Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình toàn cầu hoá..." potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.22 KB, 36 trang )

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Đề tài
“Nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp Việt Nam trong quá
trình toàn cầu hoá "
1
1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa đang bao trùm cả thế giới, Khi toàn cầu hóa
về nền kinh tế đang trở thành một xu hướng khách quan thì yêu cầu hội nhập
nền kinh tế quốc tế càng trở nên cấp bách.Toàn cầu hóa đòi hỏi mỗi nước phải
liên kết với các quốc gia khác để cùng phát triển.Và Việt Nam cũng không
nằm ngoài xu thế chung của thế giới
2
2
Quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế và hội nhập kinh tế thế giới, đòi hỏi mỗi
quốc gia, mỗi dân tộc phải có sự cạnh tranh,Việt Nam của chúng ta cũng
vậy.Là một nước đang phát triển, việc tham gia vào quá trình hội nhập và toàn
cầu hóa thế giới đã và đang đặt ra cho chúng ta nhiều cơ hội, cũng như nhiều
thách thức. Sức cạnh tranh là một yếu tố cần thiết, cấp bách và không thể
thiếu đối với bất kỳ quốc gia, hay bất kỳ dân tộc nào.
Kinh tế thế giới phát triển, quốc tế hóa thương mại đòi hỏi các nước phải
xóa bỏ rào cản,chấp nhận tự do buôn bán,vì thế mỗi nước phải mở cửa thị
trường trong nước, điều đó cũng đồng nghĩa với việc nâng cao sức cạnh tranh
của nước đó phù hợp với sự phát triển của thế giới. Do đó, chúng ta phải làm
thế nào để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam (về chất lượng
và giá cả của hàng hóa ,dịch vụ) .Nhưng làm sao và làm thế nào để nâng cao
sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta hiện nay đang là vấn đề hết sức nan
giải và có thể nói là đầy khó khăn, đang được nhiều người quan tâm.
Với trình độ và khả năng hiểu biết của mình còn hạn chế, em xin trình bày


đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong
quá trình toàn cầu hoá,,
3
3
Phần 1
LÝ THUYẾT VỀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH
1.1. Khái niệm và chỉ tiêu phản ánh khả năng cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm khả năng cạnh tranh
Cho tới nay đã có nhiều tác giả đưa ra các cách hiểu khác nhau về khả
năng cạnh tranh của một doanh nghiệp cũng như của một quốc gia.
Ở tầm quốc gia. Theo định nghĩa của WEF (Diễn đàn kinh tế thế giới) thì:
“Khả năng cạnh tranh của một quốc gia là khả năng đạt và duy trì được mức
tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế vững bền tương đối và các
đặc trưng kinh tế khác”.
Ở cấp doanh nghiệp. Theo Fafchamps cho rằng: “Khả năng cạnh tranh
của một doanh nghiệp là khả năng của doanh nghiệp đó có thể sản xuất sản
phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường”.
Theo khái niệm này, doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất ra sản phẩm có
chất lượng tương tự sản xuất của doanh nghiệp khác nhưng với chi phí thấp
hơn thì coi là có khả năng cạnh tranh.
Theo tôi, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có thể hiểu là: “Năng lực
nắm giữ thị phần nhất định với mức độ hiệu quả chấp nhận được, vì vậy khi
thị phần tăng lên cho thấy khả năng cạnh tranh nâng cao”. Quan điểm có thể
áp dụng đối với từng doanh nghiệp, một nền công nghiệp cũng như đối với
một quốc gia trong cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới hay khu vực.
1.1.2. Các chỉ tiêu phản ánh khả năng cạnh tranh
Thị phần của doanh nghiệp: Đây là một chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
Thị phần của doanh nghiệp
4

4
- Thị phần của doanh nghiệp so với toàn bộ thị trường. Đó là tỷ lệ % giữa
giá trị sản phẩm của doanh nghiệp bán ra so với giá trị của toàn ngành.
- Thị phần của doanh nghiệp so với phân khúc mà nó phục vụ. Đó chính
là tỷ lệ phần trăm giữa doanh số của doanh nghiệp với doanh số của toàn phân
khúc.
- Thị phần tương đối: đó là tỷ lệ so sánh về doanh số của doanh nghiệp
với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất, chỉ tiêu này cho biết vị thế sản phẩm của
doanh nghiệp trong cạnh tranh trên thị trường như thế nào?
Thông qua sự biến động của các chỉ tiêu này mà doanh nghiệp biết mình
đang đứng ở vị trí nào, và cần vạch ra chiến lược hành động như thế nào. Chỉ
tiêu này nói lên mức độ lớn của thị trường và vai trò vị trí của doanh nghiệp.
Nói lên mức độ hoạt động có hiệu quả hay không hay không hiệu quả thông
qua sự biến động của chỉ tiêu này. Khi tiềm lực của thị trường đang lên mà
phần thị trường của doanh nghiệp không thay đổi tức là thị trương đã ngoài
vòng kiểm soát của doanh nghiệp hay một phần của thị trường đã rơi vào đối
thủ cạnh tranh cho nên doanh nghiệp cần phải xem xét lại chiến lược kinh
doanh của mình để mở rộng thị trường của doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể
tăng khối lượng sản phẩm trên thị trường hiện tại, có giải pháp thích hợp lôi
kéo các đối tượng tiêu dùng tương đối, đối tượng không thường xuyên, lôi
kéo khách hàng từ thị trường của đối thủ cạnh tranh với mình…
Lợi nhuận
Lợi nhuận được định nghĩa một cách khái quát là phần chênh lệch giữa
tổng doanh thu và tổng chi phí, hoặc tính bằng công thức
L = (P - ATC)*Q
Trong đó:
L : lợi nhuận
5
5
P : giá

