Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

Đề tài “Phân tích lợi nhuận và một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh tại Tổng công ty Thép Việt Nam” pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.72 KB, 83 trang )

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Đề tài
“Phân tích lợi nhuận và một số giải pháp
nhằm nâng cao lợi nhuận trong sản xuất kinh
doanh tại Tổng công ty Thép Việt Nam”
1
1
MỤC LỤC
2
2
LỜI NÓI ĐẦU
Lợi nhuận là mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp, nó quyết định sự tồn tại
và phát triển của doanh nghiệp. Với những điều kiện cụ thể khác nhau, cơ chế
vận hành hoạt động kinh doanh khác nhau thì kết quả lợi nhuận cũng khác nhau.
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, các doanh nghiệp Nhà nước được Nhà
nước cấp phát vốn, cung ứng vật tư, nguyên vật liệu và bao tiêu sản phẩm, lãi
nộp Nhà nước, lỗ Nhà nước chịu. Lợi nhuận đó chưa phản ánh đầy đủ các chi
phí sản xuất và yêu cầu thực tế nghiêm khắc của thị trường, chưa kích thích
được tính chủ động sáng tạo của người quản lý và công nhân trực tiếp sản xuất.
Do đó có tình trạng lãi giả, lỗ thật. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ
kéo dài trở thành gánh nặng cho nền kinh tế, gây lãng phí nguồn lực.
Thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà
nước ban hành các chế độ chính sách, sắp xếp lại các doanh nghiệp, tạo điều
kiện để các doanh nghiệp chủ động sáng tạo, tự chịu trách nhiệm lãi lỗ về các
hoạt động của mình. Từ khi có quyết định 90/TTg và 91/TTg ngày 07/03/1994
của Thủ tướng Chính phủ, các doanh nghiệp được sắp xếp lại theo mô hình
Tổng công ty 90 và Tổng công ty 91, hoạt động kinh doanh của các doanh
3
3
nghiệp được cải thiện. Nhiều doanh nghiệp bắt đầu làm ăn có lãi tạo điều kiện


mở rộng và phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho người lao động.
Tổng công ty Thép Việt Nam được thành lập theo mô hình Tổng công ty 91.
Nhiệm vụ chính yếu của Tổng công ty là sản xuất thép, lưu thông sản phẩm thép
trên thị trường trong cả nước, nhập khẩu một số sản phẩm thép trong nước chưa
sản xuất được, cân đối cung và cầu các mặt hàng sản phẩm thép cho nền kinh tế.
Từ khi được sắp xếp lại, nhiệm vụ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tập trung vào
một đầu mối quản lý, mở rộng liên doanh liên kết với các đối tác nước ngoài và
trong nước, Tổng công ty đã từng bước ổn định sản xuất, đảm bảo cung cấp ổn
định các sản phẩm thép cho nền kinh tế, làm ăn có lãi.
Trong thời gian thực tập tốt nghiệp tại Tổng công ty Thép Việt Nam, vận
dụng những kiến thức đã học vào thực tế hoạt động kinh doanh của Tổng công
ty, em nghiên cứu vấn đề lợi nhuận của Tổng công ty và hoàn thành Luận văn
tốt nghiệp với đề tài “Phân tích lợi nhuận và một số giải pháp nhằm nâng
cao lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh tại Tổng công ty Thép Việt Nam”.
Ngoài lời nói đầu và kết luận, Luận văn tốt nghiệp gồm ba chương:
Chương I: Tổng quan về lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường.
Chương II: Thực trạng lợi nhuận của Tổng công ty Thép Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận của Tổng công ty
Thép Việt Nam.
Trên cơ sở thực trạng kinh doanh của Tổng công ty trong những năm qua, trên cơ sở
định hướng của Tổng công ty, Luận văn tốt nghiệp đã mạnh dạn đưa ra các giải pháp,
kiến nghị với Nhà nước và với Tổng công ty Thép Việt Nam nhằm nâng cao lợi nhuận
của Tổng công ty trong năm 2000 và những năm tiếp theo.
4
4
Để thực hiện Luận văn tốt nghiệp, em sử dụng các phương pháp nghiên cứu
như: Phân tích, tổng hợp, so sánh, và diễn dịch để hệ thống lại số liệu, các chỉ
tiêu đánh giá của Tổng công ty nhằm làm sáng tỏ các nội dung nghiên cứu, đề
cập trong Luận văn tốt nghiệp.

Hà Nội, ngày 30 tháng 5 năm 2001
Phạm Thị Hải
5
5
Chương I
TỔNG QUAN VỀ LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1 LỢI NHUẬN VÀ Ý NGHĨA CỦA LỢI NHUẬN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.1 Hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
a- Doanh nghiệp
Nền kinh tế nước ta được vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước đang tiếp tục đổi mới cơ
chế chính sách để tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động
mang lại hiệu quả kinh doanh và lợi nhuận cao.
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn
định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp
nhân, hoạt động kinh doanh nhằm mục đích tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở
hữu doanh nghiệp, tối đa hoá lợi nhuận và phát triển.
Ở nước ta hiện nay có nhiều loại hình doanh nghiệp hoạt động. Có thể phân
loại doanh nghiệp căn cứ vào ngành nghề, hình thức sở hữu. Dựa vào hình thức
sở hữu, các doanh nghiệp được chia thành:
- Doanh nghiệp Nhà nước
- Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn
6
6
- Doanh nghiệp tư nhân
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Doanh nghiệp Nhà nước: Theo Điều 1 Luật Doanh nghiệp Nhà nước “Doanh
nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ

chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện
các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao cho. Doanh nghiệp Nhà nước có
tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về
toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý”.
Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh là Doanh nghiệp Nhà nước hoạt
động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận. Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công
ích là Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng
theo các chính sách của Nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh.
Công ty (Công ty Trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần): là doanh nghiệp
trong đó các thành viên cùng góp vốn, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương
ứng với phần vốn góp của mình và chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công
ty trong phạm vi phần góp của mình.
Doanh nghiệp tư nhân: là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: gồm doanh nghiệp liên doanh, doanh
nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp
do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng
liên doanh hoặc hiệp định ký giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước
ngoài hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác
với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà
7
7
đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Doanh nghiệp 100% vốn đầu
tư nước ngoài do nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn tại Việt Nam.
b - Hoạt động của doanh nghiệp
Hoạt động kinh doanh là một hoạt động đặc thù của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp kinh doanh những hàng hoá, dịch vụ mà thị trường có nhu cầu, trong khả
năng nguồn lực hiện có của doanh nghiệp nhằm thu lợi nhuận cao nhất, nâng cao
thu nhập của người lao động, tích luỹ để đẩy mạnh quá trình tái sản xuất mở

rộng, góp phần tăng thu nhập quốc dân và thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát
triển. Để sản xuất hàng hoá và cung cấp dịch vụ, doanh nghiệp phải mua nguyên
nhiên liệu, các bộ phận, linh kiện rời hay bán thành phẩm của các doanh nghiệp
khác ở trong và ngoài nước. Như vậy, các doanh nghiệp muốn tồn tại phải có
mối quan hệ tương hỗ với các thành viên khác trong nền kinh tế.
Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản trong hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Chủ yếu giải quyết các vấn đề ssau đây:
- Chiến lược đầu tư:
- Nguồn vốn đầu tư cho kinh doanh;
- Sử dụng lợi nhuận của doanh nghiệp;
- Phân tích, đánh giá, kiểm tra các hoạt động tài chính để đảm bảo trạng thái
cân bằng tài chính.
- Quản lý hoạt động tài chính ngắn hạn để đưa ra các quyết định thu chi cho
phù hợp.
Các hoạt động trên nhằm đạt tới mục tiêu lợi nhuận cao nhất, sản xuất kinh
doanh không ngừng tăng trưởng và phát triển.
8
8
c- Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước hiện nay
Trong thời kỳ nền kinh tế nước ta được vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập
trung, các xí nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước chiếm địa vị thống trị trên hầu hết
các lĩnh vực kinh doanh và dịch vụ. Các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động
trong điều kiện được bao cấp của Nhà nước như:
- Mua vật tư theo giá hạ;
- Được cấp vốn, trang bị máy móc thiết bị và vay vốn theo lãi suất thấp;
- Được trả lương không đầy đủ cho người lao động, phần còn lại được Nhà
nước bao cấp ngoài lương;
- Được bao tiêu sản phẩm…
Do vậy, trên sổ sách lợi nhuận và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp Nhà
nước có thể có hoặc có thể rất lớn. Nhưng nếu tính đủ chi phí như tính đủ

nguyên giá tài sản cố định và khấu hao tài sản đủ tỷ lệ quy định; Tính đủ giá
nguyên vật liệu, động lực, ngoại tệ nhập khẩu; Tính đủ tiền lương không bao cấp
bằng hiện vật bằng bù lỗ bên ngoài của Ngân sách Nhà nước thì thực chất đó là
lãi giả, lỗ thật. Ngược lại, cũng có trường hợp đơn vị được Nhà nước bù lỗ, song
trên thực tế thì có lãi vì việc bù lỗ không căn cứ vào hoạt động xác thực của
doanh nghiệp mà căn cứ vào định mức được duyệt.
Thực hiện đường lối cải cách kinh tế, Đảng và Nhà nước đổi mới cơ chế,
chính sách, tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước tạo điều kiện để các
doanh nghiệp Nhà nước hoạt động có hiệu qủa. Doanh nghiệp Nhà nước là một
bộ phận quan trọng của nền kinh tế Nhà nước, phải giữ vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế nhiều thành phần. Đó là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước
trong sự nghiệp đổi mới kinh tế đất nước theo quy định hướng xã hội chủ nghĩa.
9
9
Từ cuối năm 1994 Nhà nước tiếp tục đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước, các
doanh nghiệp Nhà nước đã tổ chức, sắp xếp lại theo quy mô lớn trên cơ sở tập
trung để tạo tiền đề tích tụ trong hoạt động kinh doanh. Thủ tướng Chính phủ đã
thành lập 17 Tổng công ty Nhà nước hoạt động theo mô hình tập đoàn kinh
doanh lớn theo Quyết định 91/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ (gọi
tắt là Tổng công ty 91) và uỷ quyền cho các Bộ, uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương quyết định thành lập 76 Tổng công ty Nhà nước
hoạt động theo mô hình Quyết định 90/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính
phủ (gọi tắt là Tổng công ty 90).
Các Tổng công ty 91 và Tổng công ty 90 được thành lập đã nắm trọn các
ngành kinh tế kỹ thuật trọng yếu của quốc gia như: hàng không, hàng hải, bưu
chính viễn thông, xi măng, sắt thép, xăng dầu, than, điện…Sau khi được sắp xếp
lại, hiệu quả hoạt động của Doanh nghiệp Nhà nước đã từng bước được nâng lên
rõ rệt. Tuy nhiên đối với những Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh
kém hiệu quả, Nhà nước xét thấy thực sự không cần phải giữ lại thì thực hiện cổ
phần hoá, bán đấu giá, khoán, cho thuê hoặc giải thể.

