại đã ký kết với các nước, trong khu vực và toàn cầu. Tạo cơ hội
giao lưu các nguồn lực của nước ta với các nước, bởi chúng ta có nguồn nhân
lực dồi dào, nhưng nếu không hội nhập thì việc sử dụng trong nước sẽ bị lãng
phí, kém hiệu quả. Thông qua hội nhập ta có thể xuất khẩu lao động qua hợp
đồng gia công hàng xuất khẩu. Đồng thời tạo cơ hội để nhập khẩu lao động
kỹthuật cao, các công nghệ mới, các phát minh sáng chế mà ta chưa có. Mặt
17
17
LÊ HOÀNG ANH - CH16J
khác, mở cửa và hội nhập quốc tế sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh hơn nữa quá

trình cải cách, đổi mới xã hội, nhất là những cải cách về phương thức hoạt
động của hệ thống chính trị, về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, điều chỉnh cơ cấu sản xuất trong nước, tăng sức cạnh tranh cho nền
kinh tếđể tham gia ngày càng nhiều hơn vào phân công lao động quốc tế và
mở rộng quá trình dân chủ hoá xã hội. Với một nền kinh tế yếu kém, nếu
không tranh thủđược những cơ hội do toàn cầu hoá mang lại – dù là toàn cầu
hoáđang do chủ nghĩa tư bản chi phối – thì chúng ta không thể xây dựng chủ
nghĩa xã hội được. Chỉ riêng vấn đề “học hỏi” chủ nghĩa tư bản chứ chưa nói
đến tranh thủ những nguồn lực, phương tiện vật chất cần thiết, đã là một tất
yếu khách quan, một yêu cầu bắt buộc đối với việc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở các nước chậm phát triển vàđang phát triển nói chung vàở nước ta nói riêng.
Bởi vì như Lênin đã nói : “chúng ta không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội
nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở những bài học mà nền văn
minh lớn của chủ nghĩa tư bản thu được” ( V.I Lênin, Toàn tập, NXB Tiến bộ,
M, 1977, tr334).
4.1. Những thách thức mà chúng ta gặp phải trên con đường hội nhập
Tuy nhiên, toàn cầu hoá là một quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh vô
cùng phức tạp. Nó không chỉđem đến cho chúng ta những cơ hội thuận lợi mà
còn có cả những thách thức và khó khăn mới nảy sinh.
Thách thức lớn nhất với nước ta là tình trạng thấp kém của nền kinh tế,
khoảng cách về trình độ phát triển giữa ta với các nước trong khu vực và trên
thế giới còn rất xa. Học thuyết tự do mới về toàn cầu hóa đòi hỏi các quốc gia
phải mở toang cửa nền kinh tếđất nước, phải thực hiện triệt để tự do hoá thị
trường bên trong và bên ngoài, phải thả nổi tiền tệ, phải tư nhân hoá, phải
giảm mạnh vai trò kiểm soát của Nhà nước theo hướng: “Nhà nước tối thiểu,
18
18
LÊ HOÀNG ANH - CH16J
thị trường tối đa”. Vì vậy các doanh nghiệp trong nước phải chấp nhận tư cách
thành viên cạnh tranh ngang bằng các nước khác. Mà xu hướng tự do hoá

