Nhận Xét Về Sự độc đáo Của Thời
Gian Và Không Gian Nghệ Thuật
Nam Cao
Thời gian và không gian trong sáng tác của Nam Cao cũng
như mọi hiện tượng của thế giới khách quan, khi đi vào
nghệ thuật được soi rọi bằng tư tưởng tình cảm, được nh
ào
nặng và tái tạo trở thành một hiện tượng nghệ thuật độc
đáo thấm đẫm cá tính sáng tạo của nhà văn. Cảm quan về
thời gian và không gian gắn liền với cảm quan về con ngư
ời
và cuộc đời, gắn bó với mơ ước và lí tưởng của nhà văn.
Cho tới nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu công phu,
nghiêm túc về Nam cao. Tuy nhiên, phương diện thời gian
và không gian nghệ thuật chưa được chú ý và xem xét
riêng.
Những nhân vật của Nam Cao sống, như thường lệ, trong
thời gian hiện thực. Một trong những nét đặc sắc của thời
gian nghệ thuật trong sáng tác của Nam Cao là đã tạo ra
một kiểu thời gian hiện thực hằng ngày, trong đó các nhân
vật của ông dường như bị giam hãm, tù túng, luẩn quẩn
trong vòng những lo âu thường nhật (nhà cửa, miếng cơm,
manh áo, thuốc men…). Các nhân vật đau buồn của Nam
Cao bị hành hạ, bị giày vò, bị ám ảnh bởi cái đói, “lúc nào
cũng lo chết đói, lúc nào cũng lo làm thế nào cho không
chết đói”. Cả thế giới nhân vật “bị áo cơm ghì sát đất” của
ông như xuội đi trong cái vòng luẩn quẩn của thời gian h
àng
ngày mòn mỏi.
Thời gian, trong nhiều tác phẩm của Nam Cao như là đông
đặc lại. Nó tù đọng, đóng kín, xoay theo cái quỹ đạo tưởng
chừng như không thay đổi. Thế giới bên ngoài dường như
không bị thống trị bởi nó. Có thể nói, cùng v
ới việc phác hoạ
những chi tiết chân thực, khắc hoạ những tính cách điển
hình, mô tả những quan hệ nhân sinh, Nam Cao đã sáng
tạo ra trong những tác phẩm của ông một kiểu thời gian
hiện thực hàng ngày luẩn quẩn với những lo âu về sinh kế,
mòn mỏi về tinh thần, góp phần tạo nên hình ảnh một cuộc
sống mòn bế tắc, ngột ngạt khá điển hình.
Trong nhiều tác phẩm của mình, Nam Cao đã sử dụng
phạm trù hồi tưởng như là một yếu tố của thời gian nghệ
thuật. Như mọi người đều biết, hồi tưởng thường xuất hiện
trong quá trình sáng tạo tác phẩm theo quy luật tương phản
hoặc theo nguyên tắc liên tưởng. Trong thế giới nghệ thuật
của Nam Cao, hồi tưởng hiện ra từ từ, không cố ý, ngỡ nh
ư
vô tình, thậm chí ngay cả khi nhà văn chủ tâm đi vào thế
giới hồi tưởng của nhân vật. Nó không tồn tại một cách độc
lập mà trong mối liên hệ thường xuyên, chặt chẽ với hệ
thống thời gian nghệ thuật. Hồi tưởng không đơn giản đẩy
lùi ra những phạm vi thời gian của sự trần thuật, trái lại, nó
tạo ra khả năng đối chiếu giữa quá khứ và hiện tại và có th
ể
nhìn thấy những viễn cảnh và những chu tuyến của tương
lai.
Trong sáng tác của Nam Cao, những kỉ niệm cũ hiện lên
thông qua sự hồi tưởng của nhân vật có thể trong sáng ấm
áp, nhưng bao giờ cũng gợi lên một nỗi buồn. Đó là “một
buổi chiều có sương bay” ngày dì Hảo đi lấy chồng (Dì
Hảo). Đó là nỗi nhớ bà cô phúc hậu, mù loà, bị lãng quên,
bỗng trào lên trong tâm trí đứa cháu giữa một đêm vui –
đêm tân hôn - với một niềm day dứt, ân hận (Chuyện buồn
giữa đêm vui).