1.1.2- Lợi nhuận và nguồn hình thành lợi nhuận
1.1.2.1- Lợi nhuận
a. Các quan điểm về lợi nhuận :
Từ trước tới nay, có rất nhiều các quan điểm khác nhau về lợi nhuận. Ta có thể
thấy được điều này qua các quan điểm về lợi nhuận sau :
+ Lợi nhuận của doanh nghiệp: là khoản chênh lệch giữa thu nhập về tiêu thụ
hàng hoá và dịch vụ với chi phí đã bỏ ra để đạt được thu nhập đó. Việc tính toán
thu nhập hay chi phí đã chi ra là theo giá cả của thị trường mà giá cả thị trường
do quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ quyết định.
10
10
+ Lợi nhuận: là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động SXKD, là chỉ tiêu
chất lượng tổng hợp đánh giá hiệu qủa kinh tế các hoạt động SXKD của doanh
nghiệp.
+ Thu nhập của doanh nghiệp hay chính là doanh thu bán hàng hoá và dịch vụ
trừ đi toàn bộ chi phí sản xuất (chi phí về tiền thuê lao động, tiền lương, tiền
thuê nhà cửa, tiền mua vật tư ) thuế hàng hoá và các thứ thuế khác hầu như
còn lại được gọi là lợi nhuận. Có thể biểu diễn qua biểu sau :
Biểu 1 : Mối quan hệ giữa doanh thu, chi phí, thuế và lợi nhuận.

Doanh thu bán hàng và dịch vụ
Lãi gộp
Chi phí biến đổi Chi phí cố định Lợi nhuận trước thuế
Tổng chi phí sản xuất Thuế
Lợi nhuận
thuần túy
b- Các loại lợi nhuận của doanh nghiệp :
Trong doanh nghiệp, có nhiều loại hình lợi nhuận khác nhau, ta có thể khái
quát thành các loại lợi nhuận sau :
+ Lợi nhuận trước thuế.

+ Lợi nhuận sau thuế.
1.1.2.2- Các nguồn hình thành lợi nhuận của doanh nghiệp :
Nội dung hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp rất phong
phú và đa dạng, do đó lợi nhuận đạt được từ các hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp cũng hình thành từ nhiều nguồn khác nhau.
Thứ nhất: Lợi nhuận của các hoạt động sản xuất kinh doanh chính và phụ là
khoản chênh lệch giữa doanh thu về tiêu thụ và chi phí của khối lượng sản phẩm
hàng hoá lao vụ thuộc các hoạt động sản xuất kinh doanh chính phụ của doanh
nghiệp.
11
11
Thứ hai : Lợi nhuận của các hoạt động liên doanh liên kết là số chênh lệch giữa
thu nhập phân chia từ kết qủa hoạt động liên doanh liên kết với chi phí của
doanh nghiệp đã chi ra để tham gia liên doanh.
Thứ ba: Lợi nhuận thu được từ các nghiệp vụ tài chính là chênh lệch giữa các
khoản thu chi thuộc các nghiệp vụ tài chính trong quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ tư : Lợi nhuận do các hoạt động sản xuất kinh doanh khác mang lại là lợi
nhuận thu được do kết quả của hoạt động kinh tế khác ngoài các hoạt động kinh
tế trên.
Lợi nhuận giữ vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của bất
kỳ một doanh nghiệp nào. Vì trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế
thị trường doanh nghiệp có tồn tại và phát triển hay không thì điều quyết định là
doanh nghiệp đó phải tạo ra lợi nhuận. Vì thế lợi nhuận được coi là một trong
những đòn bẩy kinh tế quan trọng, đồng thời là một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá
hiệu quả sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận tác động đến tất cả các mặt hoạt động
của doanh nghiệp. Việc thực hiện các chỉ tiêu lợi nhuận là điều kiện quan trọng
đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp được vững chắc.
Lợi nhuận của quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp là chỉ
tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh toàn bộ kết quả và hiệu qủa của qúa trình kinh

doanh, của tất cả các mặt hoạt động trong quá trình kinh doanh ấy, nó phản ánh
cả về mặt lượng và mặt chất của quá trình kinh doanh, của hoạt động kinh
doanh. Công việc kinh doanh tốt sẽ đem lại lợi nhuận nhiều từ đó lợi nhuận có
khả năng tiếp tục quá trình kinh doanh có chất lượng và hiệu quả hơn. Trong
trường hợp ngược lại doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả dẫn đến thua lỗ nếu
kéo dài có thể dẫn đến phá sản.
1.2- PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH LỢI NHUẬN VÀ PHÂN PHỐI LỢI
NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP
12
12
1.2.1- Các phương pháp xác định lợi nhuận của Doanh nghiệp
Như ta đã biết lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh số lượng và chất lượng của các
mặt hoạt động sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu này phụ thuộc vào tổng mức tiêu
thụ sản phẩm hàng hoá và chi phí đã chi ra để đạt được kết quả đó.
Ta có thể xác định được lợi nhuận theo công thức sau:
Tổng lợi
nhuận trước
thuế
=
Tổng
doanh thu
-
Tổng chi phí sản
xuất kinh doanh
Hay :
Tổng lợi
nhuận trước
thuế
=
Tổng