ATC : chi phí đơn vị sản phẩm
Q : khối lượng đơn vị bán ra
(P - ATC) : lợi nhuận đơn vị sản phẩm
Lợi nhuận là mục tiêu cao nhất, là điều kiện tồn tại và phát triển. Để cung
cấp hàng hoá và dịch vụ cho thị trường các nhà sản xuất phải bỏ tiền vốn
trong quá trình sản xuất kinh doanh, họ mong muốn cho chi phí đầu vào ít
nhất và bán hàng hoá với giá cao nhất để sau khi trừ đi các chi phí còn số dư
dôi để không chỉ sản xuất giản đơn mà còn tái sản xuất mở rộng, không
ngừng tích luỹ phát triển sản xuất, cũng cố và tăng cường vị trí của mình trên
thị trường để nâng cao khả năng của doanh nghiệp.
Tỷ suất lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn cho biến mức sinh lời của đồng vốn dùng
trong kinh doanh. Tỷ lệ này cần bù đắp chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn.
Thông thường đồng vốn được coi là sư dụng có hiệu quả nếu tỷ lệ nói trên cao
hơn mức sinh lời khi đầu tư vào các cơ hội khác hay ít nhất phải cao hơn mức
lãi suất tín dụng ngân hàng.
Tỷ suất doanh thu trên vốn cho biết mức doanh thu tạo ra trên một đông
vốn, ngoài ra nó còn cho biết mức độ quay vòng của vốn. Tỷ suất này phụ
thuộc vào đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành và chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Tỷ suất lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp, nó không chỉ phán ánh tiềm
năng của doanh nghiệp mà còn thể hiện tính hiệu quả trong hoạt động sản
kinh doanh của doanh nghiệp ấy. Đây chính là: Chênh lệch (giá bán - giá
thành)/giá bán. Nếu chỉ tiêu này thấp thì chứng tỏ mức độ cạnh tranh của
doanh nghiệp trên thị trường là rất gay gắt. Ngược lại, nếu chỉ tiêu này cao thì
chứng tỏ doanh nghiệp đang kinh doanh rất thuận lợi và có hiệu quả.
6
6
Ngoài ra, xét về quyền lợi của nhà đầu tư người ta có thể dùng chỉ tiêu tỷ
suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu để đánh giá khả năng sinh lời trên một
đồng vốn của người góp vốn vào doanh nghiệp.

Tỷ lệ chi phí Marketing/Tổng doanh thu.
Đây là một chỉ tiêu đang được sử dụng nhiều để đánh giá năng lực cạnh
tranh cũng như hiệu quả tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp.
Thông qua chỉ tiêu này mà doanh nghiệp thấy được hiệu quả hoạt động
của mình. Khi xem xét đến tỷ lệ này ta thấy: Nếu chỉ tiêu này cao có nghĩa là
doanh nghiệp đã đầu tư quá nhiều vào chi phí cho công tác marketing mà hiệu
quả thu được thì chưa cao, đòi hỏi doanh nghiệp phải xem xét lại cơ cấu chỉ
tiêu. Có thể thay vì quảng cáo rầm rộ doanh nghiệp có thể đầu tư chiều sâu để
tăng lợi ích lâu dài như đầu tư cho chi phí nghiên cứu và phát triển.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.1 Môi trường vĩ mô
Các nhân tố thuộc về mặt kinh tế: Các nhân tố này tác động đến khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp theo các hướng.
- Tốc độ tăng trưởng cao làm cho thu nhập của dân cư tăng, khả năng
thanh toán của họ tăng dẫn tới sức mua (cầu) các loại hàng hoá và dịch vụ
tăng lên, đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp nào nắm
bắt được điều này và có khả năng đáp ứng được nhu cầu khách hàng (số
lượng, giá bán, chất lượng, mẫu mã…) thì chắc chắn doanh nghiệp đó sẽ
thành công và có khả năng cạnh tranh cao.
- Tỷ giá hối đoái và giá trị của đồng tiền trong nước có tác động nhanh
chóng và sâu sắc đối với từng quốc gia nói chung và từng doanh nghiệp nói
riêng nhất là trong điều kiện nền kinh tế mở. Nếu đồng nội tệ lên giá các
doanh nghiệp trong nước sẽ giảm khả năng cạnh tranh ở thị trường nước
ngoài, vì khi đó giá bán của hàng hoá tính bằng đồng ngoại tệ sẽ cao hơn các
đối thủ cạnh tranh. Hơn nữa, khi đồng nội tệ lên giá sẽ khuyến khích nhập
7
7
khẩu, vì giá hàng nhập khẩu giảm, và như vậy khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp trong nước sẽ bị giảm ngay trên thị trường trong nước. Ngược
lại, khi đồng nội tệ giảm giá, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp tăng

cả trên thị trường trong nước và trên thị trường nước ngoài, vì khi đó giá bán
của các doanh nghiệp giảm hơn so với các đối thủ cạnh tranh.
- Lãi suất cho vay của các ngân hàng cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, nhất là đối với các doanh nghiệp thiếu
vốn phải vay ngân hàng. Khi lãi lãi suất cho vay của ngân hàng cao, chi phí
của các doanh nghiệp tăng lên do phải trả lãi suất tiền vay lớn, khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp sẽ kém đi, nhất là khi đối thủ cạnh tranh có tiềm lực
lớn về vốn.
Các nhân tố về chính trị, pháp luật:
Một thể chế chính trị, pháp luật rõ ràng, rộng mở và ổn định sẽ là cơ sở
đảm bảo sự thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh và
cạnh tranh có hiệu quả. Chẳng hạn, các luật thuế có ảnh hưởng rất lớn đến
điều kiện cạnh tranh, đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần và trên mọi lĩnh vực. Hay chính sách của Chính phủ về
xuất nhập khẩu, về thuế xuất nhập khẩu cũng sẽ ảnh hưởng đến khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất trong nước.
Trình độ về khoa học, công nghệ.
Nhóm nhân tố này quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến môi trường
cạnh tranh.
Trình độ khoa học công nghệ có ý nghĩa quyết định đến hai yếu tố cơ bản
nhất tạo nên khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, đó là chất
lượng và giá bán. Khoa học công nghệ tác động đến chi phí cá biệt của doanh
nghiệp, qua đó tạo nên khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung. Đối
với những nước chậm và đang phát triển, giá và chất lượng có ý nghĩa ngang
8
8
nhau trong cạnh tranh. Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay, đã chuyển từ cạnh
tranh về giá sang cạnh tranh về chất lượng, cạnh tranh giữa các sản phẩm và
dịch vụ có hàm lượng khoa học công nghệ cao.
Kỹ thuật và công nghệ mới sẽ giúp cho các cơ sở sản xuất trong nước tạo

