Tải bản đầy đủ (.docx) (91 trang)

Đề tài " Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Nghệ An " pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.35 KB, 91 trang )

1
Luận văn
Đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối
với hộ nghèo tại NHCSXH tỉnh Nghệ An
1
1
2
Contents
2
2
3
M UỞĐẦ
1. Tính c p thi t c a t iấ ế ủ đề à
Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đãđạt được nhiều thành
tựu quan trọng, tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm đạt từ 7- 8%; đời sống
nhân dân ngày càng được cải thiện, chính trịđược giữ vững vàổn định. Lĩnh
vực XĐGN cũng đạt được nhiều thành tích nổi bật vàđược Liên hợp quốc
đánh giá cao. Tuy vậy, mặt trái của sự phát triển cũng ngày càng bức xúc, như
khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng; sự tụt hậu ngày càng lớn giữa khu
vực nông thôn và thành thị, giữa miền núi vàđồng bằng; tình trạng thiếu việc
làm nghiêm trọng; tình trạng ô nhiễm môi trường và lãng phí tài nguyên đất
nước.v.v Hàng triệu hộ nghèo hiện nay ở Việt Nam, đặc biệt là hộ nghèo ở
vùng sâu, vùng xa không được hưởng những thành quả của sự phát triển.
Họđang bơ vơ, lạc lõng trước sự hội nhập toàn cầu vàánh sáng của thế giới
văn minh. Những yếu kém trên là nguyên nhân mất ổn định về xã hội- chính
trị, là nỗi đau của một xã hội đang phấn đấu vì lý tưởng dân giàu, nước mạnh
xã hội công bằng- dân chủ- văn minh.
Trước thực trạng đó, Đảng và Nhà nước ta cũng đã quan tâm đến nhiệm
vụ XĐGN; Đại hội VIII của Đảng đã xác định rõ XĐGN là một trong những
chương trình phát triển kinh tế, xã hội vừa cấp bách trước mắt, vừa cơ bản lâu
dài và nhấn mạnh “phải thực hiện tốt chương trình XĐGN, nhất làđối với


vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc. Xây dựng và phát triển quỹ
XĐGN bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước; quản lý chặt chẽ, đầu
tưđúng đối tượng và có hiệu quả”. Chính phủđã phê duyệt và triển khai
chương trình, mục tiêu quốc gia XĐGN, giai đoạn 1998- 2000 và giai đoạn
2001-2010, như hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng xã nghèo; hỗ trợđồng bào dân
tộc đặc biệt khó khăn; định canh, định cư, di dân, kinh tế mới; hướng dẫn
người nghèo cách làm ăn và khuyến nông- lâm- ngư; hỗ trợ tín dụng cho
người nghèo; hỗ trợ người nghèo về y tế; hỗ trợ người nghèo về giáo dục; hỗ
3
3
4
trợ sản xuất, phát triển ngành nghề; đào tạo cán bộ làm công tác XĐGN, cán
bộ các xã nghèo, chương trình phát triển kinh tế, xã hội các xãđặc biệt khó
khăn (QĐ số 135/1998/QĐ-TTg), chương trình mục tiêu quốc gia về việc
làm.v.v…
Trong lĩnh vực tín dụng cho người nghèo, năm 1996 đã thành lập Ngân
hàng phục vụ người nghèo vàđến năm 2003 được tách ra thành Ngân hàng
chính sách xã hội (NHCSXH), với mục tiêu chủ yếu là cho vay ưu đãi hộ
nghèo. Sau hơn 5 năm hoạt động, NHCSXH đã cho vay hàng chục ngàn
tỷđồng, cho hàng chục triệu lượt hộ nghèo vàđã góp phần to lớn trong công
cuộc XĐGN cho đất nước.
Tuy nhiên, sự nghiệp XĐGN vẫn đang còn ở phía trước, với nhiệm vụ
ngày càng khó khăn, phức tạp; trong đó, lĩnh vực tín dụng cho hộ nghèo nhiều
vấn đề vẫn đang bức xúc như: Quy mô tín dụng chưa lớn, hiệu quả XĐGN
còn chưa cao, hoạt động của NHCSXH chưa thực sự bền vững.v.v… Những
vấn đề trên là phức tạp, nhưng chưa có mô hình thực tiễn và chưa được
nghiên cứu đầy đủ. Để giải quyết tốt vấn đề nghèo đói ở Việt Nam nói chung
và tín dụng cho hộ nghèo nói riêng, đòi hỏi phải được nghiên cứu một cách có
hệ thống, khách quan và khoa học, phải có sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước
cũng như toàn xã hội.

Với những lý do nêu trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Giải pháp nâng
cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội
tỉnh Nghệ An” làm luận văn tốt nghiệp.
2. M c tiêu nghiên c u c a t iụ ứ ủ đề à
- Nhằm hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản vềđói nghèo, tín
dụng đối với hộ nghèo.
- Phân tích, đánh giá thực trạng và hiệu quả cho vay hộ nghèo tại
NHCSXH tỉnh Nghệ An.
4
4
5
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng hộ nghèo
tại NHCSXH tỉnh Nghệ An.
3. i t ng v ph m vi nghiên c uĐố ượ à ạ ứ
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu cho vay hộ nghèo tại chi nhánh
NHCSXH tỉnh Nghệ An từ năm 2003 đến 2007.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích tài liệu, phương pháp
quan sát khoa học, phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, phương pháp tổng
hợp, thống kê, chứng minh, diễn giải, sơđồ, biểu mẩu vàđồ thị trong trình bày
luận văn.
5. K t c u c a lu n v nế ấ ủ ậ ă
Luận văn ngoài phần mởđầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với hộ
nghèo.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả cho vay hộ nghèo tại Ngân hàng Chính
sách xã hội tỉnh Nghệ An (2003-2007).
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại

Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Nghệ An.
5
5
6
CH NG 1ƯƠ
CƠSỞLÝLUẬNVỀHIỆUQUẢTÍNDỤNG NGÂNHÀNG
ĐỐIVỚIHỘNGHÈO
1.1. T NGQUANV ÓINGHÈOỔ ỀĐ
1.1.1. Khái niệm vềđói nghèo
Tình trạng đói nghèo ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau về cấp độ và
số lượng, thay đổi theo thời gian. Người nghèo của quốc gia này có thể có
mức sống cao hơn mức sống trung bình của quốc gia khác. Bởi vậy, đểnhìn
nhậnvà đánhgiáđược tình trạng đói nghèo của một quốc gia, một vùng và
nhận dạng được hộđói nghèo, để từđó có giải pháp phù hợp để XĐGN, đòi
hỏi chúng ta phảicó sựthống nhất về khái niệm và các tiêu chíđểđánh giáđói
nghèo tại từng thời điểm.
Ở nước ta trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng
ta khởi xướng và lãnh đạo, nền kinh tế nước ta đãđạt được nhiều thành tựu
đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh sự tăng thu nhập và nâng cao đời sống của
sốđông dân chúng, vẫn còn tồn tại một bộ phận dân chúng sống nghèo khổ,
đặc biệt là những hộ nông dân nghèo sống tập trung ở các vùng nông thôn,
miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa…Chính vì vậy, trong xã hội sự phân hoá
giàu nghèo đang diễn ra ngày một sâu sắc, khoảng cách giàu, nghèo ngày
càng rộng. Đây là một thách thức lớn đặt ra đòi hỏi phải có những chính sách
và giải pháp phù hợp, đi đôi với phát triển kinh tế - xã hội phải thực hiện
thành công chương trình, mục tiêu quốc gia về XĐGN. Muốn XĐGN bền
vững, thìđiều đầu tiên là phải trả lời được câu hỏi: Quan niệm thế nào là
nghèo, người nghèo là ai và vì sao họ nghèo? Để trả lời được các câu hỏi này
chính xác, phải hiểu rõđược bản chất và nội dung của đói nghèo.
6

6
7
Phải khẳng định rằng không cóđịnh nghĩa duy nhất vềđói, nghèo. Đói
nghèo là tình trạng kiệt quệ bao gồm nhiều khía cạnh, từ thu nhập hạn chếđến
tính dễ bị tổn thương khi gặp phải những tai ương bất ngờ vàít có khả năng
tham gia vào quá trình ra quyết định chung. Việt Nam thừa nhận định nghĩa
chung vềđói nghèo tại Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á- Thái Bình
Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc - Thái Lan tháng 9/1993: “Nghèo là
tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoã mãn các nhu cầu
cơ bản của con người, mà những nhu cầu này được xã hội thừa nhận tùy theo
trình độ phát triển kinh tế- xã hội và phong tục, tập quán của địa phương’’[5,
trang 122]
Đói là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức
sống tối thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống.
Đói nghèo là tổng hợp khái niệm đói và khái niệm nghèo: Đói và nghèo
thường gắn chặt với nhau, nhưng mức độ gay gắt khác nhau. Đói có mức độ
gay gắt cao hơn, cần thiết phải xoá và có khả năng xoá. Còn nghèo, mức độ
thấp hơn và khó xoá hơn, chỉ có thể xoá dần nghèo tuyệt đối, còn nghèo
tương đối chỉ có thể giảm dần. Vì vậy, để giải quyết vấn đềđói nghèo, ta
thường dùng cụm từ "Xoáđói giảm nghèo".
Cụ thể hơn các khái niệm đói nghèo ta có thể thấy: Dùở dạng nào,
thìđói cũng đi liền với thiếu chất dinh dưỡng, suy dinh dưỡng. Có thể hình
dung các biểu hiện của tình trạng thiếu đói như sau:
- Thất thường về lượng: Bữa đói, bữa no, ăn không đủ bữa .
- Về mặt năng lượng: Nếu trong một ngày con người chỉđược thoả mãn
mức 1.500 calo/ngày, thìđó là thiếu đói (thiếu ăn); dưới mức đó là gay gắt.
Nghèo đồng nghĩa với nghèo khổ, nghèo túng, túng thiếu. Trong hoàn
cảnh nào thì hộ nghèo, người nghèo cũng chỉ vật lộn với những mưu sinh
hàng ngày về kinh tế, biểu hiện trực tiếp nhất là bữa ăn. Họ không thể vươn
tới các nhu cầu về văn hoá, tinh thần, hoặc những nhu cầu này phải cắt giảm

7
7
8
tới mức tối thiểu nhất, gần như không có. Biểu hiện rõ nhất ở các hộ nghèo là
hiện tượng trẻ em bỏ học, thất học, không cóđiều kiện để chữa bệnh khi ốm
đau. Nhìn chung ở hộ nghèo, người nghèo thu nhập thực tế của họ hầu như
chỉ dành chi toàn bộ cho ăn; thậm chí không đủ chi ăn, phần tích luỹ hầu như
không có.
1.1.2. Tiêu chí vềđói nghèo
Theo Ngân hàng Thế giới, biện pháp áp dụng thông dụng nhất đểđo
lường đói nghèo là dựa trên mức thu nhập hoặc mức chi tiêu. Một người được
coi là nghèo, nếu mức độ chi tiêu hoặc thu nhập của anh ta xuống dưới mức
tối thiểu cần thiết đểđáp ứng cho các nhu cầu căn bản. Mức tối thiếu này được
gọi là “ngưỡng đói nghèo”. Các yếu tốđáp ứng nhu cầu căn bản thay đổi theo
thời gian và xã hội. Do đó, ngưỡng đói nghèo khác nhau theo thời gian vàđịa
điểm và mỗi quốc gia sử dụng các ngưỡng thích hợp với mức độ phát triển,
chuẩn mực và giá trị xã hội của mình. Để tổng hợp và so sánh toàn cầu, Ngân
hàng thế giới sử dụng ngưỡng tham chiếu $1 và $2/ngày trong thuật ngữ “sức
mua tương đương” (PPP) 1993 (PPP đo lường sức mua tương đối của đồng
tiền các quốc gia).
Trong quá trình nghiên cứu đói nghèo và thực hiện chương trình
XĐGN ở Việt Nam, WB đãđưa ra hai mức chuẩn nghèo đối với Việt Nam:
Thứ nhất, là số tiền cần thiết để mua một số lương thực, thực phẩm
đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng với lượng 2.100 calo/người/ngày, gọi là chuẩn
nghèo về lương thực, thực phẩm;
Thứ hai, là số tiền cần thiết bao gồm cả chi tiêu cho lương thực, thực
phẩm và chi tiêu cho các nhu cầu cần thiết khác, gọi là chuẩn nghèo chung.
Tại Việt Nam hiện nay đang sử dụng một loạt các chỉ tiêu đánh giá về
nghèo đói và phát triển xã hội: Bộ LĐ- TB&XH (cơ quan thường trực của
Chính phủ trong tổ chức, triển khai, thực hiện XĐGN) dùng phương pháp dựa