Điền trong Trăng Sáng, Hộ trong Đời thừa, Thứ trong Sống
mòn cũng thường quay về với quá khứ, với những hồi ức
của mình. Đối với họ, những cảnh vật ngày hôm nay như
khêu gợi những kỉ niệm của ngày qua. Và những kỉ niệm cũ
hiện về chỉ làm tăng thêm nỗi buồn chán khổ đau trư
ớc mắt.
Thời gian như là người bạn đường của sự khổ đau. Có thể
nói, trong nhiều sáng tác của Nam Cao, nhân vật vô hình
chủ yếu chính là thời gian đã mất. Hầu như trong mỗi tác
phẩm của ông đều tồn tại “nhân vật” vô hình này, hoặc là
hàm ý sự có mặt của nó. Với tư cách là nhà văn hiện thực,
Nam Cao ý thức sâu sắc được tính không đảo ngược của
thời gian. Nhiều nhân vật thuộc những tầng lớp xã hội khác
nhau của ông đều nhìn thấy thời gian trôi đi một cách tàn
nhẫn. Họ suy ngẫm về thời gian với sự xúc động, với niềm
nuối tiếc, với tình cảm cay đắng của sự mấtmát không g
ì bù
đắp nổi. Đối với Điền (Trăng Sáng), Hộ (Đời Thừa), Thứ
(Sống mòn) thời gian như là chiếc bào bào mòn những mơ
ước. Đối với Chí Phèo (Chí Phèo) thời gian không chỉ tàn
phá nhân hình mà còn huỷ hoại cả nhân tính, cả tâm hồn
con người. “Bây giờ thì hắn đã thành người không tuổi rồi.
Ba mưoi tám hay ba mươi chín ? Bốn mươi hay là ngoài
bốn mươi ? Cái mặt hắn không trẻ cũng không già ; nó
không còn phải là mặt người : nó là mặt một con vật lạ.
Nhìn mặt những con vật có bao giờ biết tuổi ?” Những cơn
say vô tận, những việc “ức hiếp, phá phách, đâm chém,
mưu hại, người ta giao cho hắn làm là chính cuộc đời hắn ;
cuộc đời mà hắn cũng chả biết đã dài bao nhiêu năm rồi.”
Hắn đã mất ý thức về thời gian. Nhưng sau lần gặp thị Nở,
tình cảm tự nhiên và sự săn sóc tận tình của người đàn bà
tội nghiệp này đã góp phần đánh thức ý thức về nhân phẩm
và cùng với nó là ý thức về thời gian của Chí Phèo : “Tỉnh
dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô đ
ộc. Buồn thay cho đời
! Có lí nào như thế được ? Hắn đã già rồi hay sao ?”
Trong một vài tác phẩm, Nam Cao đã miêu t
ả viễn cảnh của
tương lai. Hiện tại tối tăm, ảm đạo, còn tương lai cũng
nhuốm màu xám xịt. Tương lai của dì Hảo (Dì Hảo) là s
ự cô
đơn nghèo đói và bệnh tật. Tương lai của Chí Phèo còn
khủng khiếp hơn hiện tại : “Chí Phèo hình như đã trông th
ấy
trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái n
ày
còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Đối với nhân vật ngư
ời
kể chuyện trong Mua nhà, tương lai bị giày vò bởi một nỗi
niềm ân hận. Hiện tại đối với Thứ thật là mòn mỏi, nhưng
tương lai còn thê thảm hơn nhiều. “Nhưng nay mai mới thật
buồn. Y sẽ chẳng có việc gì làm, y sẽ ăn bám vợ! Đời y sẽ
mốc lên, sẽ rỉ đi, sẽ mòn, sẽ mục ra, ở một xó nhà quê.