thương mại quốc tế càng phát triển thì cạnh tranh quốc tế ngày càng khốc liệt.
Điểm đặc biệt là ta phải cạnh tranh ngay từđầu, trên tất cả các mặt trận, với
những thế lực mạnh hơn nhiều về thực lực và trình độ. Tại diễn đàn Kỳ họp
thứ 6, Quốc hội khoá XI, Thủ tướng Phan Văn Khải cũng nhiều lần nhấn
mạnh : “Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam và nền kinh tế thua
kém nhiều nước xung quanh làđiều bất lợi lớn nhất khi hội nhập kinh tế quốc
tế” Hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta đứng trước yêu cầu phải chuyển đổi cơ
cấu kinh tế, đầu tư theo chiều sâu để nền kinh tếđủ sức cạnh tranh trên thị
trường quốc tế. Bên cạnh đó, chúng ta đứng trước khó khăn rất lớn trong việc
điều chỉnh hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách làm sao vừa bảo đảm cho
đổi mới thành công, nền kinh tế phát triển bền vững; vừa phù hợp với cam kết
quốc tế; lại có khả năng khắc phục những tiêu cực, rủi ro do hội nhập đem lại.
Nhìn chung, nếu không vượt qua được những thách thức này, chúng ta không
thể có chủ nghĩa xã hội trong thực tế. Mặt khác, toàn cầu hoáđang bị chủ
nghĩa tư bản chi phối trên các lĩnh vực : thị trường, khoa học – công nghệ và
vốn. Các nước tư bản đang mưu toan ding những lợi thế này để gây sức ép đối
với chúng ta. Thực tế này đe doạ tấn công vào chủ quyền quốc gia, là xói mòn
các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, đe doạ sựổn định về kinh tế và xã
hội của đất nước. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần tỉnh táo trong từng bước hội
nhập, cần phân tích tính hai mặt của toàn cầu hoáđể nhận thức được những
mặt, những xu hướng, những tác động, những quy luật vận động của nó. Trên
cơ sởđó chủđộng tìm ra con đường, cách thức biện pháp phù hợp trong từng
bước hội nhập để tiếp tục con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa trong bối cảnh mới.
19
19
LÊ HOÀNG ANH - CH16J
5. Những quan điểm chỉđạo trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tếở
nước ta :
Từ những điều nói trên, chúng ta có thể khái quát và nhấn mạnh một số

quan điểm chủ yếu cần quán triệt trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của
nước ta như sau :
Thứ nhất chủđộng hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần
phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự
chủ vàđịnh hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia,
giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường” (Trích Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX – trang 120)
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; trong
quá trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực các thành phần
kinh tế của toàn xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủđạo.
Thứ ba, hội nhập kinh tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh
tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn
khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối
tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể; đồng thời vừa phải đề phòng tư
tưởng trì trệ, thụđộng, vừa phải chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng.
Thứ tư, cần nhận thức đầy đủđặc điểm nền kinh tế nước ta, từđóđề ra kế
hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa
đáp ứng các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia;
tranh thủ những ưu đãi giành cho các nước đang phát triển và các nước có nền
kinh tế chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường.
Cuối cùng, cần kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với
yêu cầu giữ vững ổn định chính trị, an ninh, quốc phòng; thông qua hội nhập
để tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, nhằm củng cố chủ quyền vàan
20
20
LÊ HOÀNG ANH - CH16J
ninh đất nước, cảnh giác với những mưu toan thông qua hội nhập để thực hiện
ýđồ “diễn biến hoà bình” với nước ta.
III. CÁCKIẾNNGHỊĐỀXUẤTTRÊNPHƯƠNGDIỆNTRIẾTHỌCĐỂHẠNC
HẾCÁCNHƯỢCĐIỂMVÀPHÁTHUYNHỮNGMẶTTÍCHCỰCCỦATI