trên thu nhập của hộ gia đình tuỳ theo từng thời gian. Các hộđược xếp vào
8
8
9
diện nghèo, nếu thu nhập đầu người của họở dưới mức chuẩn được xác định.
Mức này khác nhau giữa thành thị, nông thôn và miền núi. Tỷ lệ nghèo được
xác định bằng tỷ lệ giữa dân số có thu nhập dưới ngưỡng nghèo so với tổng
dân số trong cùng một thời điểm.
Năm 1997, chuẩn nghèo đói thuộc phạm vi của chương trình quốc gia
(chuẩn nghèo cũ) đểáp dụng cho thời kỳ từ năm 1996 - 2000 như sau:
Hộđói là hộ có thu nhập dưới 13 kg gạo/người/tháng (tương đương
45.000 đồng cho tất cả các vùng).
Hộ nghèo là hộ có thu nhập tuỳ theo từng vùng ở các mức tương ứng
như nhau:
- Vùng nông thôn miền núi, hải đảo dưới 15 kg gạo/người/tháng (tương
đương 55.000 đồng).
- Vùng nông thôn đồng bằng, trung du dưới 20 kg gạo/người/tháng
(tương đương 70.000 đồng).
- Vùng thành thị dưới 25 kg/người/tháng (tương đương 90.000 đồng).
Xã nghèo là xã có tỷ lệ hộđói nghèo từ 40% trở lên, thiếu một trong các công
trình cơ sở hạ tầng thiết yếu (đường giao thông, trường học, trạm y tế, điện
sinh hoạt, nước sinh hoạt, thuỷ lợi nhỏ và chợ).
Trước những thành tích của công cuộc XĐGN, cũng như tốc độ tăng
trưởng kinh tế và mức sống. Cuối năm 2000 mức sống của dân cư tăng lên 1,5
lần, thu nhập GDP đầu người tăng lên 1,47 lần so với năm 1996, chuẩn hộ
nghèo đãđược điều chỉnh cho phù hợp với chuẩn quốc tế. Theo chuẩn mực
phân loại hộ nghèo do Bộ LĐ- TB&XH quy định tại văn bản số 1143 ngày
01/11/2000 đã công bố mức chuẩn nghèo mới áp dụng cho thời kỳ 2001-
2005, thì hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu người hàng tháng như
sau:

- 80.000 đồng/người/tháng ở các vùng hải đảo và vùng miền núi nông
thôn.
9
9
10
- 100.000 đồng/người/tháng ở các vùng đồng bằng nông thôn.
- 150.000 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị.
- Xã nghèo là xã có tỷ lệ hộđói nghèo chiếm từ 25% trở lên, thiếu 3
trong số các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu (đường giao thông, điện thắp
sáng, trường học, trạm y tế, nước sạch sinh hoạt, chợ).
- Vùng nghèo có thể là một số xã liền kề (hoặc một vùng dân cư) nằm ở
vị trí khó khăn, hiểm trở, giao thông không thuận lợi. Các cơ sở hạ tầng còn
thiếu thốn, không cóđiều kiện phát triển sản xuất vàđảm bảo đời sống, là vùng
có tỷ lệ hộ nghèo, xã nghèo cao.
Theo tiêu chíđánh giá này, thì thời điểm đầu năm 2001 cả nước có
khoảng 2,7 triệu hộ nghèo, tỷ lệ 17,3%. Theo quyết định số 170/2005/QĐ-
TTg, ngày 08 tháng 7 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành
chuẩn nghèo áp dụng trong giai đoạn 2006 - 2010:
- Đối với khu vực thành thị: Hộ nghèo là những hộ có mức thu nhập
bình quân đầu người 1 tháng dưới 260.000 đồng.
- Đối với khu vực nông thôn: Hộ nghèo là những hộ gia đình có mức
thu nhập bình quân đầu người 1 tháng dưới 200.000 đồng.
Theo tiêu chí cũ về hộ nghèo, thìđến năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo của Việt
Nam còn 7%, còn theo tiêu chí mới tỷ lệ hộ nghèo tới 22%.
Phương pháp xác định đói nghèo do Bộ LĐ- TB&XH nêu trên có
những ưu điểm nhất định: Dễ hiểu, dễ tính toán, dễđiều tra.
Việc đưa ra giới hạn đói nghèo của Bộ LĐ- TB&XH là phù hợp với
điều kiện của Việt Nam, tiện lợi cho việc Nhà nước có một bức tranh tổng
quát vềđói nghèo, đặc biệt là vùng nông thôn và miền núi để có thểđưa ra các
giải pháp XĐGN trong cả nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện việc bình

xét hộ nghèo tại một sốđịa phương (xóm, bản, xã, phường) đã không thực hiện
đúng theo hướng dẫn của Bộ LĐ- TB&XH về các tiêu chíđánh giá hộ nghèo,
cho nên đã dẫn đến tình trạng số hộ nghèo thực tế lớn hơn số hộ nghèo được
10
10
11
cấp thẻ (hộ nghèo trong danh sách) tại từng thời điểm (vấn đề này chúng tôi
sẽđề cập cụ thểở phần sau).
Tổng cục Thống kê thì dựa vào cả thu nhập và chi tiêu theo đầu người
để tính tỷ lệ nghèo. Tổng cục Thống kê xác định ngưỡng nghèo dựa trên chi
phí cho một giỏ tiêu dùng, bao gồm lương thực và phi lương thực; trong đó,
chi tiêu cho lương thực phải đủđảm bảo 2.100 calo mỗi ngày cho 1 người.
Các hộđược coi là thuộc diện nghèo, nếu mức thu nhập và chi tiêu không đảm
bảo giỏ tiêu dùng này.
Phương pháp đo lường đói nghèo bằng chi tiêu tỏ ra là một phương
pháp tốt. Tuy nhiên, một trong những hạn chế của phương pháp này là nóđòi
hỏi rất nhiều số liệu, chi phíđiều tra cao, thời gian dài.
1.1.3. Nguyên nhân đói nghèo
Đói nghèo là hậu quảđan xen của nhiều nguyên nhân nằm trong các
nhóm nguyên nhân. Nhóm nguyên nhân khách quan, do môi trường tự nhiên
(vị trí, khí hậu, đất đai); kinh tế - xã hội (trình độ dân trí thấp, yếu tố tập quán
của từng dân tộc, từng vùng miền, chính sách của Nhà nước) và nhóm nguyên
nhân do bản thân người nghèo; đi vào phân tích các nguyên nhân như sau:
1.1.3.1. Nhóm nguyên nhân do môi trường tự nhiên; kinh tế - xã
hội
- Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt đã tác động sâu sắc đến SXKD của các
hộ gia đình, đặc biệt là các hộ nghèo.
Đói nghèo tập trung khu vực nông thôn: Nghèo cóđặc thù rõ rệt về mặt
địa lý. Ở Việt Nam, với 80% dân số và 90% số người nghèo sống ở nông