Người ta khinh y, vợ y sẽ khinh y, chính y sẽ khinh y. Rồi y
sẽ chết mà chưa làm gì cả, chết mà chưa sống.” (Sống
mòn)
Song tương lai trong sáng tác của Nam Cao không hoàn
toàn tuyệt vọng. Trong cái thế giới nghệ thuật nhuốm màu
ảm đạm của ông đôi khi cũng bất chợt loé lên những tia hi
vọng. Kết thúc truyện Điếu văn, Nam Cao viết : “Sự đời
không thể cứ mù mịt mãi thế này đâu. Tương lai phải sáng
sủa hơn. Một rạng đông đã báo rồi. Một mặt trời m
ới sẽ mọc
lên bên trên nấm mồ anh và bên trên đầu hai đứa con côi
anh để lại. Một bàn tay bè bạn sẽ nắm lấy bàn tay chúng và
dắt chúng cùng đi tới một cuộc đời đẹp hơn.” Ở đoạn kết
của Sống mòn, Thứ cũng hi vọng vào một sự đổi thay :
“Lòng Thứ đột nhiên lại hé ra một tia sáng mong manh :
Thứ lại thấy hi vọng một cách vu vơ. Sau cuộc chiến n
ày, có
lẽ cuộc sống sẽ dễ dàng hơn, công bằng hơn, đẹp đẽ hơn.”
Thời kỳ này, Nam Cao cùng với những nhà văn trong nhóm
Văn hoá cứu quốc hay nói tới tương lai với những tâm tr
ạng
náo nức và hi vọng, trong khi văn chương lãng mạn lúc bấy
giờ thì âm hưởng chủ đạo là bi quan, tuyệt vọng với những
“chiều mồ côi”, “chiều tận thế”. Những yếu tố lạc quan chủ
nghĩa của dòng văn học hiện thực phê phán như thổi một
luồng sinh khí mới vào nền văn học dân tộc. Đó là những
yếu tố lạc quan cách mạng, “một đặc điểm có tính lịch sử
độc đáo” của xu hướng văn học hiện thực phê phán Việt
Nam. Song những tia sáng lạc quan cách mạng ấy, nhìn
chung, còn rất mong manh, chưa có cơ sở chắc chắn trong
thế giới quan của nhà văn, thường được “lắp ghép” một
cách ngẫu nhiên vào tác phẩm, và vì thế không đủ sức xua
tan không khí bi quan, ảm đạm bao trùm toàn bộ tác phẩm.
Cũng như th
ời gian trong thế giới quan, thời gian nghệ thuật
trong sáng tác của Nam Cao là một tập hợp của nhiều thời
gian riêng biệt. Bên cạnh dòng thời gian thường nhật, sáng
tác của Nam Cao còn có thêm một dòng thời gian tâm
trạng. Đối với cô bé Ninh (Từ ngày mẹ chết), thời gian ngót
ba năm là quá nặng nề, là dài dằng dặc vì nó mang theo
một nỗi mất mát không gì bù đắp nổi : “Bu chết đã ba năm.
Thầy bảo thế. Thì ra ba năm cũng dài lắm nhỉ. Ninh cứ
tưởng bu chết đã lâu lắm rồi”. Có khi thời gian mang đậm
màu sắc ấn tượng : “Người u em đang ngồi vá áo dưới đất,
ngay chỗ cửa ra, ngẩng mặt lên một thoáng rồi lại cúi mặt
xuống im lặng vá. Thứ có cảm tưởng như thị vá, chỉ vì đêm
dài quá, không sao ngủ hết, cũng như bà ngoại y thường
bắt rận vào những đêm trời rét, vì không ngủ được !” (Sống
mòn). Nói chung, dòng thời gian tâm trạng trong sáng tác
Nam Cao thường nặng nề, chậm chạp, gây cảm giác lâu
hơn, dài hơn so với thời gian khách quan vì g
ắn liền với tâm
trạng đau buồn và bi kịch của nhân vật.
