ĐỀ TÀI : CÂY CHÈ
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ CÂY CHÈ
1.1.Nguồn gốc và lịch sử phát triển của cây chè
1.1.1.Nguồn gốc
Năm 1933 ơng J.JB.Denss , một chun viên chè người Hà Lan, ngun giám đốc viện
nghiên cứu chè Buitenzorg ở Java(indonexia), cố vấn các cơng ty chè Đơng dương thời Pháp,
sau khi đi khảo sát chè cổ Tham vè tại xã Cao Bộ (hun Vị Xun, tỉnh Hà Giang) đã viết về
nguồn gốc cây chè trên thế giới …Trong đó có viết : ”Điểm cần chú ý là ở những nơi mà con
người tìm thấy cây chè, bao giờ cũng ở cạnh con sông lớn, nhất là sông Dương Tử, sông Tsi
Kiang ở T rung Quốc, sông Hồng ở Vân Nam và ở Bắc Kỳ ( Việt Nam ), sông MêKông ở Vân
Nam, Thái Lan và Đông Dương … tất cả những con sơng đó đều bắt nguồn từ dãy núi phía
đơng Tây Tạng.” Vì lý do này Ơng cho là nguồn gốc cây chè là từ dãy núi này phân tán đi.
Năm 1976, Demukhatze viện sỹ thơng tấn viện hàn lâm khoa học Liên Xơ nghiên cứu sự
tiến hố của cây chè bằng cánh phân tích chất cafein trong chè mọc hoang rã và chè do con
người trồng ở các vùng khác nhau trên thế giới trong đó có các vùng chè cổ ở Việt Nam
(suối Giàng, Nghĩa Lộ, Lạng Sơn, Nghệ An, …). Tác giả đã kết luận : Cây chè cổ Việt Nam
tổng hợp các chất cafein đơn giản nhiều hơn cây chè Vân Nam Trung Quốc và như vậy các
chất cafein phức tạp ở cây chè Vân Nam nhiều hơn ở cây chè Việt Nam. Do đó tác giả đã đề
xuất sơ đồ tiến hố cây chè như sau :
Camelia chè Việt Nam – chè Vân Nam lá to – chè Trung Quốc – chè Assam ấn Độ.
Qua phân tích nhiều nhà khoa học cho rằng Việt Nam là một trong những nơi của cây chè .
Ngồi những giống chè có sẵn trên đồi núi từ những giống “ chè rừng ” như chè tuyết san
Việt Nam đã nhập khẩu thêm một số giống mới từ Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản.
1.1.2. Lịch sử cây chè tại Việt Nam
Theo thư tịch cổ Việt Nam, cây chè đã có từ xa xưa dưới 2 dạng: cây chè vườn hộ
1
gia đình vùng châu thổ Sơng Hồng và cây chè rừng ở miền núi phía bắc.
Sự phát triển của cây Chè Việt Nam
Thời kỳ trước năm 1882
Từ xa xưa, người Việt Nam trồng chè dưới 2 loại
hình:
Chè vườn hộ gia đình uống lá chè tươi, tại vùng
chè dồng bằng sơng Hồng ở Hà đơng, chè đồi ở Nghệ
An.
Chè rừng vùng núi, uống chè mạn, lên men một
nửa, như vùng Hà Giang, Bắc Hà ...
Thời kỳ 18821945
Ngoài 2 loại chè trên, xuất hiện mới 2 loại chè công nghiệp; chè đen công nghệ truyền
thống OTD, và chè xanh sao chảo Trung Quốc. Bắt đầu phát triển những đồn điền chè lớn tư
bản Pháp với thiết bị công nghệ hiện đại. Người dân Việt Nam, sản xuất chè xanh tại hộ gia
đình và tiểu doanh điền. Chè đen xuất khẩu sang thị trường Tây Âu, chè xanh sang thị trường
Bắc Phi là chủ yếu. Diện tích chè cả nước là 13305 ha, sản lượng 6.000 tấn chè khơ/năm.
Thời kỳ độc lập (1945 nay)
Sau 1954, Nhà nước xây dựng các Nông trường quốc doanh và Hợp tác xã nông nghiệp
trồng chè; chè đen OTD xuất khẩu sang Liên Xô Đông Âu, và chè xanh xuất khẩu sang
Trung Quốc.