ra được những thế hệ kỹ thuật và công nghệ tiếp theo nhằm trang bị và tái
trang bị toàn bộ cơ sở sản xuất kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân nước ta. Đây
là tiền đề để các doanh nghiệp ổn định và nâng cao khả năng cạnh tranh của
mình.
1.2.2. Môi trường ngành.
Theo Michael Poter, môi trường ngành được hình thành bởi các nhân tố
chủ yếu mà ông gọi là năm năng lực cạnh tranh trên thị trường ngành. Bất cứ
một doanh nghiệp nào cũng phải tính toán cân nhắc tới trước khi có những
quyêt định lựa chọn phương thức, nhiệm vụ phát triển của mình. Năm lực
lượng đó là:
Sức ép của các đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành:
Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hiện có trong ngành là một trong
những yếu tố phản ánh bản chất của môi trường này. Sự có mặt của các đối
thủ cạnh tranh chính trên thị trường và tình hình hoạt động của chúng là lược
lượng tác động trực tiếp mạnh mẽ, tức thì tới quá trình hoạt động của các
doanh nghiệp. Trong một ngành bao gồm nhiều doanh nghiệp khác nhau,
nhưng thường trong đó chỉ có một số đóng vai trò chủ chốt như những đối thủ
cạnh tranh chính có khả năng chi phối, khống chế thị trường. Nhiệm vụ của
mỗi doanh nghiệp là tìm kiếm thông tin, phân tích đánh giá chính xác khả
năng của những đối thủ cạnh tranh chính này để xây dựng cho mình chiến
lược cạnh tranh thích hợp với môi trường chung của ngành.
Sự đe doạ của các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn sẽ gia nhập thị trường.
Những doanh nghiệp mới tham gia thị trường trực tiếp làm tăng tính chất
quy mô cạnh tranh trên thị trường ngành do tăng năng lực sản xuất và khối
9
9
lượng sản xuất trong ngành. Trong quá trình vận động của lực lượng thị
trường, trong từng giai đoạn, thường có những đối thủ cạnh tranh mới gia
nhập thị trường và những đối thủ yếu hơn rút ra khỏi thị trường. Để chống lại
các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn các doanh nghiệp thường thực hiện các chiến

lược như phân biệt sản phẩm, nâng cao chất lượng, bổ sung những đặc điểm
mới của sản phẩm, không ngừng cải tiến, hoàn thiện sản phẩm nhằm làm cho
sản phẩm của mình có những đặc điểm khác biệt hoặc nổi trội hơn trên thị
trường, hoặc phấn đấu giảm chi phí sản xuất, tiêu thụ…
Sức ép cạnh tranh của các doanh nghiệp mới gia nhập thị trường ngành
phụ thuộc chặt chẽ vào đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành và mức độ hấp
dẫn của thị trường đó.
Sức ép của nhà cung ứng:
Những nhà cung ứng cũng có sức mạnh thoả thuận rất lớn. Có rất nhiều
cách khác nhau mà người cung ứng có thể tác động vào khả năng thu lợi
nhuận của ngành.
Các nhà cung cấp có thể gây ra những khó khăn nhằm giảm khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp trong những trường hợp sau:
- Nguồn cung cấp doanh nghiệp chỉ cần có một hoặc vài công ty độc
quyền cung cấp.
- Nếu các nhà cung cấp có khả năng về các nguồn lực để khép kín sản
xuất, có hệ thống mạng lưới phân phối hoặc mạng lưới bán lẽ thì họ sẽ có thế
lựcđáng kể đối với doanh nghiệp là khách hàng.
Sức ép của khách hàng:
Sức mạnh khách hàng thể hiện ở chỗ họ có thể buộc các nhà sản xuất
phải giảm giá bán sản phẩm thông qua việc tiêu dùng ít sản phẩm hơn hoặc
đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao hơn. Nếu khách hàng mua với khối lượng lớn,
tính tập trung của khách hàng cao hơn so với các doanh nghiệp trong ngành.
10
10
Sự xuất hiện của những sản phẩm thay thế:
Những sản phẩm thay thế cũng là một trong những lực lượng tạo nên sức
ép cạnh tranh lớn đối với các doanh nghiệp trong ngành.
Mức độ sẵn có của những sản phẩm thay thế cho biết giới hạn trên của
giá cả sản phẩm trong ngành. Khi giá của sản phẩm tăng quá cao khách hàng