doanh thu
-
Chi phí cố
định
+
Chi phí
biến đổi
- Tổng doanh thu: là tổng số tiền thu được về bán hàng hoá và dịch vụ.
- Chi phí cố định: là những khoản chi phí không thay đổi theo khối lượng công
việc hoàn thành, không thay đổi khi sản lượng thay đổi như khấu hao tài sản cố
định, tiền thuê đất, máy móc thiết bị, phương tiện kinh doanh, tiền lương, bảo
hiểm xã hội của cán bộ công nhân viên (lao động gián tiếp trong doanh nghiệp ).
- Chi phí biến đổi: là những chi phí tăng hoặc giảm cùng với sự tăng hoặc giảm
của sản lượng như tiền mua nguyên vật liệu, tiền lương công nhân trực tiếp sản
xuất. Chi phí biến đổi nói chung tỷ lệ với khối lượng hàng hoá sản xuất hay mua
vào để bán.
Tổng lợi
nhuận sau
thuế
=
Tổng
doanh thu
-
Tổng chi phí sản
xuất kinh doanh
+
Chi phí
biến đổi
Các khoản thuế phải nộp bao gồm :
- Thuế doanh thu = Tổng doanh thu x tỷ lệ thuế doanh thu phải nộp

- Thuế tài
nguyên (nếu có)
=
Giá thành khối lượng
sản phẩm
x
Tỷ lệ thuế tài nguyên
phải nộp
- Thuế xuất = Doanh thu xuất x Tỷ lệ thuế
13
13
nhập khẩu
(nếu có)
nhập khẩu xuất nhập khẩu
- Thuế vốn =
Vốn sản xuất do
ngân sách nhà nước
cấp
x
Tỷ lệ thuế
vốn phải nộp
Ngoài ra doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận từ các hoạt động kinh
doanh khác không mang tính chất tiêu thụ hàng hoá.
Lợi nhuận từ các hoạt
động kinh doanh
khác
= Tổng thu nhập -
Tổng chi phí bỏ
ra
Như vậy ta có thể xác định tổng lợi nhuận của doanh nghiệp như sau :

Tổng lợi nhuận của
doanh nghiệp
=
Tổng lợi nhuận
từ sản xuất kinh
doanh
+
Lợi nhuận từ hoạt
động kinh doanh
khác
Khi đã tính toán được tổng số lợi nhuận của doanh nghiệp ta còn phải xác
định số thuế lợi tức doanh nghiệp phải nộp.
Thuế lợi tức phải
nộp
=
Tổng số lợi
nhuận
x
Tỷ lệ thuế lợi tức
phải nộp
Số lợi nhuận còn lại sau khi đã trừ đi thuế lợi tức được gọi là lợi nhuận thuần
túy của doanh nghiệp.
Như chúng ta đã biết: Toàn bộ doanh thu, giá thành toàn bộ và thuế đều được
xác định dựa trên cơ sở khối lượng sản phẩm tiêu thụ, giá bán đơn vị, giá thành
đơn vị và mức thuế đơn vị sản phẩm tiêu thụ. Do đó tổng lợi nhuận tiêu thụ còn
có thể được tính theo công thức sau :
14
14
n mm
∑ln = [ ∑ (Qi x Gi ) - ( ∑ Zi + ∑Ti )]

∑ln : Tổng lợi nhuận của doanh nghiệp
Qi : Sản lượng hàng hoá tiêu thụ
Gi : Giá bán hàng hoá loại i
Zi : Giá thành hàng hoá loại i
Ti : Thuế hàng hoá loại i tiêu thụ
n : Số loại hàng hoá
m : Số loại thuế
Qua công thức xác định lợi nhuận trên ta có thể thấy rõ được sự ảnh hưởng
của từng nhân tố sản lượng tiêu thụ, cơ cấu mặt hàng, giá thành sản phẩm và các
loại thuế đến tổng số lợi nhuận đạt được của doanh nghiệp. Ta có thể xét sự ảnh
hưởng của các nhân tố trên qua việc phân tích dưới đây:
a- Nhân tố sản lượng sản phẩm tiêu thụ:
Trong trường hợp các nhân tố khác không biến động (nhân tố về giá cả, giá
thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá dịch vụ tiêu thụ, thuế ) thì sản lượng tiêu thụ
tăng giảm bao nhiêu lần tổng số lợi nhuận tiêu thụ cũng tăng giảm bấy nhiêu.
Nhân tố này được coi là nhân tố chủ quan của doanh nghiệp trong công tác quản
lý kinh doan nói chung và quản lý tiêu thụ nói riêng. Việc tăng sản lượng tiêu
thụ phản ánh kết quả tích cực của doanh nghiệp từ khâu sản xuất đến khâu
chuẩn bị tiêu thụ và tiêu thụ sản phẩm.
b- Nhân tố kết cấu mặt hàng tiêu thụ:
Việc thay đổi tỷ trọng mặt hàng tiêu thụ có liên quan đến việc xác định chính
sách sản phẩm, cơ cấu mặt hàng của doanh nghiệp. Mỗi loại mặt hàng có tỷ
trọng mức lãi lỗ khác nhau do đó nếu tăng tỷ trọng những mặt hàng có mức lãi
cao, giảm tỷ trọng tiêu thụ những mặt hàng có mức lãi thấp thì mặc dù tổng sản
lượng tiêu thụ có thể không đổi nhưng tổng số lợi nhuận có thể vẫn tăng.
15
15
i=li=l i=l
Việc thay đổi tỷ trọng mặt hàng tiêu thụ lại chịu ảnh hưởng của nhu cầu thị
trường. Về ý muốn chủ quan thì doanh nghiệp nào cũng muốn tiêu thụ nhiều