Đến hết năm 2002, tổng diện tích chè là 108.000 ha, trong đó có 87.000 ha chè kinh
doanh. Tổng số lượng chè sản xuất 98.000 tấn, trong đó xuất khẩu 72.000 tấn đạt 82 triệu
USD.
1.2. Phân bố và phân loại
Theo phân loại của nhà phân loại thực vật Hà Lan Cohen Stuart (1918) và nhà nông học
2
Pháp Du Pasquier (1923), giống chè có ở Việt Nam chia thành 4 thứ (varietas): Chine
microphylla, Chine macrophylla, Assamica và Shan.
Thứ chè Trung Quốc lá to (Chine macrophylla), điển hình là giống chè Trung du Bắc bộ,
cây thấp thân gỗ nhỏ, phân bố tại Phú Thọ, Thái Nguyên, Yên Bái, Thanh Hoá, Nghệ An…
làm trà đen và trà xanh.
Thứ chè Tuyết (Shan), cây thân gỗ cao to, búp nhiều tuyết trắng, phẩm chất tốt, phân bố tại
vùng cao miền núi phía Bắc Việt Nam như Hà Giang, Sơn La, Lào Cai, làm chè mạn, chè
vàng; trồng tại các đồn điền chè cũ tư bản Pháp ở Tây Ngun, chế biến trà đen xuất khẩu.
Thứ chè Ấn Độ (Assamica), cây thân gỗ cao to, nhập nội hồi Pháp thuộc từ Ấn Độ, trồng
tại các đồn điền chè tư bản Pháp, chế biến chè đen xuất khẩu.
Thứ chè Trung Quốc lá nhỏ (Chine microphylla) như Quảng Đơng, chỉ có trong vườn tiêu
bản ở Phú Hộ.
1.3. Vị trí kinh tế của cây chè
Mặc dù Việt Nam đứng thứ 5 thế giới về xuất khẩu chè, nhưng giá bán lại chỉ bằng một
nửa so với mặt bằng giá chung trên thế giới. ( 14/10/2010).
Trong 9 tháng đầu năm, sản lượng xuất khẩu chè ước đạt gần 100 nghìn tấn, tăng 25% so
với cùng kỳ năm 2008; kim ngạch xuất khẩu 126 triệu USD, tăng 14,5% so với cùng kỳ năm
2008. Trong đó, chè đen chiếm 65% về khối lượng và 62% về giá trị; chè xanh chiếm 33%
về khối lượng và 34% về giá trị; cịn lại là các loại chè khác
Đơn giá xuất khẩu bình qn đạt 1.282 USD/tấn, giảm đơi chút so với năm 2008.
Những thị trường nhập khẩu chè của Việt Nam có mức tăng trưởng mạnh như Nga,Pakistan,
Ấn độ, Indonesia, Trung Quốc, Đài Loan.
Nhà nước đã đồng ý cho ngành chè Việt Nam xây dựng thương hiệu quốc gia Cheviet.
Chương trình được vận động trên phạm vi tồn quốc, và đến nay thương hiệu Cheviet đã
được đăng ký bảo hộ ở 77 quốc gia trên thế giới
3
Chè là sản phẩm có thị trường quốc tế ổn định, rộng lớn và ngày càng được mở rộng.
Theo dự đoán của FAO (1967), nếu lấy năm 1961 - 1963 là 100% thì năm 1975 yêu cầu
về chè hàng năm của thế giới sẽ tăng 2,2 - 2,7% và sản xuất chè tăng 3,2%.
Ở nước ta, chè là một trong những cây có giá trị xuất khẩu cao. Căn cứ vào năng suất
bình quân đã đạt được năm 1969 của khu vực nông trường quốc doanh (42,39 tạ
búp/ha), nếu chỉ đứng về mặt xuất khẩu mà xét thì một ha chè của khu vực nông
trường quốc doanh so với một số cây công nghiệp dài ngày của cùng khu vực này bằng
hơn 5 lần một ha cà phê, gần 10 lần một ha sả. Nếu năng suất chè đạt 100 tạ búp/ha
thì xuất khẩu có thể thu được đủ để nhập 46 tạ phân hóa học, hoặc 3,1 tạ bơng, hoặc
25 - 30 tạ bột mì. Như vậy một ha chè có năng suất 100 tạ búp có giá trị xuất khẩu
ngang với 200 tấn than.