sẽ chuyển sang sử dụng những sản phẩm thay thế. Hoặc do mùa vụ, thời tiết
mà khách hàng cũng chuyển sang sử dụng sản phẩm thay thế. Sự sẵn có của
những sản phẩm thay thế trên thị trường là một mối đe doạ trực tiếp đến khả
phát triển, khả năng cạnh tranh và mức lợi nhuận của các doanh nghiệp.
1.2.3. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp.
Nguồn nhân lực.
Đây là yếu tố quyết định của sản xuất kinh doanh bao gồm:
- Ban Giám đốc Doanh nghiệp
- Cán bộ quản lý ở cấp Doanh nghiệp
- Cán bộ quản lý trung gian, đốc công và công nhân
* Ban Giám đốc DN. Là những cán bộ quản lý ở cấp cao nhất trong
doanh nghiệp, những người vạch ra chiến lược trực tiếp điều hành, tổ chức
thực hiện công việc kinh doanh của doanh nghiệp. Những công ty cổ phần,
những công ty lớn ngoài Ban Giám đốc còn có hội đồng quản trị là đại diện
cho các chủ sở hữu doanh nghiệp.
Các thành viên Ban Giám đốc ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh
của doanh nghiệp. Nếu các thành viên có trình độ, kinh nghiệm, khả năng
đánh giá, năng động, có mối quan hệ tốt với bên ngoài thì họ sẽ đem lại cho
doanh nghiệp không những lợi ích trước mắt, như tăng doanh thu lợi nhuận,
mà còn cả lợi ích - uy tín lâu dài của doanh nghiệp và đây mới là yếu tố quan
trọng tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
* Đội ngũ cán bộ quản lý trung gian, đốc công và công nhân.
11
11
Nguồn cán bộ của một doanh nghiệp phải đồng bộ. Sự đồng bộ này
không chỉ xuất phát từ thực tế là đội ngũ lao động của doanh nghiệp mà còn
xuất phát từ yêu cầu kết hợp nguồn nhân lực với các nguồn lực về tổ chức và
vật chất
Trình độ tay nghề của công nhân và lòng hăng say làm việc của họ là một
yếu tố tác động mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi vì

khi tay nghề cao, lại cộng thêm lòng hăng say nhiệt tình lao động thì tăng
năng suất lao động là tất yếu. Đây là tiền đề để các doanh nghiệp có thể tham
gia và đứng vững trong cạnh tranh.
Nguồn lực vật chất và tài chính.
* Máy móc thiết bị và công nghệ:
Tình trạng trình độ máy móc thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng một
cách sâu sắc tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nó là yếu tố vật chất
quan trọng bậc nhất thể hiện năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp và tác
động trực tiếp tới sản phẩm. Ngoài ra, công nghệ sản xuất, máy móc thiết bị
cũng ảnh hưởng đến giá thành và giá bán sản phẩm. Một doanh nghiệp có
trang thiết bị máy móc hiện đại thì sản phẩm của họ nhất định có chất lượng
cao. Ngược lại không có một doanh nghiệp nào có thể nói là có khả năng cạnh
tranh cao khi trong tay họ là cả hệ thống máy móc cũ kỹ với công nghệ lạc
hậu.
* Tiềm lực tài chính của doanh nghiệp.
Bất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm hay phân phối nào cũng đều phải
xét, tính toán trên tiềm lực tài chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có
tiềm năng lớn về tài chính sẽ có nhiều thuận lợi trong việc đổi mới công nghệ,
đâu tư mua sắm trang thiết bị, đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá
thành, để duy trì và nâng cao sức cạnh tranh, cung cấp tín dụng thương mại,
12
12
khuyến khích việc tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, lợi nhuận và cũng cố
của mình trên thương trường.
Nói tóm lại, khi xem xét khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp và kể
cả khả năng cạnh tranh của các đối thủ, doanh nghiệp đều phải xem xét đầy
đủ các yếu tố tác động, từ đó “gạn đục, khơi trong” tìm ra các biện pháp hữu
hiệu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
13
13

Phần 2
THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH TOÀN CẦU HOÁ
2.1. Những đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Khi nói tới DNV&N nói chung, chúng ta đều nghĩ đến đặc điểm chung
nhất đó là: số lượng lao động ít, trình độ không cao; nhu cầu về vốn đầu tư
nhỏ nhưng tỷ suất vốn cao và thời gian hoàn vốn nhanh; chi phí sản xuất cao
do đó giá thành đơn vị sản phẩm cao hơn so với sản phẩm của các doanh
nghiệp lớn vì vậy vị thế của các DNV&N trên thị trường nhỏ. Các DNV&N
bị hạn chế trong việc đáp ứng nhu cầu rộng nhưng lại có ưu thế trong việc đáp
ứng nhu cầu đặc thù; các doanh nghiệp này dễ phân tán và ít gây tác động
mạnh tới nền kinh tế – xã hội
Các DNV&N ở Việt Nam hiện nay ngoài những đặc điểm trên còn có
những đặc điểm cơ bản sau:
- Sự phát triển của các DNV&N ở Việt Nam trải qua nhiều biến động
thăng trầm đặc biệt là sự chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ
chế thị trờng
- Việt Nam là một nước kinh tế kém phát triển nền sản xuất nhỏ là phổ
biến, do đó các doanh nghiệp có quy mô nhỏ có diện rộng phổ biến.
- Phần lớn các DNV&N trong khu vực ngoài quốc doanh mới thành lập,
thiếu kiến thức kinh doanh cha quen với thị trờng. Các doanh nghiệp nhà
nước quy mô vừa và nhỏ còn chịu ảnh hởng nặng nề của cơ chế cũ; máy
móc, thiết bị, công nghệ lạc hậu, bế tắc về thị trường tiêu thụ.
- Về sở hữu, bao gồm sở hữu nhà nước (có trên 4000 DNV&N) và sở
hữu tư nhân (trên 17000 doanh nghiệp và công ty tư nhân, trên 1,8 triệu hộ
kinh tế các thể hoạt động theo Nghị định 66/HĐBT).
14
14
- Về hình thức tổ chức bao gồm các loại hình: Doanh nghiệp Nhà nớc,
doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hộ kinh