những mặt hàng mang lại lợi nhuạan cao song ý muốn đó phải đặt trong mối
quan hệ cung cầu trên thị trường và những nhân tố khách quan tác động.
c- Nhân tố giá bán sản phẩm:
Trong điều kiện bình thường đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
bình thường, giá bán sản phẩm do doanh nghiệp xác định. Trong trường hợp này
giá bán sản phẩm thay đổi thường do chất lượng sản phẩm thay đổi. Do việc
thay đổi này mang tính chất chủ quan, tức là phản ánh kết quả chủ quan của
doanh nghiệp trong quản lý sản xuất kinh doanh nói chung và quản lý chất
lượng nói riêng. Khi giá bán sản phẩm tăng sẽ làm tổng số lợi nhuận tiêu thụ. Từ
phân tích trên có thể suy ra rằng việc cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm là
biện pháp cơ bản để tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Mặt khác việc thay đổi
giá bán cũng do tác động của quan hệ cung cầu, của cạnh tranh đây là tác
động của yếu tố khách quan.
d- Nhân tố giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ:
Giá thành toàn bộ sản phẩm là tập hợp toàn bộ các khoản mục chi phí mà
doanh nghiệp đã chi ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Giá thành sản phẩm
cao hay thấp phản ánh kết quả của việc quản lý, sử dụng lao động, vật tư kỹ
thuật, tiền vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu như
sản lượng sản xuất, giá cả, mức thuế không thay đổi thì việc giảm giá thành sẽ là
nhân tố tích cực ảnh hưởng đến việc tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
e- Nhân tố thuế nộp ngân sách:
Ảnh hưởng của thuế đối với lợi nhuận là không theo cùng một tỷ lệ. Việc tăng
giảm thuế là do yếu tố khách quan quyết định (chính sách, luật định của nhà
nước). Với mức thuế càng cao thì lợi nhuận của doanh nghiệp càng giảm nhưng
doanh nghiệp vẫn phải có nghĩa vụ đóng thuế đầy đủ cho nhà nước.
16
16
1.2.2- Chế độ phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp :
Lợi nhuận tạo ra sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh một phần được trích nộp
vào ngân sách nhà nước, một phần để lại doanh nghiệp.

Phần trích nộp vào ngân sách nhà nước biểu hiện ở hình thức nộp thuế lợi tức
đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào (tỷ lệ nộp thuế lợi tức đối với các doanh
nghiệp sản xuất thường là 25% và 45% đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ).
Phần để lại doanh nghiệp được trích vào 3 qũy đó là qũy khuyến khích phát triển
sản xuất, qũy phúc lợi và qũy khen thưởng theo các tỷ lệ sau:
- Qũy khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh > 35%.
- Qũy phúc lợi và khen thưởng < 65%.
Việc trích lợi nhuận vào qũy khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh
giúp cho doanh nghiệp có tích lũy tạo khả năng tái sản xuất mở rộng nhằm phát
triển quy mô sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ có khả
năng đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, cải tiến chất lượng sản phẩm, nâng cao
khả năng cạnh tranh từ đó có điều kiện tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn, đạt
lợi nhuận cao hơn.
Còn phần trích vào qũy phúc lợi và qũy khen thưởng nhằm mục tiêu tạo ra
công cụ khuyến khích người lao động không ngừng nâng cao tay nghề và trình
độ, tăng năng suất lao động, cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao đời sống của
người lao động, là động lực giúp cho người lao động gắn bó với doanh nghiệp
hơn.
1.3- CÁC CHỈ TIÊU TỶ SUẤT LỢI NHUẬN VÀ CÁC BIỆN PHÁP
TĂNG LỢI NHUẬN
1.3.1- Các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận
a- Ý nghĩa của các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận:
17
17
Khi tính toán hiệu qủa của hoạt động sản xuất kinh doanh chúng ta không thể
coi lợi nhuận là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá chất lượng của hoạt động sản xuất
kinh doanh và cũng không chỉ dùng chỉ tiêu này để so sánh chất lượng hoạt
động của các doanh nghiệp khác nhau. Trước hết lợi nhuận là kết quả tài chính
cuối cùng nó chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khách quan và chủ quan, đồng