1.4.Sản lượng sản suất hàng năm
Sản lượng chè của Việt Nam thấp so với thế giới. Nói chung chè Việt Nam được đánh
giá là có chất lượng thấp, được phản ánh qua việc giá bán trên thị trường thế giới thấp hơn tới
30%. Nguyên nhân của việc sản lượng và chất lượng thấp gồm có các vấn đề về kĩ thuật
trồng, và kĩ thuật xử lý sau thu hoạch.
Tình hình xuất khẩu trong những năm gần đây rất khả quan. Tuy Việt Nam khơng phải là
4
nơi tập trung các nhà xuất khẩu hàng đầu thế giới như Ấn Độ, Sri Lanka và Kenya, nhưng thị
phần thế giới của Việt Nam tương đối cao (1.5%). Đặc biệt, nhàng chè đã đạt mức tăng
trưởng xuất khẩu cao với tỉ lệ tăng bình quân hàng năm gần 15% về giá trị từ năm 1999 đến
năm 2003. Theo số liệu thống kê của Việt Nam, xuất khẩu chè đạt trên 60 triệu đô năm
2003. Con số này cao hơn khá nhiều so với thống kê thương mại thế giới, thống kê này bỏ
qua Iraq (một đối tác buôn bán quan trọng) và ước tính xuất khẩu chè có giá trị 40 triệu đơ,
với các thị trường chính là Đài Loan, Nga và Đức.
Nhà xuất khẩu chè Việt Nam đã gặp phải những thay đổi cơ bản về địa lý của các nước
đối tác chính(Liên bang Xơ Viết, và Iraq) khiến cho nhập khẩu giảm mạnh. Đến năm 1991,
Việt Nam xuất khẩu chè sơ chế sang Liên bang Xơ Viết và Đơng Âu, tại đây, chè được chế
biến và đóng gói lại trước khi bán. Sau khi Liên bang Xô Viết tan rã, thị trường ngồi nước
của Việt Nam được mở rộng. Việt Nam đã xuất chè tới hơn 50 thị
trường tính đến đầu năm 2004, tuy 80% lượng xuất khẩu là sang Iraq, Đài Loan, Ấn Độ,
Pakistan và Nga. Irad là một trong các khách hàng lớn của chè Việt Nam.
1.4.1Tình hình xuất khẩu chè Việt Nam
Tình hình xuất khẩu chè Việt Nam ngày càng tăng cho nên xuất khẩu chè Việt Nam ngày
một tăng thị trường mở rộng hiện nay chúng ta có quan hệ xuất khẩu chè với khoảng 30 nước
trên thế giới.
Xuất khẩu chè Việt Nam phân theo sản phẩm ( HS )
Ðvt: nghìn USD
HS
090240
090220
Sản phẩm
Tổng xuất khẩu hàng hóa
của việt nam
Xuất khẩu chè của việt
nam
Chè đen khác ( đã ủ
men) và chè đen khác đã
ủ men một phần
Chè xanh khác ( chưa ủ
men)
2007
2008
48.561.343 62.685.130
2009
57.096.274
2010
72.236.665
133.497
147.326
180.219
200.537
67.929
82.652
110.398
112.874
53.640
49.142
55.444
75.447
5
090230
090210
Chè đen( đã ủ men) và 7.369
chè đã ủ men một phần
Chè xanh ( chưa ủ men) 4.561
đóng gói sẵn
8.407
11.185
6.639
7.125
3.192
5.577
Chè
2009
2010
2011
2012
3/2013
Giá trị xuất khẩu
179.5
200
204
224.6
43.6
Tăng trưởng so với
cùng kỳ năm trước (%)
28.4
11.4
2.0
10.1
4.3
Sản xuất chè ở Việt Nam tăng ấn tượng vào những năm 90, việc mở rộng diện tích trồng
chè góp phần nhiều hơn việc nâng cao sản lượng. Tính đến năm 2003, tồn bộ diện tích trồng
chè của Việt Nam là 99,000 ha, trong đó 70% là của các hộ sản xuất nhỏ%, cịn xấp xỉ 30%
là của nhà nước và các liên doanh. Tỉ lệ nắm giữ của các hộ tiểu chủ tăng mạnh từ năm 1995,
khi họ được phân đất theo Nghị định 01. Từ năm 1990 đến 2003, sản lượng tăng trung bình
7%/năm, diện tích và lợi nhuận cũng tăng 3.5% và 3.1% mỗi năm. Sản lượng sụt giảm vào
năm 2003, khi thị trường tan rã do cuộc chiến ở Irad, nhưng dự đoán sẽ tăng kỉ lục vào năm
2004.