thôn “Những đặc trưng của người nghèo vẫn giống như trước đây - đói
nghèo vẫn là hiện tượng phổ biến ở nông thôn vàđối với các dân tộc thiểu số,
thìmức độđói nghèo cao và nghiêm trọng hơn so với đa số người Kinh. Các
11
11
12
đặc trưng khác của đói nghèo, là rủi ro cao về thu nhập, do thường xuyên bị
thiên tai và tình trạng thiếu việc làm nghiêm trọng ở nông thôn” [16, trang 1].
Năm 1999, tỷ lệ nghèo đói về lương thực và thực phẩm ở nông thôn là
15,9% đa số người nghèo là nông thôn (trên 80%), trình độ tay nghề thấp, ít
khả năng tiếp cận nguồn lực trong sản xuất (vốn, kỹ thuật, công nghệ…), thị
trường tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn do điều kiện địa lý và chất
lượng sản phẩm kém, chủng loại sản phẩm nghèo nàn, những người nông dân
nghèo thường không cóđiều kiện tiếp cận với hệ thống thông tin, khó có khả
năng chuyển đổi việc làm sang các ngành phi nông nghiệp. Phụ nữ nông dân
ở vùng sâu, vùng xa, nhất là phụ nữ chủ hộđộc thân, phụ nữ cao tuổi là những
nhóm nghèo dễ bị tổn thương nhất, phụ nữ nghèo lao động nhiều thời gian
hơn, nhưng thu nhập thấp hơn, họ cóít quyền quyết định trong gia đình và
cộng đồng, do đó cóít cơ hội tiếp cận các nguồn lực và lợi ích do chính sách
mang lại.
Điều kiện vị trí không thuận lợi đã hạn chế nhiều đến sản xuất, tiêu thụ
sản phẩm và sinh hoạt của các hộ gia đình. Người nghèo tập trung ở các vùng
cóđiều kiện sống khó khăn; đa số người nghèo sinh sống ở vùng miền núi,
vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn hoặc ở các vùng đồng bằng sông Cửu
Long, miền trung; do sự biến động của thời tiết (bão, lụt, hạn hán…) khiến
cho các điều kiện sinh sống và sản xuất của người dân càng thêm khó khăn,
đặc biệt sự kém phát triển về hạ tầng cơ sởđã làm cho các vùng này càng bị
tách biệt với các vùng khác. “Năm 2000, khoảng 20- 30% trong tổng số 1.870
xãđặc biệt khó khăn chưa cóđường dân sinh đến trung tâm xã; 40% số xã
chưa đủ phòng học; 5% số xã chưa có trạm y tế; 55% số xã chưa có nước

sạch; 40% số xã chưa cóđường điện đến trung tâm xã; 50% số xã chưa đủ
công trình thủy lợi nhỏ; 20% số xã chưa có chợ xã hoặc cụm xã. Bên cạnh đó,
do điều kiện thiên nhiên không thuận lợi, số người dân thuộc diện cứu trợđột
12
12
13
xuất hàng năm khá cao, khoảng 1- 1,5 triệu người. Hàng năm số hộ tái đói
nghèo trong tổng số hộ vừa thoát khỏi đói nghèo còn lớn” [4, trang 19].
Đói nghèo trong khu vực thành thị: Đa số người nghèo đô thị làm việc
trong khu vực kinh tế phi chính thức, công việc không ổn định, thu nhập thấp
và bấp bênh. Một số lao động mất việc làm do chuyển đổi cơ cấu kinh tế và
chủ sở hữu trong khu vực Nhà nước, dẫn đến điều kiện sống của họ càng khó
khăn, một số người thất nghiệp. Các hộ nghèo thường cóít đất đai và tình
trạng không cóđất đang có xu hướng tăng lên tại một số nơi. Thiếu đất đai ảnh
hưởng đến việc bảo đảm an ninh lương thực của người nghèo, cũng như khả
năng đa dạng hóa sản xuất để hướng tới sản xuất các loại cây trồng với giá trị
cao.
- Điều kiện kinh tế - xã hội
Người nghèo, đồng bào dân tộc ít người và các đối tượng có hoàn cảnh
khó khăn đặc biệt thường có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội kiếm được
việc làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉđảm bảo nhu cầu dinh
dưỡng tối thiểu và do vậy, không cóđủđiều kiện nâng cao trình độ của mình
trong tương lai, để thoát khỏi cảnh đói nghèo. Bên cạnh đó, trình độ học vấn
thấp ảnh hưởng đến các quyết định có liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi
dưỡng con cái… Những ảnh hưởng này tác động không những đối với thế hệ
hiện tại, mà cảđối với các thế hệ tương lai. Suy dinh dưỡng ở trẻ em và trẻ sơ
sinh là nhân tốảnh hưởng đến khả năng đến trường của con em các gia đình
nghèo nhất và sẽ làm cho việc thoát nghèo thông qua giáo dục, trở nên khó
khăn hơn. Số liệu thống kê về trình độ học vấn của người nghèo cho thấy,
khoảng 90% người nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Kết

quảđiều tra mức sống cho thấy, trong số người nghèo, tỷ lệ số người chưa bao
giờđi học chiếm 12%, tốt nghiệp tiểu học chiếm 39%; Trung học cơ sở chiếm
37%. Chi phí cho giáo dục đối với người nghèo còn rất lớn, chất lượng giáo
dục mà người nghèo tiếp cận được còn hạn chế, gây khó khăn cho họtrong
13
13
14
việc vươn lên thoát nghèo. Tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ giáo dục tăng
lên; 80% số người nghèo làm các công việc trong nông nghiệp có mức thu
nhập rất thấp. Trình độ học vấn thấp, hạn chế khả năng kiếm việc làm trong
các khu vực khác, trong các ngành phi nông nghiệp và những công việc mang
lại thu nhập cao vàổn định hơn. Do trình độ dân trí thấp, nên việc bất bình
đẳng giới thường xảy ra. Bất bình đẳng giới còn sâu sắc hơn tình trạng nghèo
đói trên tất cả các mặt. Ngoài những bất công mà cá nhân người phụ nữ và trẻ
em gái phải chịu đựng do bất bình đẳng giới, thì còn có những tác động bất
lợi khác đối với gia đình. Phụ nữ chiếm gần 50% trong tổng số lao động nông
nghiệp và chiếm tỷ lệ cao trong số lao động tăng thêm hàng năm trong ngành
nông nghiệp. Mặc dù vậy, nhưng phụ nữ chỉ chiếm 25% thành viên các khóa
khuyến nông về chăn nuôi và 10% các khóa khuyến nông về trồng trọt. Phụ
nữít có cơ hội tiếp cận với công nghệ, tín dụng vàđào tạo; họ thường xuyên
gặp khó khăn do gánh nặng công việc gia đình, thiếu quyền quyết định trong
hộ gia đình và thường được trả công lao động thấp hơn nam giới ở cùng một
loại công việc. Phụ nữ có học vấn thấp, dẫn tới tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh và bà
mẹ cao hơn, sức khỏe của gia đình bịảnh hưởng và trẻ em đi học ít hơn. Bất
bình đẳng giới còn là yếu tố làm gia tăng tỷ lệ sinh và tăng tỷ lệ lây truyền
HIV do phụ nữ thiếu tiếng nói và khả năng tự bảo vệ trong quan hệ tình dục.
“Nghèo cũng liên quan chặt chẽ tới nhóm dân tộc, ngay cả khi tất cả các đặc
điểm khác nhau là giống nhau, chi tiêu của một người thuộc dân tộc thiểu số
cũng thấp hơn chi tiêu của một người thuộc hộ người Kinh hoặc người Hoa
13%. Trình độ giáo dục cũng tạo sự khác biệt đáng kể; một hộ gia đình chủ hộ