thời các nhân tố này lại tác động lẫn nhau. Như do điều kiện sản xuất kinh
doanh, điều kiện vận chuyển hàng hoá, điều kiện thị trường tiêu thụ, thời điểm
tiêu thụ có khác nhau cũng làm cho lợi nhuận của các doanh nghiệp khác nhau.
Hơn nữa quy mô của các doanh nghiệp sản xuất cùng loại sản phẩm hàng hoá
và dịch vụ khác nhau thì lợi nhuận thu được cũng sẽ khác nhau. Ở những doanh
nghiệp lớn có thể công tác quản lý kém nhưng số lợi nhuận thu được vẫn lớn
hơn những doanh nghiệp có quy mô nhỏ nhưng công tác quản lý lại rất tốt.
Do vậy để đánh giá một cách đầy đủ hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp thì phải sử dụng các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận. Các chỉ tiêu tỷ
suất lợi nhuận chính là các chỉ tiêu sinh lời kinh doanh biểu hiện mối quan hệ
giữa lợi nhuận và chi phí sản xuất thực tế hoặc với nguồn lực tài chính để tạo ra
lợi nhuận. Đồng thời cũng thể hiện trình độ năng lực kinh doanh của nhà kinh
doanh trong việc sử dụng các yếu tố đó. Như vậy ngoài chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt
đối còn phải dùng các chỉ tiêu tương đối là tỷ suất lợi nhuận.
b- Các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận:
* Tỷ suất lợi nhuận của vốn:
Đây là quan hệ tỷ lệ giữa số lợi nhuận đạt được với số vốn đã chi ra bao gồm
các vốn cố định và vốn lưu động.
Công thức:
Tỷ suất lợi nhuận
của vốn
=
Tổng số lợi nhuận
Tổng vốn sản xuất kinh doanh
18
18
Tổng số vốn sản xuất kinh doanh bao gồm vốn cố định và vốn lưu động đã chi
ra (trong đó vốn cố định là nguyên giá tài sản cố định trừ đi số đã khấu hao và
vốn lưu động là vốn dự trữ sản xuất, vốn thành phẩm dở dang, vốn thành
phẩm).

Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận của vốn cho thấy hiệu quả sử dụng một đồng vốn
sản xuất tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Để nâng cao chỉ tiêu này đòi hỏi
doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm vốn trong các khâu của
quá trình sản xuất kinh doanh.
* Tỷ suất lợi nhuận của giá thành :
Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận tiêu thụ so với giá thành toàn bộ của sản phẩm
hàng hoá và dịch vụ tiêu thụ.
Công thức:
Tỷ suất lợi nhuận
của giá thành
=
Tổng số lợi nhuận
Giá thành toàn bộ sản phẩm hàng
hoá & dịch vụ tiêu thụ
Chỉ tiêu này cho thấy hiệu quả của một đồng chi phí sử dụng trong việc tạo ra
lợi nhuận. Điều này cho phép doanh nghiệp tìm biện pháp hạ giá thành để nâng
cao hiệu quả kinh doanh.
* Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu bán hàng:
Là một chỉ số phản ánh kết qủa hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, biểu hiện quan hệ giữa tỷ lệ lợi nhuận tiêu thụ và doanh thu bán hàng.
Công thức:
Tỷ suất doanh lợi =
Tổng số lợi nhuận
Tổng doanh thu tiêu thụ
hàng hoá & dịch vụ
19
19
Qua công thức cho thấy hiệu quả của một đồng doanh thu thì tạo ra được bao
nhiêu đồng lợi nhuận.
* Tỷ suất lợi nhuận theo lao động :

Là so sánh giữa tổng lợi nhuận với số lượng lao động tham gia vào quá trình
sản xuất kinh doanh hoặc với tổng chi phí về tiền lương (tiền công) sử dụng
trong quá trình sản xuất kinh doanh. Điều này có tác dụng khuyến khích các
doanh nghiệp quản lý và sử dụng tốt lao động trong doanh nghiệp theo các hợp
đồng lao động.
Công thức :
Tỷ suất lợi nhuận
theo lao động
=
Tổng số lợi nhuận
Tổng lao động sử dụng trong kỳ
1.3.2- Các biện pháp nhằm tăng lợi nhuận trong doanh nghiệp
Qua việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc tăng lợi nhuận ở phần trên
ta có thể đưa ra một số biện pháp chính nhằm tăng lợi nhuận trong các doanh
nghiệp như sau:
a- Tăng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ theo nhu cầu trong nước và quốc tế
trên cơ sở phấn đấu nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ:
Nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng hay của thị trường rất đa dạng và
phong phú, dễ biến động. Trong điều kiện các nhân tố khác ổn định thì việc tăng
lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ theo nhu cầu thị trường sẽ làm tăng lợi
nhuận của doanh nghiệp. Muốn tăng được khối lượng sản phẩm tiêu thụ cần
chuẩn bị tốt các yếu tố và điều kiện cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh
được tiến hành thuận lợi, tổ chức tốt quá trình sản xuất kinh doanh một cách cân
đối nhịp nhàng và liên tục, khuyến khích người lao động tăng nhanh năng suất
lao động.
20
20
Phấn đấu nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ: Nhu cầu thị
trường đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, phấn
đấu cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng mẫu mã sản phẩm tiêu thụ là điều