6
Ngành chè Việt Nam mang định hướng xuất khẩu mạnh mẽ, với xuất khẩu chiếm 85%
sản lượng năm 2001/2002, tăng vượt bậc từ 30% năm 1991. Việt Nam sản xuất ba loại chè
chế biến – chè đen truyền thống (60%), chè đen Cut, Tear, and Curl (CTC) (7%) chè xanh
(33%) (Accenture 2000). Hầu hết chè được tiêu thụ trong nước là chè xanh; thực tế là 90%
chè xanh sản xuất ra được tiêu thụ trong nước (Accenture 2000). Chè xanh ướp hương nhài,
sen và các loại hoa thơm khác là phổ biến, chiếm khoảng 20% lượng tiêu thụ trong nước (Vo
Ngoc Hoai, 1998). Chè đen chỉ được tiêu dùng tại các thành phố lớn, và kể cả như vậy cũng
chỉ chiếm 1% tổng lượng tiêu thụ.
1.4.2.Tình hình thế giới
Chè được sản xuất ở 28 nước, nhưng có tới hơn 100 nước tiêu thụ chè. Chè là một trong
những loại đồ uống phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Từ lâu chè đã trở thành cây công
nghiệp chủ yếu của một số quốc gia.
Thị trường chè thế giới với 1,4 triệu tấn, chủ yếu là Sri Lanka, Kenya, Trung Quốc và Ấn
Độ, chiếm khoảng 2/3 tổng lượng xuất khẩu. Việt Nam nắm 2 3% thị phần thế giới, nhưng
có ưu thế hơn về chè xanh. Việc có thêm nhiều nước trồng chè có thể làm tăng cung thế giới,
trong khi cầu tăng chậm. Thị trường thế giới về chè và sản phẩm chè rất yếu, giảm 0.4%/năm
về giá trị từ năm 1999 đến năm 2003, và chỉ tăng 1%/năm về số lượng. Đến năm 2003, giá
trị của thị trường khoảng 2480 triệu đô. Các nước nhập khẩu nhiều nhất là Anh (10.8%),
Nga, Pakistan, Hoa Kỳ và Nhật Bản. Trong đó chỉ có đạt mức tăng trưởng tích cực trong
vịng 5 năm qua. Thị trường của chè đen lớn hơn 5 lần chè xanh nhưng trong những năm gần
đây, tình hình tăng trưởng thị trường của chè xanh đã tốt lên.
1.4.3.Sản lượng
Mặc dù diện tích trong những năm gần dây có xu hướng giảm( giảm 0,4% năm) nhưng nhờ
có đầu tư vốn cũng như kỹ thuật để thâm canh tăng nhanh năng suất thu hoạch (23% năm),
nên đến năm 2000 sản lượng chè thế giới lên tới 3 triệu tấn.
7
Tỷ trọng thị trường xuất khảu chè năm 2012
1.4.3.1.Xuất khẩu
Trong 28 nước san xuất chè thì có 26 quốc gia xuất khẩu chè. Theo số thống kê, ta co thể
thấy 50% sản lượng thế giới chè dành cho xuất khẩu.Những nước xuất khẩu chè hàng đầu thế
giới như Srilanca, Kenya, Ấn Độ, Trung Quốc đã chiếm tỷ trọng khoảng 70% khối lượng chè
của thế giới.
Xuất khẩu chè thế giới thời gian qua tăng với tốc độ tương đối ổn định, bình qn 3%
năm. Điều này chứng tỏ rằng các nước có điều kiện phát triển cây chè vẫn khơng ngừng đẩy
mạnh sản xuất và xuất khẩu chè.