có trình độ trung cấp có mức chi tiêu cao hơn mức trung bình gần 19% và nếu
chủ hộ có trình độđại học thì mức cao hơn là 31%. Con số này là 29% nếu
vợ/chồng có trình độ trung cấp và 48% nếu vợ/chồng có trình độđại học” [3,
trang 20].
14
14
15
Ngoài yếu tố dân trí ra thì phong tục, tập quán lạc hậu và các tệ nạn xã
hội như buôn bán thuốc phiện, khai thác khoáng sản bừa bãi và di dân tự do
cũng là nguyên nhân dẫn đến đói nghèo. Một số vùng đồng bào dân tộc hiện
nay vẫn còn những hủ tục lạc hậu, như người ốm không đưa đến các trạm y
tếđể chữa bệnh mà mời thầy cúng đến làm lễđể cúng “con ma” ám vào người
bệnh (họ cho rằng người ốm là do ma ám). Làm lễ cúng như thế, bệnh của
người ốm ngày càng nặng thêm và rất tốn kém về kinh tế, dẫn đến gia đình
nghèo càng nghèo thêm.
- Chính sách nhà nước
Do cơ chế chính sách Nhà nước thiếu hoặc không đồng bộ về chính
sách đầu tư xây dựng, kết cấu hạ tầng cho từng vùng nghèo, chính sách
khuyến khích sản xuất, chính sách tín dụng, chính sách giáo dục đào tạo, y tế,
chính sách đất đai…đãảnh hưởng đến kết quả XĐGN.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao vàổn định trong thời gian qua là một
trong những nhân tốảnh hưởng lớn đến mức giảm nghèo. Việt Nam đã có
những thành tích giảm đói nghèo rất đa dạng và trên diện rộng. Tuy nhiên,
quá trình phát triển và mở cửa nền kinh tế cũng có những tác động tiêu cực
đến người nghèo:
Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, tỷ lệđầu tư cho nông nghiệp và nông thôn
còn thấp, chủ yếu mới tập trung cho thuỷ lợi, các trục công nghiệp chính, chú
trọng nhiều vào đầu tư thay thế nhập khẩu, vẫn chưa chú trọng đầu tư các
ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động, chưa chú trọng khuyến khích kịp
thời phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; nhiều chính sách trợ cấp như lãi suất

tín dụng, trợ giá, trợ cước… không đúng đối tượng, làm ảnh hưởng xấu đến
sự hình thành thị trường nông thôn, thị trường ở những vùng sâu, vùng xa.
Cải cách doanh nghiệp Nhà nước và những khó khăn về tài chính của
các doanh nghiệp nhà nước đã dẫn tới việc mất đi gần 800.000 việc làm trong
giai đoạn đầu tiến hành cải cách doanh nghiệp. Nhiều công nhân bị mất việc
15
15
16
đã gặp rất nhiều khó khăn trong tìm việc làm mới và bị rơi vào nghèo đói.
Phần lớn số người này là phụ nữ, người có trình độ học vấn thấp và người lớn
tuổi.
Chính sách cải cách nền kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh,
tự do hoá thương mại tạo ra được những động lực tốt cho nền kinh tế, khuyến
khích các doanh nghiệp phát triển. Tuy nhiên, một số ngành công nghiệp thu
hút nhiều lao động chưa được chú trọng, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có khả
năng tạo việc làm chưa đựợc quan tâm và tạo cơ hội phát triển. Tình trạng
thiếu thông tin, trang thiết bị sản xuất lạc hậu, khả năng cạnh tranh của sản
phẩm thấp và năng lực sản xuất hạn chếđã làm không ít các doanh nghiệp nhỏ
và vừa bị phá sản vàđẩy công nhân vào cảnh thất nghiệp, buộc họ phải gia
nhập vào đội ngũ người nghèo.
Tăng trưởng kinh tế giúp XĐGN trên diện rộng, song việc cải thiện tình
trạnh của người nghèo về thu nhập, khả năng tiếp cận, phát triển các nguồn
lực lại phụ thuộc vào loại hình tăng trưởng kinh tế. Việc phân phối lợi ích
tăng trưởng trong các nhóm dân cư bao gồm cả các nhóm thu nhập phụ thuộc
vào đặc tính của tăng trưởng. Phân tích tình hình biển đổi về thu nhập của
nhóm dân cư cho thấy, người giàu hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế nhiều hơn
và kết quảđã làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo.
Kết cấu hạ tầng giao thông đến các vùng sâu, vùng xa, vùng đói nghèo
còn thiếu và yếu kém. Việc tiếp cận đến các vùng này còn hết sức khó khăn,
đầu tư của Nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu, đóng góp nguồn lực của