kiện để tăng nhanh khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp từ đó giúp tăng lợi
nhuận cho doanh nghiệp. Đối với những sản phẩm có hàm lượng chất xám cao
cho ta khả năng nâng cao giá trị và giá trị sử dụng nâng cao khả năng cạnh tranh
trên thị trường. Nhưng để nâng cao được chất lượng sản phẩm đòi hỏi bản thân
doanh nghiệp phải nỗ lực cố gắng.
b- Tăng cường tiêu thụ những sản phẩm có tỷ trọng lợi nhuận cao:
Mỗi doanh nghiệp thu được những nguồn lợi nhuận khác nhau từ những mặt
hàng tiêu thụ khác nhau. Đối với những mặt hàng tiêu thụ có tỷ trọng lợi nhuận
lớn doanh nghiệp phải phấn đấu tăng lượng tiêu thụ và chú trọng vào sản xuất
mặt hàng đó nhiều hơn. Trong điều kiện cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh
nghiệp phải sản xuất kinh doanh theo kiểu tổng hợp do vậy mà cơ cấu mặt hàng
rất đa dạng và phong phú. Có thể có mặt hàng không có lãi hay lãi thấp, có mặt
hàng có lãi cao vậy để tăng lợi nhuận doanh nghiệp nên chú trọng việc tăng mặt
hàng thu được lợi nhuận cao.
c- Phấn đấu hạ giá thành sản phẩm và các chi phí khác nhằm tăng lợi
nhuận của doanh nghiệp:
Đây là nhân tố quan trọng đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, giá thành là
tổng hợp của nhiều nhân tố chi phí tạo nên trong đó bao gồm các chi phí chính
như: Chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng thứ nữa là các chi phí tiền
lương, tiền công và cuối cùng là chi phí cố định (thể hiện qua việc khấu hao tài
sản cố định hàng năm được tính vào giá thành) do vậy để hạ giá thành sản phẩm
cần phải giảm các nhân tố chi phí trên:
- Biện pháp tiết kiệm nguyên vật liệu, năng lượng: Cần phải cải tiến định mức
tiêu hao, cải tiến phương pháp công nghệ, sử dụng tổng hợp nguyên liệu, vật
21
21
liệu thay thế, giảm tỷ lệ phế phẩm, giảm chi phí mua sắm, vận chuyển, bảo quản
và tiết kiệm nguyên vật liệu.
Ảnh hưởng của biện pháp này đến việc hạ giá thành sản phẩm được tính theo
công thức:

Chỉ số hạ
giá thành do
giảm chi phí
NVL
=
Chỉ số định
mức NVL
x
Chỉ
số
giá
cả
-1 x
Chỉ số tỷ
trọng NVL
trong giá
thành sản
phẩm
- Biện pháp giảm chi phí tiền lương và tiền công trong giá thành sản phẩm:
Muốn giảm chi phí tiền lương và tiền công trong giá thành sản phẩm cần tăng
nhanh năng suất lao động bằng cách cải tiến công tác tổ chức sản xuất, tổ chức
lao động, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghiệp, nâng cao trình độ
người lao động, có chế độ khuyến khích người lao động thích hợp bằng cách áp
dụng hình thức lương hưởng đúng mức.
Năng suất lao động tăng nhanh hơn chi phí về tiền lương bình quân sẽ cho
phép giảm chi phí trong giá thành sản phẩm. Do đó khoản mục chi phí và tiền
công trong giá thành sản phẩm sẽ giảm theo tỷ lệ với tỷ trọng tiền lương trong
giá thành sản phẩm.
Ảnh hưởng của việc giảm chi phí tiền lương sẽ được tính toán theo công thức:
Chỉ số hạ giá

thành sản phẩm
do tăng năng suất
lao động
=
Chỉ số tiền
lương bình
quân
-1 x
Chỉ số chi phí tiền
lương trong giá thành
sản phẩm
Chỉ số tăng
năng suất lao
động
- Biện pháp giảm chi phí cố định trong giá thành sản phẩm:
22
22
Giảm chi phí cố định ở đây không có nghĩa là phải đầu tư những công nghệ rẻ
tiền, cũ kỹ mà phải sử dụng những công nghệ tiên tiến nhằm tăng lượng sản
phẩm sản xuất ra. Tốc độ tăng sản phẩm hàng hoá sẽ làm cho chi phí cố định
trong giá thành sản phẩm giảm vì tốc độ tăng chi phí nhỏ hơn tốc độ tăng sản
phẩm. Như vậy để tăng lượng sản phẩm sản xuất, phải mở rộng quy mô sản
xuất, tăng năng suất lao động.
Ảnh hưởng của biện pháp này được xác định theo công thức :
Chỉ số giảm giá
thành do giảm chi
phí cố định =
Chỉ số chi phí
cố định