Một số thị trường xuất khẩu chè trong tháng 2 và 2 tháng đầu năm 2013
(ĐVT: Lượng: tấn; Kim ngạch: nghìn USD)
Thị trường
So
So
So
T2/13 T1/13 T2/12 (%) 2T/13 2T/12 (%)
8
Đài Loan
Nga
Pakistan
Hoa Kỳ
Indonesia
Trung Quốc
Ba Lan
Ấn Độ
UAE
Đức
Arập Xêút
Philippine
L
956
828
723
594
388
335
209
158
131
121
95
*
(%)
KN
1.174
1.206
1.378
654
374
474
217
170
256
234
233
*
L
60,28
64,46
74,92
15,56
86,31
57,27
30,79
0,63
90,08
31,52
87,50
*
KN
62,34
65,24
47,02
45,73
92,08
49,41
51,56
52,65
83,74
58,11
69,14
*
L
36,35
39,61
45,02
19,04
77,23
57,22
46,55
71,74
59,76
17,48
45,40
*
KN
35,57
41,26
40,37
4,98
76,06
45,27
34,44
14,86
24,88
47,17
42,33
*
L
2.595
1.809
2.970
1.622
1.557
951
722
204
758
390
454
65
KN
3.752
2.777
5.064
1.835
1.565
1.308
785
214
1.589
595
1.105
171
L
7,81
22,36
4,80
106,89
45,99
28,01
5,00
121,74
376,73
29,14
11,67
33,67
1.5.Công dụng của cây chè
Chè là một cây công nghiệp dài ngày, trồng trọt một lần cho thu hoạch nhiều năm, từ
3050 năm. Người ta trồng chè để lấy búp chè có một tum và 23 lá .
Từ lá chè tuỳ theo cách chế biến chè và công nghệ chế biến để cho ra các loại chè khác
nhau : chè xanh, chè đen , chè vàng , hồ tan …
Chè có nhiều vitamin có giá trị dinh dưỡng và bảo vệ sức khoẻ, có tác dụng giải khát, bổ
dưỡng và kích thích hệ thần kinh trung ương, giúp tiêu hố các chất mỡ, giảm được bệnh béo
phì, chống lão hố … Do đó nước chè đã trở thành thứ nước uống của nhân loại. Ngày nay,
hầu hết dân cư trên thế giới dùng nước chè làm nước uống hàng ngày. Một số nước uống chè
thành tập quán và tạo ra được một nền văn hoá nguyên sơ là “ văn hố trà”. Ngồi để uống
người ta cịn dùng nước chè xanh để rửa ráy các vết thương những chỗ lở loét, nhiễm trùng
trên cơ thể.Vì thế chè khơng những có tên trong danh mục giải khát mà cịn có tên trong từ
điển y hoc, dược học.Người Nhật Bản khẳng định chè cứu người khỏi bị nhiễm xạ và gọi đó
là thứ nước uống của thời đại ngun tử.ở vùng Tây Nam Trung Quốc thời cổ đại cùng khung
cảnh văn hố với chúng ta đã dùng lá chè làm vật trao đổi ngang giá và thứ thuốc tiên.
9
KN
20,37
19,97
7,17
95,84
39,83
16,90
3,97
44,59
342,62
32,81
8,30
33,46
Chè có giá trị sử dụng và là hàng hố có giá trị kinh tế cao, chè là một sản phẩm xuất khẩu
có giá trị trên thị trường thế giới.Thị trường trong nước địi hỏi về chè ngày càng nhiều với
u cầu chất lượng ngày càng cao. Chè là một cây có hiệu lực khai thác vùng đất đai rộng lớn
của trung du, miền núi, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, bảo vệ mơi trường sinh thái. Cây chè
sống quanh năm và tương đối nhiều, tạo cơng ăn việc làm khơng những cho lao động chính
mà cả cho lao động phụ (người già, trẻ em), có tác dụng điều hồ lao động từ vùng đồng
bằng lên vùng trung du, miền núi thưa thớt.