nhân dân còn hạn chế, chủ yếu bằng lao động. Hệ thống pháp luật kinh tế vẫn
chưa đầy đủ vàđồng bộ, thiếu một sốđạo luật quan trọng. Nhiều văn bản pháp
quy dưới luật chưa được ban hành kịp thời và thiếu nhất quán đã gây không ít
cản trở trong quá trình thực hiện. Chất lượng một số luật về kinh tế, một số
văn bản pháp quy dưới luật còn yếu.
16
16
17
Việc mở các lớp bồi dưỡng về khoa học kỹ thuật mới đối với hộ nghèo
còn ít, hiệu quả chưa cao. Nhà nước chưa định hướng cụ thể cho người dân
nên trồng cây gì, nuôi con gì cho phù hợp với điều kiện từng vùng, từng thời
kỳ. Rủi ro trong SXKD của hộ nghèo chưa được xử lý kịp thời để hỗ trợ họ.
1.1.3.2. Nhóm nguyên nhân do bản thân hộ nghèo
Hộ nghèo thường thiếu nhiều thứ như: Tri thức, học vấn, kỹ năng lao
động, khả năng tiếp cận thị trường, sức khỏe.
Người nghèo thường thiếu nhiều nguồn lực (vốn SXKD, kiến thức và
kỹ năng làm ăn, tư liệu sản xuất: Đất sản xuất, công cụ lao động, sức kéo…);
trong đó, thiếu khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng để SXKD là một lực cản
lớn nhất trong việc thoát khỏi đói nghèo. Người nghèo thường không đủđiều
kiện để vay được nhiều vốn, trong khi nguồn vốn tự có khiêm tốn hoặc không
có. Thiếu vốn là một trong những nguyên nhân trì hoãn khả năng đổi mới sản
xuất, áp dụng khoa học công nghệ, giống mới…Mặc dù trong khuôn khổ của
dựán tín dụng cho người nghèo thuộc chương trình XĐGN quốc gia, khả năng
tiếp cận tín dụng đã tăng lên rất nhiều. Song vẫn còn khá nhiều người nghèo,
đặc biệt là người rất nghèo không có khả năng tiếp cận với các nguồn tín
dụng. Một mặt, không có tài sản thế chấp, những người nghèo phải dựa vào
tín chấp với các khoản vay nhỏ, hiệu quả thấp đã làm giảm khả năng hoàn
vốn. Mặt khác, đa số người nghèo không có kế hoạch sản xuất cụ thể, hoặc sử
dụng các nguồn vốn vay không đúng mục đích, do vậy họ khó cóđiều kiện
tiếp cận các nguồn vốn và cuối cùng sẽ làm cho họ càng nghèo hơn. Người

nghèo, đồng bào dân tộc ít người và các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt
thường có trình độ học vấn thấp, nên không có khả năng tự giải quyết các vấn
đề vướng mắc liên quan đến pháp luật. Nhiều văn bản pháp luật có cơ chế
thực hiện phức tạp, người nghèo khó khăn nắm bắt, mạng lưới các dịch vụ
pháp lý, số lượng các luật gia, luật sư hạn chế, phân bố không đều, chủ yếu
17
17
18
ởcác vùng thành phố, thị xã… Nên người nghèo khó tiếp cận; hơn nữa phí
dịch vụ pháp lý còn cao so với khả năng tài chính của họ.
Hộ nghèo thường gặp khó khăn và thiếu tự tin trong việc giải quyết các
vấn đề của chính bản thân mình. Về giao tiếp xã hội, người nghèo thường
quan hệ với những người nghèo như mình, hoặc nghèo hơn mình. Không
muốn quan hệ với những người khá giả hơn mình. Từđó, càng làm hạn chế về
khả năng tiếp cận tư duy mới, cũng như kinh nghiệm làm kinh tế giỏi. Đây là
một cản trở lớn trong công cuộc XĐGN.
Đại đa số hộ nghèo kiến thức và kỹ năng về sản xuất yếu, phương pháp
canh tác cổ truyền đãăn sâu vào tiềm thức. Sản xuất tự cung, tự cấp là chính,
chưa có khái niệm về sản xuất hàng hoá. Kiến thức về marketting không có;
bán các sản phẩm làm ra, nhưng chưa qua chế biến, nên giá trị thấp; sản phẩm
làm ra chưa xuất phát từ nhu cầu của thị trường (bán sản phẩm của mình có,
chứ không bán cái mà thị trường cần). Người nghèo thường sống ở những
vùng xa xôi hẻo lánh, giao thông đi lại khó khăn, thiếu phương tiện thông tin
liên lạc, con cái thất học…Thiếu việc làm, không năng động tìm kiếm việc
làm, lười biếng lao động. Do sinh con nhiều, đông con vừa là nguyên nhân,
vừa là hệ quả của đói nghèo. Trong gia đình các hộ nghèo mặc dù nhân khẩu
nhiều, nhưng số người có sức lao động lại ít. Các hộ gia đình nghèo rất dễ bị
tổn thương bởi những khó khăn hàng ngày và những biến động bất thường
xảy ra đối với cá nhân, gia đình hay cộng đồng. Do nguồn thu nhập của họ rất
thấp, bấp bênh, khả năng tích luỹ kém, nên họ khó có khả năng chống chọi

với những biến cố xảy ra trong cuộc sống (mất mùa, mất việc làm, thiên tai,
mất nguồn lao động, mất sức khoẻ…). Với khả năng kinh tế mong manh của
các hộ gia đình nghèo trong khu vực nông thôn, những đột biến này sẽ tạo ra
nhưng bất ổn lớn trong cuộc sống của họ. “Các rủi ro trong SXKD đối với
người nghèo cũng rất cao, do họ không có trình độ tay nghề và thiếu kinh
nghiệm làm ăn. Khả năng đối phó và khắc phục các rủi ro của người nghèo
18
18
19
cũng rất kém, do nguồn thu nhập hạn hẹp làm cho hộ gia đình mất khả năng
khắc phục rủi ro và có thể còn gặp rủi ro hơn nữa.” [4, trang 24].
Bệnh tật và sức khỏe kém cũng là yếu tốđẩy con người vào tình trạng
đói nghèo. Khi bị bệnh tật, hộ nghèo phải gánh chịu mất đi thu nhập từ lao
động và chi phí cao cho việc khám chữa bệnh; do vậy đẩy họ vào chỗ vay
mượn, cầm cố tài sản để trang trải chi phí, dẫn đến tình trạng cóít cơ hội cho
người nghèo thoát khỏi đói nghèo. Trong khi đó, khả năng tiếp cận các dịch
vụ phòng bệnh của người nghèo còn hạn chế: Tình trạng sức khỏe của người
Việt Nam trong thập kỷ qua đãđược cải thiện, song tỷ lệ người nghèo mắc các
bệnh vẫn còn khá cao. Theo số liệu điều tra, mức sống năm 1998, số ngày ốm
bình quân của nhóm 20% người nghèo là 3,1 ngày/năm, so với 2,4 ngày/năm
của nhóm 20% người giàu. Bệnh tật và sức khoẻ yếu ảnh hưởng đến việc lao
động sản xuất và tìm việc làm của người nghèo.
Hộ nghèo do có người không chịu làm việc, hoặc hay uống rượu, hoặc
chơi cờ bạc.
1.1.4. Sự cần thiết phải đẩy mạnh xoáđói giảm nghèo
1.1.4.1. Đói nghèo là nguyên nhân gây mất ổn định xã hội, phá hoại
môi trường và cản trở nâng cao dân trí
Đa số người nghèo hiện sống tại khu vực nông thôn. Sự chênh lệch
ngày càng tăng giữa nông thôn và thành thị là nguyên nhân chính gây nên các
vấn đề xã hội. Ở nông thôn đất sản xuất có hạn và ngày càng bị thu hẹp;