ẾNTRÌNHHỘINHẬPKINHTẾQUỐCTẾỞNƯỚCTA
Từ những điều nói trên, chúng ta cần quán triệt và thực hiện tốt một số
vấn đề cơ bản sau đây trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta:
Thứ nhất là phải thống nhất được nhận thức về nhu cầu tất yếu phải hội
nhập kinh tế, coi hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những nhiệm vụ then
chốt trong hoạt động kinh tế, nhằm phục vụ lợi ích chung của đất nước. Vấn
đề thống về nhận thức cóý nghĩa rất quan trọng, vì hội nhập kinh tế quốc tế
với trọng tâm là mở cửa, thực hiện tự do hoá thương mại sẽ làm xuất hiện
nhiều mâu thuẫn cục bộ. Chẳng hạn, mâu thuẫn giữa xu bảo hộ với xu hướng
tự do hoá; nhiều doanh nghiệp còn yếu kém không đủ sức cạnh tranh, ngại
phải thay đổi cách làm cũ, vẫn muốn nhà nước tiếp tục bảo hộ; mâu thuẫn
giữa tăng nguồn thu ngân sách qua thuế nhập khẩu với việc giảm dần các hàng
rào thuế quan, phi thuế quan khi thực hiện tự do hoá sẽ làm giảm nguồn thu
ngân sách…Những mâu thuẫn đó làm cho qúa trình hội nhập kinh tê quốc tế
vấp phải không ít trở ngại khi đi vào các vấn đề cụ thể. Thế nên, chỉ khi nào
nhận thức thông suốt thì mới cóđủý chí, bản lĩnh, quyết tâm và sức mạnh để
thật sựđưa vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế vào cuộc sống, vào suy nghĩ, vào
kế hoạch, chương trình hành động, chiến lược phát triển của Nhà nước.
Thứ hai, cần có cơ sở vững vàng về chính trị, ổn định xã hội, phát huy
nội lực, phát triển kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của cả nền kinh tế, của
từng ngành và từng doanh nghiệp. Muốn vậy, chúng ta phải đánh giá lại tiềm
lực kinh tế của đất nước trong mọi lĩnh vực, ngành hàng; nghiên cứu lợi thế so
21
21
LÊ HOÀNG ANH - CH16J
sánh giữa nước ta với khu vực và các nước khác…Từđó xây dựng cơ cấu kinh
tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, mở cửa hội
nhập; xây dựng chiến lược phát triển, mở rộng thị trường trong và ngoài nước;
xác định ngành mũi nhọn cần ưu tiên đầu tư phát triển…Nhà nước cần tiếp tục
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; xây dựng hành lang pháp lý vừa chặt chẽ lại

vừa thông thoáng; xác định lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện các
cam kết đã và sẽ ký kết tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh…
Thứ ba là chủđộng tham gia cộng đồng thương mại thế giới một cách có
chọn lọc. Nắm vững các văn kiện, thông lệ quốc tế. Không bỏ sót, bỏ lỡ cơ hội
nhưng cũng không nên quá nôn nóng, quan hệ hợp tác với nhiều quốc gia,
tránh để bị lệ thuộc vào một quốc gia, một thế lực nào đó. Sớm có chủ trương,
chính sách và triển khai việc chuyển đổi cơ cấucủa nền kinh tế theo định
hướng xuất khẩu, nhằm tạo ra các mặt hàng xuất khẩu đủ lớn về số lượng, đạt
tiêu chuẩn về chất lượng, có sức cạnh tranh cao. Đồng thời, nhằm tạo ra một
đội ngũ doanh nghiệp cóđủ quy mô và năng lực, tất cả những yếu tố này cùng
với môi trường pháp lý thông thoáng sẽ tạo thành một sức mạnh tổng hợp
nâng cao sức mạnh cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội
nhập.
Thứ tư là chúng ta cần tiếp cận, dần dần đi vào kinh tế tri thức. Nếu
không có tri thức, không phát triển nguồn trí lực đủ tầm sẽ rất khó chủđộng
trong hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực cũng như trong quan hệ chung với
thế giới hiện đại. Bởi tri thức hiện đóng vai trò số một trong các nguồn lực
phát triển kinh tế. Kinh tế tri thức tạo ra những cơ hội cho các nước đang phát
triển nói chung và nước ta nói riêng vươn lên rút ngắn khoảng cách với các
nước phát triển.
Tiếp đó, ta cần thu nhập, cập nhật thông tin về tình hình kinh tế, tài
chính, thương mại thế giới, tìm hiểu kĩ thị trường thế giới, dự báo triển vọng,
22
22
LÊ HOÀNG ANH - CH16J
xu hướng biến động và phát triển của nó. Cần nắm vững các văn kiện, thông lệ
quốc tế, hệ thống pháp luật, các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế, các
cam kết quốc tế…để có thể chủđộng, tránh bịép trong khi đàm phán, ký kết
các cam kết; không bỏ sót, bỏ lỡ mà có thể khai thác triệt để, tận dụng quyền
lợi, những ưu tiên, ưu đãi dành cho chúng ta trong quá trình hội nhập. Từđó