Các thời gian riêng biệt nói trên liên hệ với nhau, tạo nên
nhịp điệu chung của sự vận động trong tác phẩm Nam Cao
- một nhịp điệu chậm chạp, nặng nề, nhàm chán, mòn mỏi.
Trong cái nhịp điệu chung ấy, đời sống các nhân vật của
ông như bị tù đọng, ứ lại. Từ cảnh sống nặng nề, u uất của
những Thứ, những Hộ, những Điền, những Hài… đến cảnh
sống đoạ đày khốn khổ cùa dì Hảo, lão Hạc… đến cảnh
sống đơn điệu, tẻ ngắt, nhàm chán của gia đình ông Học,
tất cả hiện lên giống như những đường, những nét tạo
thành một bức tranh tổng hợp về một lối sống mòn vừa
đáng thương mà lại vừa đáng giận.
Trong hiều tác phẩm của Nam Cao, quá khứ hội tụ trong
hiện tại, và hiện tại như gợi lại những hình ảnh của quá
khứ. Ở đây, hiện tại và quá khứ soi sáng cho nhau, tạo nên
sự cộng hưởng về cảm xúc và ấn tượng cho người đọc.
Những tiếng dùi đục kêu chan chát, ghê rợn của bọn thợ d
ở
nhà gợi lại trong tâm trí trẻ thơ của bé Ninh nỗi đau thương
cũ : “Ninh đã được nghe những tiếng dùi đục ấy một lần rồi,
vào cái ngày mẹ chết. Người ta đóng chiếc săng của mẹ.”
(Từ ngày mẹ chết). Sự đối chiếu so sánh những cảm giác
của cô gái trong quá khứ và hiện tại làm tăng thêm tính ch
ất
bi thảm của sự việc đang diễn ra. Ở đoạn kết của tác phẩm
Chí Phèo, khi nghe tin Chí Phèo chết, thị Nở nhìn nhanh
xuống bụng, trong óc thị thoáng hiện ra cái lò gạch cũ bỏ
không, xa nhà cửa và vắng người qua lại. Ở đây, quá khứ,
hiện tại và tương lai như hoà nhập làm một.
Đôi khi Nam Cao dường như kéo căng hoặc rút ngằn thời
gian hành động được miêu tả. Bữa cỗ thịt chó của người
cha (có khác chi loài cầm thú) trong truyện ngắn Trẻ con
không được ăn thịt chó càng dềnh dàng bao nhiêu thì sự
chờ đợi, cơn đói cồn cào của lũ trẻ tội nghiệp càng bị kéo
căng ra bấy nhiêu. Thời gian ở đây bị kéo dài ra một cách
quá quắt, nhấn mạnh thêm cái dư vị đắng cay của tình
huống. Thời gian trong Một bữa no như cũng bị chùng
xuống, trong tình huống bữa ăn chực của bà lão khiến
người đọc thêm thấm thía cái cảnh ngộ trớ trêu và nỗi tủi
nhục của bà già khốn khổ.
Quá trình học quét nhà của bé Hồng trong Bài học quét nhà
được mô tả tỉ mỉ chậm rãi giống như những thước phim
quay chậm, trong đó mỗi thước phim đều in đậm những t
ình
cảm nhân văn.
Nhiều sự kiện trong sáng tác của Nam Cao thường xảy ra
trong thời gian ốm đau của trẻ em, trong những buổi chiều
mùa đông lạnh lẽo, trong mưa bão hoặc những sự kiện xảy
ra lúc ban đêm. Ông thường quay về với quá khứ, lươt qua
những năm tháng trong cuộc đời nhân vật của mình và chỉ
dừng lại ở những thời điểm, những giai đoạn có ý nghĩa
nhất. Nam Cao chú ý đặc biệt tới thời gian hiện tại, một cái
thời gin hiện tại không bị chìm đi trong quá khứ, cũng không
bị mờ đi vì ảo ảnh của tương lai mà hiện ra rõ ràng hơn, cụ
thể hơn, sinh động hơn, sâu sắc hơn, vì mang theo cả cái
chiều dài và bề sâu thăm thẳm của quá khứ, hiện tại và
tương lai c
ộng lại. Biết dừng ở thời điểm hiện tại của các sự
kiện, khám phá tính chất phong phú, đa dạng của nó, điều
đó gắn liền với sở trường của bút pháp Nam Cao – khám
phá thế giới bên trong, thế giới tâm hồnnhân vật và lối kể
chuyện theo quan điểm của nhân vật.