ngành nghề phụ một số nơi không phát triển và có thu nhập thấp hoặc không
có ngành nghề phụ dẫn đến thời gian nông nhàn nhiều, hậu quả góp phần làm
nảy sinh các tệ nạn xã hội như cờ bạc, trộm cắp, nghiện hút. Các nguồn tài
nguyên xuống cấp và cạn kiệt, đánh bắt cá quá mức và các môi trường tự
nhiên biển bị phá hủy; môi trường tự nhiên ở vùng đất mặn và ven biển bị mất
đi; mất đất rừng tự nhiên ở các vùng núi, cùng với sự phá hoại hệ sinh thái đa
19
19
20
dạng; các vùng đất có vấn đề ngày càng lan rộng do sử dụng đất kém và
không đúng cách, ô nhiễm nước mặn, đất và nguồn nước khu vực nông thôn.
Những mất mát đi kèm với việc các hộ nghèo buộc phải bán đất, di dân tự do
ra thành thị và ven đô, nơi họ sinh sống thiếu hoặc không có những dịch vụ cơ
bản, một bộ phận con cái họ dễ trở thành nạn nhân của tội phạm (trộm cắp,
buôn bán hàng cấm, gái mại dâm…) và sự xuống cấp của môi trường xung
quanh tăng ở mức ngoài tầm kiểm soát…Nhiều hộ cả vợ chồng bỏ ra thành
phố làm ăn, một năm về nhà vài lần, ở nhà các con tự nuôi nhau hoặc ở nhà
với ông bà già, các con thiếu sự quản lý, thiếu tình thương bố mẹ, nhiều
trường hợp học hành giảm sút bị bỏ dở, tham gia trộm cắp…Tại thành phố sự
chênh lệch giàu nghèo rõ nét, thiếu việc làm, không cóđất để sản xuất dẫn đến
một số người làm ăn phi pháp, tệ nghiện hút ở thanh niên ngày càng gia
tăng…
20
20
21
1.1.4.2. Đói nghèo làm ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước
Mục tiêu tổng quát của Việt Nam trong giai đoạn 10 năm 2001- 2010
là: “ Đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống
vật chất, văn hoá, tinh thần cho nhân dân; tạo nền tảng đểđến năm 2020 Việt

Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực
con người, năng lực khoa học công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế,
quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tếđược nâng cao” [4, trang 36].
Đểđạt được những mục tiêu này, cần phải tiếp tục chuyển đổi cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh
tranh của nền kinh tế. Mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế quốc tế, tăng
cường cở sở hạ tầng kinh tế - xã hội, cải thiện hệ thống giáo dục đào tạo để
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tăng cường các lợi thế cạnh tranh trong
các cam kết thương mại song phương vàđa phương nhằm chủđộng hội nhập
kinh tế thế giới.
Tăng trưởng phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi
trường, nhằm tạo thêm việc làm, cải thiện sức khoẻ cộng đồng, XĐGN và
ngăn chặn kịp thời và có hiệu quả các tệ nạn xã hội. Muốn thực hiện các mục
tiêu nêu trên, thì yếu tố con người là yếu tốđầu tiên và có tính chất quyết định.
Vì vậy, phát triển con người là mục tiêu hàng đầu, vừa làđộng lực to lớn khơi
dậy mọi tiềm năng của cá nhân và tập thể trong công cuộc xây dựng đất nước
giàu mạnh. XĐGN là một trong những chính sách xã hội hướng phát triển con
người, nhất làđối với nhóm người nghèo, tạo cơ hội cho họ tham gia vào quá
trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Đói nghèo và lạc hậu bao giờ
cũng đi đôi với gia tăng dân số, suy giảm thể lực, trí lực… Vì vậy, XĐGN là
một yêu cầu cấp thiết để phát triển một xã hội bền vững.
21
21
22
1.1.4.3. Xoáđói giảm nghèo bảo đảm cho đất nước giàu mạnh và xã
hội phát triển bền vững
XĐGN không chỉ là công việc trước mắt, mà còn là nhiệm vụ lâu dài;
trước mắt là xoá hộđói, giảm hộ nghèo. Lâu dài là xoá sự nghèo, giảm khoảng

cách giàu nghèo, phấn đấu xây dựng một xã hội giàu mạnh, công bằng, dân
chủ, văn minh.
XĐGN góp phần thực hiện công bằng xã hội thể hiện trên các mặt:
Mở rộng cơ hội lựa chọn cho cá nhân vànhóm người nghèo, nâng cao
năng lực cá nhân để thực hiện có hiệu quả sự lựa chọn của mình trong tạo
việc làm, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Tạo cơ hội cho sự phát triển đồng đều giữa các vùng, giảm khoảng
cách và sự chênh lệch quáđáng về mức sống giữa nông thôn và thành thị,
các nhóm dân cư. XĐGN tham gia vào điều chỉnh cơ cấu đầu tư hợp lý
hơn, từng bước thực hiện sự phân phối công bằng cả trong khâu phân phối
tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất cho mỗingười, nhất
là nhóm người nghèo.
Hỗ trợ tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận dịch vụ xã hội, nhất là
những dịch vụ xã hội cơ bản.
XĐGN không đơn giản là việc phân phối lại thu nhập một cách
thụđộng, mà phải tạo ra động lực tăng trưởng tại chỗ, chủđộng vươn lên thoát
nghèo. XĐGN không đơn thuần là sự trợ giúp một chiều của tăng trưởng kinh
tếđối với các đối tượng có nhiều khó khăn; mà còn là nhân tố quan trọng tạo
ra một mặt bằng tương đối đồng đều cho phát triển, tạo thêm một lực lượng
sản xuất dồi dào và bảo đảm sựổn định cho giai đoạn “cất cánh”.
Do vậy, các chính sách ban hành để thực thi chương trình XĐGN giữ
vai trò quan trọng, góp phần tích cực hoàn thành mục tiêu tăng trưởng nhanh
và bền vững của nền kinh tế trên diện rộng với chất lượng cao, tạo cơ hội
thuận lợi để người nghèo và cộng đồng nghèo tiếp cận được các cơ hội SXKD
và hưởng thụđược từ thành quả tăng trưởng, tạo điều kiện thu hẹp dần khoảng
22
22
23
cách chênh lệch giữa các vùng trong cả nước.
1.2. T ND NGVÀHI UQU T ND NG IV IH NGHÈOÍ Ụ Ệ Ả Í Ụ ĐỐ Ớ Ộ