tìm được tiếng nói chung về một vấn đề, một lĩnh vực nào đóđể tranh thủ càng
nhiều càng tốt sựủng hộ, đồng tình, hợp tác của các đối tác cùng chung lợi ích.
Thứ năm là xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, có năng
lực và bản lĩnh vững vàng. Nhân tố con người là yếu tố quyết định nhất trong
các khâu, các hoạt động phục vụ cho hội nhập kinh tế quốc tế.
Cuối cùng, đó là việc giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc, phát
huy được những giá trịưu tú của dân tộc, đảm bảo cho sự phát triển hài hoà và
lành mạnh của đất nước. Đồng thời cũng cần chọn lọc tiếp thu những tinh hoa
văn hoá của nhân loại để làm giàu thêm bản sắc văn hoá dân tộc, xem đó là
nhân tố cực kì quan trọng khơi dậy các tiềm năng sáng tạo, làm nên những giá
trị vật chất và tinh thần mới. Chúng ta kiên quyết phản đối sự tiếp nhận xô bồ
mọi thứ gọi là “tân kì” của văn hoá ngoại lai mà không phân biệt hay dở, tốt
xấu, đểđi đến chỗ mất gốc và lai căng về văn hoá, gây hậu quả xấu về tư
tưởng, đạo đức, lối sống.
23
23
LÊ HOÀNG ANH - CH16J
LỜI KẾT
Ngày nay, trong thế giới luôn luôn có biến động không ngừng, xu thế
hội nhập, toàn cầu hoáđang nổi lên chiếm vị trí chủđạo khuynh hướng phát
triển của thế giới trong thời gian tới. Mỗi quốc gia đều hiểu rằng không
thểđứng ngoài xu thế phát triển chung của thế giới hội nhập mở cửa đồng
nghĩa hoà nhập trong xu thếđi lên của xã hội loài người; đóng cửa, biệt lập
cũng đồng nghĩa với bảo thủ, tự giảm khả năng phát triển. Và trong quá trình
hội nhập các quốc gia phải có biện pháp cụ thểđể tận dụng ở mức tốt nhất
những cơ hội để phát triển. Việt Nam cũng không thểđứng ngoài mục đích
này. Nhưng với một tiềm lực kinh tế còn hạn chế, Việt Nam đứng trước những
thử thách, khó khăn to lớn. Trong đó nổi bật là nguy cơ tụt hậu khoảng cách
phát triển với các quốc gia tiên tiến ngày càng mở rộng hơn. Đây là hạn chế,
khó khăn căn bản bởi vì củng cố tiềm lực kinh tế càng mạnh sẽ có cơ hội trong

việc giữ vị thế, tiếng nói chủđộng trong quá trình hội nhập vàđặc biệt thương
mại quốc tế. Tuy nhiên với thành tựu đạt được qua thời gian gần 20 năm đổi
mới cùng với chủ trương đúng đắn phát huy nội lực trong phát triển kinh tế,
nước ta sẽ vượt qua khó khăn đểđạt mục tiêu tới năm 2020 trở thành quốc gia
công nghiệp và xa hơn nữa, vươn lên sánh kịp với các quốc gia trong khu vực
và trên thế giới như Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc.
Qua đề tài này em mạnh dạn đưa ra một số những hạn chế, yếu kém của
quá trình hội nhập và phát triển kinh tếở Việt Nam và một số những giải pháp
nhằm khắc phục những hạn chếđó cũng như nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập
và phát triển kinh tếở Việt Nam nhanh hơn.
Do còn hạn chế về trình độ, trong quá trình nghiên cứu hẳn không tránh
khỏi thiếu sót. Em mong nhận được sựđóng góp ý kiến của thầy côđể công
trình nghiên cứu của em hoàn thiện hơn.
24
24
LÊ HOÀNG ANH - CH16J
Em xin chân thành cảm ơn thầy cô!
25
25

×