tế cá thể.
- Trình độ quản lý trong các DNV&N còn rất hạn chế thiếu kiến thức về
quản trị kinh doanh và luật pháp, thiếu kinh nghiệm. Trình độ văn hoá kinh
doanh còn thấp tồn tại nhiều tiêu cực.
- Các DNV&N ở nước ta phân bố không đồng đều, tập trung chủ yếu ở
các thành phố lớn. Xu hớng tập trung vào các ngành ít vốn thu hồi vốn
nhanh, lãi xuất cao như thương nghiệp, du lịch, dịch vụ.
- Nhà nớc chỉ mới có các định hớng lớn khuyến khích DNV&N, cơ chế
chính sách thiếu đồng bộ, nguồn lực tài chính của Nhà nớc còn hạn chế.
2.2. Những lợi thế và bất lợi trong cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
Việt nam
2.2.1 Những lợi thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
- Chúng gắn liền với các công nghệ trung gian, là cầu nối giữa công nghệ
truyền thống với công nghệ hiện đại.
- Quy mô nhỏ có tính năng động, linh hoạt, tự do sáng tạo trong kinh
doanh.
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ dàng và nhanh chóng đổi mới thiết bị
công nghệ, thích ứng với cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ cần lượng vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả
cao thu hồi vốn nhanh.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ có tỷ suất vốn đầu tư trên lao động thấp hơn
so với doanh nghiệp lớn, cho nên chúng có hiệu suất việc làm cao hơn
- Hệ thống to chức sản xuất và quản lý ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ
gọn nhẹ, linh hoạt, công tác điều hành mang tính trực tiếp.
15
15
- Quan hệ giữa người lao động và người quản lý (quan hệ chủ- thợ) trong
các doanh nghiệp vừa và nhỏ khá chặt chẽ.
- Sự đình trệ, thua lỗ, phá sản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có ảnh
hưởng rất ít hoặc không gây nên khủng hoảng kinh tế - xã hội, đồng thời ít

chịu ảnh hưởng bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế dây chuyền.
2.2.2 Những bất lợi của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
- Công nghệ lạc hậu, trình độ chuyên môn hoá thấp, quy mô rất nhỏ (nếu
xét theo tiêu chí DNVVN của thế giới): 76% máy móc, thiết bị thuộc thế hệ
những năm 50 – 60, trong đó 70% đã hết khấu khao.
- Thiếu vốn, khó tiếp cận với các nguồn tín dụng đặc biệt là nguồn vốn
trung và dài hạn.
- Thiếu nguồn nhân lực được đào tạo cơ bản, có trình độ tay nghề, yên
tâm với công việc: Theo điều tra mới đây, cả nước có 10,2% lựu lượng lao
động đã qua đào tạo có trình độ đào tạo từ công nhân kỹ thuật trở lên. Trong
số 2,5 triệu công nhân chỉ có 4000 công nhân bậc cao (gần bằng 0,2%), 36%
đào tạo theo tiêu chuẩn quốc gia, 39,3% đào tạo ngắn hạn còn lại chưa qua
đào tạo.
- Thiếu mặt bằng sản xuất. Hiện nay đây là vấn đề rất khó khăn của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, nó hạn chế không ít đến sự phát triển của khu vực
doanh nghiệp này
- Thiếu thông tin. Sự phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước, Phòng thương
mại, các hiệp hội để hình thành các mạng lưới trao đổi, cập nhật thông tin cho
các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn hạn chế.
- Khả năng tiếp cận thị trường còn yếu. Phần lớn các doanh nghiệp Việt
Nam chưa thể tự tìm được khách hàng, chưa có mạng lưới khách hàng, chưa
có kinh nghiệm thiết lập quan hệ kinh doanh với các bạn hàng. Sự hiểu biết
của các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ về thị trường nước ngoài và xu thế của
16
16
nó, về các nghiệp vụ ngoại thương, các quy định của quốc tế, của các nước
khác và ngay của nước ta liên quan đến quản lý xuất nhập khẩu còn chưa thấu
đáo. Nhiều chủ doanh nghiệp (đặc biệt ở địa phương) sản xuất những mặt
hàng truyền thống để xuất khẩu nhưng lại chưa được đào tạo về nghiệp vụ
xuất nhập khẩu. Những hạn chế đó nhiều khi dẫn đến sự phức tạp, rủi ro

không đáng có. Ngay cả rào cản về ngôn ngữ cũng là một trở ngại. Số lượng
các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng trực tiếp đàm phán với doanh
nhân nước ngoài không cần phiên dịch không nhiều.
- Do tình trạng sản xuất manh mún nên sản phẩm của các doanh nghiệp
này thiếu tính đồng bộ về tiêu chuẩn, về chất lượng, kỹ thuật. Việc thu gom
hàng để xuất khẩu gặp rất nhiều khó khăn. Trong khi đó hàng xuất khẩu của
Việt Nam ở một số thị trường thế giới vẫn bị phân biệt, đối xử, chịu những
rào cản thương mại như : thuế quan cao hơn, các biện pháp bảo vệ vệ sinh -
dịch tả và tiêu chuẩn kỹ thuật, làm cho khả năng xâm nhập thị trường của
hàng Việt Nam giảm xuống.
- Một số thủ tục hành chính còn chưa tạo điều kiện thuận lợi để áp dụng
những tư tưởng mới vào kinh doanh, phát huy tính năng động, linh hoạt - một
ưu thế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong môi trường còn có đối xử
chưa bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, chưa nhận được sự quan tâm
và hỗ trợ thích đáng, kịp thời của Nhà nước.
Những hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ đã buộc các chủ doanh
nghiệp phải tìm cách tháo gỡ, khắc phục nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh
của mình trên thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tê.
2.3. Hội nhập thị trường thế giới: cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở Việt Nam
Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta chiếm 90% tổng số các doanh nghiệp
đóng góp 25% GDP, giải quyết việt làm cho gần 8 triệu lao động, tiến tới
17
17
khoảng 79,2% tổng số lao động phi nông nghiệp và chiếm khoảng 22,5% lực
lượng lao động của cả nước, đóng góp khoảng 31% tổng giá trị công nghiệp.
Một nét đặc biệt của DNV&N Việt Nam là tham gia khá tích cực vào hoạt
động xuất nhập khẩu. Bởi vậy, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của khu vực
doanh nghiệp này để giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường

nước ngoài có ý nghĩa quạn trọng đối với quá trình hội nhập của Việt Nam.
2.3.1. Những cơ hội của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế hội nhập
ở Việt Nam
- Hội nhập vào nền kinh tế thế giới cho phép các doanh nghiệp vừa và
nhỏ phát triển nhanh hơn. Là nước chậm phát triển, tổng cầu của Việt Nam
thấp dẫn đến cơ hội để các doanh nghiệp tự tích luỹ không cao. Hội nhập sẽ
giúp cho các doanh nghiệp có khả năng hợp tác thu hút vốn đầu tư, đổi mới
thiêt bị và công nghệ, thúc đẩy sản xuất và mở rộng thêm thị trường, nâng cao
mức tích luỹ.
- Toàn cầu hoá sẽ đẩy mạnh giao lưu, làm cho quan hệ trao đổi ngày càng
thông thoáng bên trong, rộng mở bên ngoài. Với tư cách là người tiêu thụ các
thiết bị kỹ thuật, máy móc và là khách hang của một số dịch vụ quốc tế, các
doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ dễ dàng hơn trong việc lựa chọn sản phẩm phù
hợp với giá cả thấp hơn. Đồng thời thị trường rộng lớn hơn sẽ giúp các doanh
nghiệp giảm bớt được sức ép do chu kỳ sống của sản phẩm bị rút ngắn lại.
- Cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ, khoảng cách không
gian được dần dần cải thiện, thông qua mạng lưới viễn thông toàn cầu các
doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tiếp cận được thị trường xa xôi.
- Mặc dù là nước kém phát triên nhưng so sánh các nước có cùng trình độ
kinh tế, thì tiềm năng trí tuệ của nguồn nhân lực nước ta ở mức khá cao. Đây
là một lợi thế lớn nếu được phát huy sẽ trở thành một nhân tố quan trọng tạo
nên sự thành công của doanh nghiệp nhất là khi thế giới đang chuyển dần
sang nền kinh tế hậu công nghiệp.
18
18
2.3.2. Những thách thức của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế hội
nhập ở Việt Nam.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng nhận được sự cạnh tranh trong
nước và quốc tế. Họ đặc biệt cần có thông tin về thị trường, người mua, người
bán, giá cả, các quy định thương mại và cách thức buôn bán trên thị trường

mục tiêu.
- Với nổ lực nhằm khác biệt hoá sản phẩm, tạo ra hình ảnh hay đáp ứng
sở thích của người tiêu dùng, các doanh nghiệp cần phải thực hiện việc phát
triển sản phẩm, thiết kế lại hay sửa lại. Điều này đòi hỏi phải có chuyên môn
cao mà ở những nước đang phát triển thì việc này rất khó.
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải xem xét làm thế nào để nâng cao
chất lượng sản phẩm và đóng góp hàng hoá đáp ứng với tiêu chuẩn quốc tế.
Phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có phòng giám sát chất lượng
hay các chuyên gia quản lý chất lượng. Các quy định của thị trường xuất khẩu
hay khách hàng nước ngoài có thể đòi chất lượng hay quy cách phẩm chất cao
hơn. Việc đóng gói hàng hoá do vậy phải là một công cụ tiếp thị sản phẩm
đầy quyền lực. Các quy định đóng gói mới phải được giới thiệu để bảo vệ môi
trường.
- Giá cả là động lực thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường. Do vậy việc nâng
cao năng lực sản xuất và giảm chi phí là đặc biệt quan trọng. Các doanh
nghiệp ở nước ta nên được tư vấn về kỹ thuật định giá và chi phí cạnh tranh.
- Việc tiết kiệm chi phí có thể đạt được từ 15% đến 20% nhờ vào việc đặt
kế hoạch cung cấp hàng hoá một cách cẩn thận. Tuy nhiên, chỉ một số ít các
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta đã tận dụng kỷ năng này và đạt được mức
tiết kiệm trên. Còn phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã quen bằng lòng
với các nhà cung cấp truyền thống với số lượng hàng hoá lớn làm cho chi phí
nhập khẩu quá mức cần thiết.
19
19
- Công nghệ lạc hậu có thể làm giảm chất lượng sản phẩm, tăng chi phí
và làm sản phẩm không cạnh tranh được. Rất nhiều công nghệ lạc hậu cũng
gây ô nhiễm cao. Sớm hay muốn thì những doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng
công nghệ lạc hậu sẽ bị loại khỏi thị trường.
- Kiến thức, kỷ năng và kinh nghiệm sẽ sớm trở nên lạc hậu nếu không
được nâng cao liên tục. Khi bằng cấp ngày càng trở nên phổ biến thì các