1.2.1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng đối với hộ nghèo
1.2.1.1. Khái niệm
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín
dụng khác với các tổ chức và cá nhân trong xã hội. Trong mối quan hệ này
ngân hàng vừa là người cho vay, vừa là người đi vay. Tuy trong kinh tế thị
trường có nhiều hình thức tín dụng, nhưng tín dụng ngân hàng là hình thức
chủ yếu và phổ biến nhất. Các ngân hàng thực tế là một trung gian tài chính
quan trọng hàng đầu trong bất kỳ một quốc gia nào.
Tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá)
giữa bên cho vay là ngân hàng và bên đi vay là cá nhân doanh nghiệp và các
chủ thể khác; trong đó, bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử
dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm
hoàn trả vôđiều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.2.1.2. Đặc điểm
- Hoạt động tín dụng ngân hàng đều được thực hiện dưới hình thức tiền tệ.
Khi nói các hình thức tín dụng khác, chẳng hạn tín dụng thương mại,
việc vay mượn dưới hình thức hiện vật (hàng hoá); ngược lại, các nghiệp vụ
tín dụng ngân hàng đều được thực hiện bằng tiền tệ. Trên cơ sở huy động mọi
nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi hoặc lâu dài trong nền kinh tế, để hình
thành quỹ cho vay; đồng thời các Ngân hàng thương mại cũng tiến hành cho
các tác nhân và tư nhân vay để bổ sung cho nhu cầu SXKD hoặc tiêu dùng.
Do huy động và cho vay bằng tiền, nên đối tượng cho vay của ngân hàng rất
linh hoạt vàđáp ứng mọi nhu cầu trong nền kinh tế.
- Ngân hàng thương mại đóng vai trò vừa là người đi vay, vừa là người
cho vay; ởđây ngân hàng đóng vai trò là tổ chức trung gian tài chính.
23
23
24
- Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng độc lập
tương đối với sự vận động và phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội.

1.2.1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hộ nghèo
Tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng đối với hộ nghèo. Nóđược
coi là công cụ quan trọng để phá vỡ vòng luẩn quẩn của thu nhập thấp, tiết
kiệm thấp và năng suất thấp, là chìa khoá vàng để giảm nghèo. Vai trò tín
dụng ngân hàng được thể hiện ở một số nội dung sau:
- Cung cấp vốn tín dụng, góp phần cải thiện thị trường tài chính cộng
đồng, nơi có hộ nghèo sinh sống:
Vốn tín dụng cho người nghèo đã góp phần cải thiện tình hình thị
trường tài chính khu vực nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt
khó khăn, vùng có nhiều đồng bào dân tộc ít người sinh sống. Trong ba yếu tố
cơ bản để hộ nghèo cóđiều kiện SXKD; đó là vốn bằng tiền hoặc đất đai, lao
động và kỹ thuật; trong đó, vốn bằng tiền đóng vai trò quan trọng nhất vì nếu
có vốn bằng tiền, thì người sản xuất có thể mua sắm các tư liệu sản xuất khác,
kể cảđất đai. Hiện nay, tích luỹ của người nghèo ở nước ta rất thấp, do đó hầu
như các hộ nghèo đều thiếu vốn để SXKD. Nhờ nguồn vốn của ngân hàng mà
các hộ nghèo cóđiều kiện tiếp cận được khoa học kỹ thuật, công nghệ mới
như các giống cây, con mới, kỹ thuật canh tác mới và cũng nhờ vay vốn, mà
hộ nghèo tiếp cận được với công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư.
- Tín dụng ngân hàng làm giảm tệ nạn cho vay nặng lãi:
Tệ nạn cho vay nặng lãi đã có từ lâu đời nay, hiện nay vẫn đang tồn tại
khá nặng nềở nông thôn, nhất là vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Cho vay nặng
lãi thể hiện ở lãi suất cao hơn nhiều so với lãi suất cho vay của ngân hàng
hoặc dưới dạng mua bán sản phẩm non như lúa non, lạc non, mía non…ở thời
kỳ giáp hạt.
Do nhu cầu cấp bách (thường là do đói kém, ốm đau bệnh tật, chi phí
con đi học hoặc nhu cầu đột xuất), nên họ phải vay nặng lãi. Tín dụng nặng
24
24
25
lãi gây nhiều tác hại cho người dân, đặc biệt là hộ nghèo, làm cho hộ nghèo

càng nghèo thêm. Chính hoạt động tín dụng ngân hàng, nhất là NHCSXH đã
trực tiếp làm giảm tệ nạn cho vay nặng lãi.
- Giúp người nghèo có việc làm, nâng cao kiến thức tiếp cận thị trường,
cóđiều kiện hoạt động SXKD trong nền kinh tế thị trường:
Cung ứng vốn cho người nghèo theo chương trình, với mục tiêu đầu tư
cho SXKD để XĐGN; sau một thời gian thu hồi cả gốc và lãi đã buộc người
vay phải tính toán trồng cây gì, nuôi con gì, làm nghề gì và làm như thế nào
để có hiệu quả kinh tế cao, tăng thu nhập cho gia đình; đồng thời trả nợ cho
ngân hàng. Để làm được điều đó, họ phải học hỏi kỹ thuật sản xuất, suy nghĩ
biện pháp quản lý. Từđó, tạo cho họ tính năng động, sáng tạo trong lao động
sản xuất, tích luỹđược kinh nghiệm trong công tác quản lý kinh tế. Mặt khác,
khi sốđông người nghèo sản xuất tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá thông qua
việc trao đổi trên thị trường, làm cho họ tiếp cận được kinh tế thị trường một
cách trực tiếp. Đồng thời giải quyết tình trạng không có việc làm cho hàng
vạn lao động nghèo, phát huy tiềm năng sẵn có của các hộ gia đình. Như
chúng ta đã biết diện tích đất nông nghiệp trên đầu người hiện nay ở các vùng
nông thôn của đất nước quá thấp (do quá trình đô thị hoá nhanh làm cho diện
tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp). Trong khi đó, số lao động nông
thôn ngày càng tăng (một phần do sinh đẻ không có kế hoạch), sản xuất thuần
nông (không có ngành nghề phụ) nên thời gian nông nhàn của người nghèo
lớn (thời gian làm việc của một lao động trong một năm chỉ khoảng 100 ngày,
còn 265 ngày không có việc làm). Tình trạng không có việc làm diễn ra phổ
biến ở các vùng nông thôn. Thông qua vốn tín dụng cho người nghèo đã hỗ
trợ phát triển ngành nghềở nông thôn, như: Chế biến nông sản, tiểu thủ công
nghiệp, dịch vụ phục vụ sản xuất vàđời sống cũng như thủ công mỹ nghệ,
ngành nghề truyền thống. Nhờ vậy, đã giải quyết việc làm cho hàng triệu lao
động. Giải quyết phần lớn thời gian nông nhàn. Tận dụng lao động để khai
25
25

×