Nam Cao khai thác không gian nghệ thuật –
cái có liên quan
tới quan niệm và cảm quan của ông về thời gian, trong quá
trình khám phá những tính cách, những tình huống trong
đường đời của nhân vật. Trong không gian nào nh
ững hằng
số thời gian này tồn tại, những lãnh địa nào phù hợp với
chúng ? Thiếu câu trả lời về vấn đề này, khó có th
ể hiểu sâu
sắc những đặc điểm của chủ nghĩa hiện thực và quan niệm
về cuộc đời và con người của Nam Cao.
Không gian trong sáng tác của Nam Cao trước hết là vùng
nông thôn, những căn nhà nơi thôn dã, những con đường
làng… Trong những mối liên hệ của thời gian và không
gian, làng quê, ngôi nhà, con đường hoá ra là cơ bản và
quan trọng nhất : tất cả những mối liên hệ còn lại hoặc bị
chúng cuốn hút, hoặc là trở thành thứ yếu trong thế giới
nghệ thuật của nhà văn.
Thành phố không phải một lần được nhắc đến, nhưng nó
chỉ thoáng hiện ra như là một cai gì xa lạ, bí ẩn. Người ta
hướng tới nó niềm hi vọng tìm thấy một lối thoát cho cuộc
sống cùng quẫn, buồn chán và tẻ nhạt ở nhà quê. Trong
sáng tác của Nam Cao, Hà Nội, Sài Gòn là n
ơi mà các nhân
vật của ông gửi biết bao hi vọng háo hức, nhưng rồi bị chết
dần, chết mòn những mơ ước ở đó, cuối cùng, như m
ột quy
luật họ buộc phải quay về quê hương đem theo cả sự
nghèo đói, cả suy sụp về tinh thần lẫn thể xác.
Thường xuyên hơn cả, ta bắt gặp trong sáng tác của Nam
Cao cái làng Vũ Đại (chính là cái làng Đại Hoàng quê
hương ông), ngoại ô làng Thuỵ (Sống mon, nơi có cái
trường tư Thứ dạy thuê để kiếm sống cùng với xóm Bài
Thơ (Truyện người hàng xóm) với “những mái lá xác xơ
trông tiều tuỵ như những cái nón rách trên gáy những ngư
ời
ăn mày ngồi xúm xít với nhau, ngủ gục cho đỡ lạnh” hiện ra
như là những bức phối cảnh của làng Vũ Đại.
Khác với cái làng Đông Xá huyên náo, dồn dập tiếng trống
thúc sưu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, nông thôn trong tác
phẩm của Nam Cao có cái vẻ vắng lặng, hoang vu của một
vùng quê xác xơ vì nghèo đói. “Một cái làng quê u tịch đôi
khi chết lặng vì cái nắng trưa gay gắt của mùa hè, xao xác
vào những ngày cuối chu, tả tơi vào những mùa mưa bão,
quạnh vắng vào những đêm trăng.” (1) Không gian ở đây
“yên tĩnh quá” đến nỗi người ta có thể nghe thấy “tiếng thở
ra u ám” của những “giậu tre rậm như rừng”, thậm chí có
thể nghe thấy cả “tiếng kêu rầm rĩ của những thớ gỗ trong
cái kèo cái cột, hình như chúng tê mỏi mà vươn mình hay
sốt ruột mà rên lên” (Nửa đêm). Cái không gian vắng lặng
ấy đôi khi cũng bị khuấy lên bởi những tiếng hờ, tiếng khóc,