doanh nghiệp ở nước ta lại ít tiếp cận với đào tạo thực tế, điều mà họ thực sự
cần.
2.4. Thực trạng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam
Theo lộ trình gia nhập AFTA thì từ nay đến năm 2006, Việt Nam phải
từng bước cắt giảm thuế xuống mức 0- 5% đối với mặt hàng trong danh mục
IL (cắt giảm ngay) và TEL (cắt giảm tạm thời). Khi đó sự bảo hộ bằng hàng
rào thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hoá sản xuất trong nước sẽ không
còn tác dụng, hàng Việt Nam liệu có cạnh tranh được với hàng nước ngoài tại
thị trường trong nước lẫn thị trường ASEAN được không? Chúng ta cần xem
xét thực trạnh khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Sức cạnh tranh của sản phẩm đầu ra được quyết định bởi 4 yếu tố chính:
giá bán (thấp), chất lượng (cao), tổ chức tiêu thụ (hợp người tiêu dùng) và uy
tín của doanh nghiệp (cao). Đại đa số sản phẩm của DNV&N đều yếu kém
hơn sản phẩm cùng loại của các nước ASEAN hoặc của các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Sự yếu kém đó bắt nguồn từ các nguyên
nhân sau:
Thứ nhất, giá đầu vào cao
Theo điều tra 800 DNV&N do phòng thương mại và công nghiệp Việt
Nam tiến hành mới đây cho thấy các DNV&N chỉ chiếm 2,87 điểm (theo
thang điểm từ 1 đến 5) cho khả năng cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài tại
thị trường Việt Nam. Trong khi đó, khả năng cạnh tranh với các đối thủ trong
nước được các DNV&N đánh giá ở mức 3,55 điểm. Đặc biệt so với năm
20
20
1999, thang điểm về sức cạnh tranh của các DNV&N tại thị trường trong
nước đã tăng từ 3,6 lên 3,7 điểm trong năm 2000. Rõ ràng sự vững tin trong
cạnh tranh của các DNV&N chỉ thực sự mạnh mẽ tại thị trường với những đối
thủ quen thuộc. Cũng theo điều tra trên có tới 29% DNV&N trong số 800
doanh nghiệp được hỏi vẫn phải sử dụng trên 40% nguyên phụ liệu nhập
khẩu, thậm chí có ngành phải sử dụng 70-80% nguyên phụ liệu nhập khẩu. Vì

vậy, tỷ lệ giá trị gia tăng trong hàng xuất khẩu của các DNV&N thấp. Trong
xu thế giảm giá hàng xuất khẩu công nghiệp của thế giới, thì việc giữ vững thị
trường trong nước và mở rộng thị trường ASEAN cho hàng hóa xuất khẩu của
Việt Nam đang đứng trước thách thức lớn.
Thứ hai, chi phí trung gian cao
So với thời điểm 1996 đến nay, giá xăng dầu tăng 42,2%, giá cước vận
chuyển tăng 130%, tiền công tăng 75%, thuế sử dụng đất tăng 90,9%, điện
tăng 37,5%, ngoại tệ tăng 20,2%, ngoài ra còn thêm các loại “tiêu cực phí”
cũng góp phần không nhỏ vào làm tăng chi phí cho doanh nghiệp.
Thứ ba, chất lượng sản phẩm của các DNV&N Việt Nam còn thấp.
Chất lượng sản phẩm là những tính chất, thuộc tính của sản phẩm được
biểu hiện ra bằng việc thoả mãn đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Nó là một
trong những yếu tố quan trọng không thể thiếu tạo nên năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp, nhất là trong điều kiện hiện nay khi mà đời sống của con
người ngày càng được nâng cao, chiến lược cạnh tranh bằng giá sẽ giần bị
thay thế bởi chiến lược cạnh tranh bằng chất lượng. Song song với quá trình
đó, chất lượng sản phẩm của Việt Nam đã, đang và sẽ cố gắng hết sức chinh
phục khách hàng, nâng cao vị thế cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trong
điều kiện hội nhập. Trên thị trường trong nước, ngày càng xuất hiện thêm
nhiều “Hàng Việt Nam chất lượng cao” với nhiều doanh nghiệp uy tín và
thành công. Trên thị trường thế giới, chất lượng không những giúp hàng hoá
Việt Nam tái chiếm được thị trường Đông Âu mà nhiều mặt hàng đã chinh
21
21
phục những thị trường khó tính Tây Âu, Bắc Mỹ như: may mặc, hải sản,da
giầy… Mặt khác, việc thực hiện hệ thống quản lý chất lượng ISO đang dần
trở thành yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiệp khi tham cạnh tranh. Đó là
những tín hiệu đáng mừng cho chất lượng sản phẩm Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những tiến bộ bước đầu đó, chất lượng sản phẩm
Việt Nam cũng còn không ít những tồn tại, khó khăn. Nhìn chung, chất lượng

sản phẩm Việt Nam còn thấp chưa thể so sánh được với sản phẩm cùng loại
nước ngoài nhập vào, mà nó còn chịu nhiều tai tiếng về mặt chất lượng, làm
sụt giảm niềm tin của người tiêu dùng đối với hàng nội, điển hình là những
chỉ trích về hệ thống an toàn vệ sinh thực phẩm… Đối với thị trường quốc tế,
bên cạnh một số sản phẩm đang sử dụng chất lượng để cạnh tranh, cũng
không ít những sản phẩm có chất lượng chưa cao, làm ảnh hưởng khá lớn tới
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Ví dụ điển hình như xuất khẩu cà
phê, tuy Việt Nam xuất khẩu với số lượng lớn song lại không có vị thế lớn
trên thị trường thế giới vì bị xem là hàng hoá kém chất lượng, lẫn nhiều tạp
chất, tỷ lệ hạt non, hạt đen và vỡ cao, kích cỡ hạt nhỏ … Tình trạng tương tự
cũng xẩy ra với việc xuất khẩu gạo.
Giá gạo Việt Nam khá thấp so với nước ngoài không phải là thành tích
đáng mừng của sản phẩm nông nghiệp Việt Nam, trái lại nó biểu hiện một
năng lực cạnh tranh yếu kém của gạo Việt Nam xuất khẩu, biểu hiện sự kém
yêu thích của khách hàng quốc tế. Nguyên nhân cũng bởi chất lượng gạo Việt
Nam bị đánh giá quá thấp, lẫn tạp chất, tỷ lệ cám và tấm cao, độ bóng khô và
kém…
Thứ tư, các DNV&N hiện đang phải đối mặt với tình trạng máy móc
thiết bị cũ kỷ lạc hậu, làm cho năng suất lao động không cao, chất lượng sản
phẩm thấp, dẫn đến giá sản phẩm cao. Trình độ công nghệ của Việt Nam
thấp(hiện tụt hậu khoảng 25-30 năm so với Thái Lan) dẫn đến chi phí đầu vào
cao hơn từ 30 - 35% so với các đối tác ASEAN khác. Đặc biệt trong các
22
22
DNV&N có khoảng 30% doanh nghiệp thường xuyên thua lỗ, 30% khác thất
thường và 40% còn lại có lãi - đây cũng là chỉ số liệu dựa trên những báo cáo
tài chính chính thức của doanh nghiệp, mà tính chân thực của các báo cáo này
thì không ai giám khẳng định bởi ở Việt Nam các báo cáo tài chính chưa bị
bắt buộc phải kiểm toán. Hơn nữa các doanh nghiệp làm ăn có lãi thường là
những doanh nghiệp độc quyền nhà nước, vì thế không phản ánh đúng thực