-1 x

Chỉ số chi phí cố định
trong giá thành sản
phẩm
Chỉ số sản
lượng
Trên cơ sở tính toán được ảnh hưởng của các nhân tố trong giá thành sản
phẩm ta phải kết hợp các nhân tố để làm sao giảm được các chi phí ở mức tối ưu
(không nhất thiết là giảm càng nhiều càng tốt như vậy sẽ ảnh hưởng tới chất
lượng sản phẩm).
d- Tổ chức tốt khâu tiêu thụ sản phẩm hàng hóa và dịch vụ nhằm giảm chi
phí tiêu thụ:
Để thấy được hiệu quả rõ rệt của sản xuất kinh doanh thì nhất thiết phải làm
tốt khâu tiêu thụ sản phẩm. Dù cho sản phẩm có chất lượng tốt như thế nào,
công tác sản xuất có hiệu quả đến mấy mà sản phẩm không tiêu thụ được thì sẽ
không có lợi nhuận. Để thực hiện tốt công tác này cần có những biện pháp xúc
tiến bán hàng như quảng cao, khuyến mãi các kênh tiêu thụ phân phối hợp lý,
làm tốt công tác dịch vụ sau bán hàng.
1.4- CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LỢI NHUẬN VÀ TÍNH TẤT
YẾU CỦA VIỆC NÂNG CAO LỢI NHUẬN TRONG DOANH NGHIỆP
1.4.1- Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp
23
23
Lợi nhuận của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp và tổng hợp của tất cả
các mặt hàng sản xuất kinh doanh. Dưới đây ta đi sâu vào xem xét cụ thể từng
nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận.
a- Quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ trên thị trường:
Do tham gia hoạt động tìm kiếm lợi nhuận theo nguồn cơ chế thị trường nên
doanh nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp của nhân tố quan hệ cung - cầu hàng hoá

dịch vụ. Sự biến động này có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự ứng xử thích hợp để thu được lợi
nhuận. Nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ lớn trên thị trường sẽ cho phép các
doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh để đảm bảo cung lớn. Điều
đó tạo khả năng lợi nhuận của từng đơn vị sản phẩm hàng hoá, nhưng đặc biệt
quan trọng là tăng tổng số lợi nhuận. Cung thấp hơn cầu sẽ có khả năng định giá
bán hàng hoá và dịch vụ, ngược lại cung cao hơn cầu thì giá cả hàng hoá và dịch
vụ sẽ thấp điều này ảnh hưởng đến lợi nhuận của từng sản phẩm hàng hóa hay
tổng số lợi nhuận thu được.
Trong kinh doanh các doanh nghiệp coi trọng khối lượng sản phẩm hàng hoá
tiêu thụ, còn giá cả có thể chấp nhận ở mức hợp lý để có lãi cho cả doanh nghiệp
công nghiệp và doanh nghiệp thương mại, khuyến khích khách hàng có thể mua
với khối lượng lớn nhất để có tổng mức lợi nhuận cao nhất. Muốn vậy các doanh
nghiệp phải tìm các biện pháp kích thích cầu hàng hoá và dịch vụ của mình, nhất
là cầu có khả năng thanh toán bằng cách nâng cao chất lượng hàng hoá và dịch
vụ, cải tiến phương thức bán hàng
b- Chất lượng công tác chuẩn bị cho quá trình kinh doanh:
Để cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp đạt
tới lợi nhuận nhiều và hiệu quả kinh tế cao, các doanh nghiệp cần phải chuẩn bị
tốt các điều kiện, các yếu tố chi phí thấp nhất. Các đầu vào được lựa chọn tối ưu
sẽ tạo khả năng tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, chi phí
sản xuất và giá thành sản phẩm giảm. Do đó cơ sở để tăng lợi nhuận cho các
24
24
doanh nghiệp công nghiệp là chuẩn bị các đầu vào hợp lý, tiết kiệm tạo khả năng
tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Nội dung của công tác chuẩn bị cho quá trình sản xuất kinh doanh phụ thuộc vào
nhiệm vụ, tính chất sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Trước hết đó là chuẩn bị tốt về khâu thiết kế sản phẩm và công nghệ sản xuất.
Thiết kế sản phẩm và công nghệ chế tạo hợp lý sẽ tạo điều kiện giảm thời gian

chế tạo, hạ giá thành, tạo lợi nhuận cho quá trình tiêu thụ.
Tiếp đó là chuẩn bị tốt các yếu tố vật chất cần thiết cho quá trình sản xuất như
lao động ( số lượng, chất lượng, cơ cấu ) máy móc thiết bị, dụng cụ sản xuất
được thuận lợi, nhịp nhàng và liên tục giúp nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Cuối cùng là doanh nghiệp phải có phương án hợp lý về tổ chức điều hành
quá trình sản xuất (tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý).
c- Nhân tố về trình độ tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm:
Tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm hàng hoá và dịch vụ là quá trình thực
hiện sự kết hợp chặt chẽ các yếu tố đầu vào như lao động, vật tư, kỹ thuật để
chế tạo ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Qúa trình này tiến hành tốt hay xấu
ảnh hưởng trực tiếp đến việc tạo ra số lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ, chất
lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ, chi phí sử dụng các yếu tố để sản xuất ra sản
phẩm hàng hoá dịch vụ đó.
Điều đó chứng tỏ rằng muốn tạo ra lợi nhuận cao cần phải có trình độ tổ chức
sản xuất sao cho tiết kiệm được chi phí ở mức tối đa mà không ảnh hưởng đến
chất lượng của sản phẩm tiêu thụ.
d- Nhân tố trình độ tổ chức tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ :
Sau khi doanh nghiệp đã sản xuất được sản phẩm hàng hoá và dịch vụ theo
quyết định tối ưu về sản xuất thì khâu tiếp theo sẽ là phải tổ chức bán nhanh, bán
hết, bán với giá cao những hàng hoá và dịch vụ đó để thu được tiền về cho quá
trình tái sản xuất mở rộng tiếp theo.
25
25

×