lực kinh doanh của các doanh nghiệp này.
Thứ năm, khả năng tiếp nhận xử lý thông tin của các DNV&N Việt Nam
còn kém.
Trong nền kinh tế thị trường, thông tin được coi là yếu tố đặc biệt quan
trọng góp phần tạo nên sự thành công trong cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Nhất là ở Việt Nam hiện nay, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường thì thông tin đối với các doanh nghiệp càng quan
trọng hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, nhìn chung công tác thu thập và xử lý thông
tin của các doanh nghiệp Việt Nam diễn ra chậm chạp và kém hiệu quả. Chính
vì vậy, các doanh nghiệp nước ngoài với trình độ và khả năng thu thập xử lý
thông tin khá cao đã nhanh chóng nắm bắt nhu cầu thị trường, chiến thắng
trong cạnh tranh. Theo sự đánh giá, phân tích của các nhà kinh tế, các
DNV&N Việt Nam không chỉ gặp khó khăn trong việc cập nhật các thông tin
kinh tế, đặc biệt là những thông tin mang tính dự báo, đoán trước, không chỉ
thiếu các thông tinh về định chế thương mại và về thị trường quốc tế mà ngay
cả những thông tin về các văn bản chính sách mới trong nước cũng không đến
tận tay các DNV&N Việt Nam một cách chính xác, đầy đủ, kịp thời được, do
đó ảnh hưởng sâu sắc tới khả năng xử lý thông tin của các DNV&N Việt
Nam. Trên thị trường hiện nay, điều này càng được minh chứng rõ ràng, sự
thành công của các doanh nghiệp liên doanh, các công ty nước ngoài có phần
đóng góp không nhỏ của yếu tố thông tin. Chính nguồn thông tin chính xác và
23
23
khả năng xử lý thông tin cao đã giúp họ nắm bắt cơ hội và chiến thắng trong
cạnh tranh.
Thứ sáu, kinh nghiệm về kinh doanh, năng lực quản lý, công tác tiếp thị
của các doanh nghiệp còn yếu, chất lượng lao động chưa cao, chưa có tính
chuyên nghiệp, các doanh nghiệp hầu như chưa có chiến lược phát triển lâu
dài ổn định, chiến lược cạnh tranh quốc tế, mà phần lớn chỉ mới có kế hoạch
kinh doanh ngắn hạn, thậm chí là kế hoạch kinh doanh trong từng thương vụ.

Từ những yếu kém này, như trên đã đề cập, sức cạnh tranh của đa số sản
phẩm của các DNV&N đều yếu kém hơn sản phẩm cùng loại của các nước
ASEAN. Bài toán đặt ra: Làm thế nào để các DNV&N Việt Nam khi hội nhập
có thể cạnh tranh được với hàng hoá của các nước trong khu vực, trên toàn
thế giới và ngay cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở trong nước?
Một giải pháp “kinh điển” là muốn chiến thắng trong cạnh tranh phải có đầu
ra mạnh, mà muốn có đầu ra mạnh phải có đầu vào mạnh.
24
24
Phần 3
NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ Ở VIỆT
NAM
3.1. Các giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và
nhỏ
Trong quá trình toàn cầu hoá, ngoài lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và
vị trí địa lý là những yếu tố thuộc về lợi thế so sánh do thiên nhiên ban tặng,
chúng ta còn một yếu tố được coi là lợi thế so sánh là lao động trẻ. Tuy nhiên,
lao động trẻ của chúng ta đang còn bị cạnh tranh gay gắt từ Trung Quốc. Mặt
khác, trong những năm tới, lao động kỹ thuật trình độ cao mới là loại lao động
mà nền kinh tế tri thức cần đến. Đông và rẻ không còn là lợi thế cho lực lượng
lao động của ta nữa, chúng ta phải tự tạo ra lợi thế so sánh cho mình. Vì vậy,
để nâng cao khả năng cạnh tranh một doanh nghiệp cần tiến hành đồng bộ các
giải pháp sau:
- Chạy tiếp sức thay vì mạnh ai nấy chạy: Để có thể đến đích nhanh,
các DNV&N Việt Nam phải chọn chạy tiếp sức thay vì mạnh ai nấy chạy -
một điểm yếu của các DNV&N Việt Nam. Mỗi người cần phải nổ lực chạy
nhanh hơn đồng đội (tinh thần cạnh tranh), nhưng đồng thời sẵn sàng trao
chiếc gậy cho đồng đội vào lúc cần thiết (tinh thần hợp tác). Làm được điều
đó chúng ta sẽ tận dụng được hai ưu điểm của cạnh tranh và hợp tác: cạnh

tranh để có được sản phẩm tốt nhất và giá hạ nhất (điều kiện sống còn của
doanh nghiệp), hợp tác để hỗ trợ các doanh nghiệp trong và ngoài tổng công
ty phát triển (điều kiện sống còn của hệ thống doanh nghiệp).
- Đầu tư cho một tầm nhìn lâu dài: Để có sản phẩm tốt, giá hạ trong khi
công nghệ còn lạc hậu, các DNV&N Việt Nam phải chuyển mục tiêu tối đa
hoá lợi nhuận từ số một xuống số hai. Điều này sẽ tạo nên sự khác biệt lớn
25
25

×