1.6. Thành phần sinh hóa và đặc điểm hình thái của cây chè
1.6.1. Thành phần sinh hóa
Phẩm chất của chè thành phẩm được quyết định do những thành phần hóa học của
nguyên liệu và kỹ thuật chế biến. Thành phần sinh hóa của chè biến động rất phức tạp nó
phụ thuộc vào giống, tuổi chè, điều kiện đất đai, địa hình, kỹ thuật canh tác, mùa thu
hoạch... Trên cơ sở nắm được những đặc điểm chủ yếu về mặt sinh hóa của nguyên liệu sẽ
đặt cơ sở cho một số biện pháp kỹ thuật để nâng cao sản lượng đồng thời giữ vững và nâng
cao chất lượng của chè.
Những thành phần sinh hóa chủ yếu trong búp chè gồm có:
1.6.2 Nước:
Nước là thành phần chủ yếu trong búp chè: nước có quan hệ đến q trình biến đổi sinh
hóa trong búp chè và đến sự hoạt động của các men, là chất quan trọng không thể thiếu
được để duy trì sự sống của cây. Hàm lượng nước trong búp chè thay đổi tùy theo giống,
tuổi cây, đất đai, kỹ thuật canh tác, thời gian hái và tiêu chuẩn hái v.v... Trong búp chè (tôm
+ 3 lá) hàm lượng nước thường có từ 75 82%. Để tránh khỏi sự hao hụt những vật chất
trong búp chè qua quá trình bảo quản và vận chuyển, phải cố gắng tránh sự giảm bớt nước
trong búp chè sau khi hái.
1.6.3.Tanin:
10
Tanin là một trong những thành phần chủ yếu quyết định đến phẩm chất chè. Tanin cịn
gọi chung là hợp chất fenol, trong đó 90% là các dạng catechin. Tỷ lệ các chất trong thành
phần hỗn hợp của tanin chè không giống nhau và tùy theo từng giống chè mà thay đổi.
Những hợp chất này dựa vào tính chất của chúng có thể phân thành:
Dạng tan được trong este: phân tử lượng 320 360.
Dạng tan trong nước hoặc xeton: phân tử lượng 420 450.
Dạng kết hợp với protein (chỉ sau khi dùng dung dịch NaOH 0,5% để xử lý, mới có thể
hịa tan trong dung dịch).
Các dạng catechin như epicatechin galat, epigalocatechin galat tham gia vào q trình
sinh trưởng của cây.
Về mặt phẩm chất chè, tanin giữ vai trị chủ yếu trong việc tạo thành màu sắc, hương vị
của chè (nhất là đối với việc chế biến chè đen), vì vậy trong q trình trồng trọt cần chú ý
nâng cao hàm lượng tanin trong ngun liệu.
Tanin được dùng trong y học để làm thuốc cầm máu, nó có khả năng tăng cường sức đề
kháng của thành huyết quản trong cơ thể động vật, tăng cường sự tích lũy và đồng hóa sinh
tố C.
1.6.4.Ancaloit:
Trong chè có nhiều loại ancaloit nhưng nhiều nhất là cafein. Hàm lượng cafein ở trong
chè có từ 3 5% thường nhiều hơn cafein ở trong lá cà phê từ 2 3 lần. Nó khơng có khả
năng phân ly ion H+ tức là khơng có tính axít mà chỉ là một kiềm yếu. Cafein chỉ hòa tan
trong nước với tỷ lệ 1/46, rất dễ hịa tan trong dung mơi clorofoc. Cafein có tác dụng kích
thích hệ thần kinh trung ương, kích thích cơ năng hoạt động của tim, có tác dụng lợi tiểu.
Cafein rất bền vững trong chế biến. Nó có khả năng kết hợp cới tanin để tạo thành hợp chất
tanat cafein có hương vị dễ chịu. Theo tài liệu của Roberto, hợp chất tanat cafein được tạo
11
thành chủ yếu từ cafein, teaflavin, tearubigin, teaflavingalat. Ngồi ra cịn có sự tham gia
của ECG và EGCG.
1.6.5.Protein và axít amin:
Protein là hợp chất hữu cơ phức tạp chứa N, phân bố khơng đều ở các phần của búp chè
và thay đổi tùy theo giống, thời vụ, điều kiện canh tác và các yếu tố khác. Protein có thể
trực tiếp kết hợp với tanin, polifenol tạo ra những hợp chất không tan làm ảnh hưởng xấu
đến phẩm chất chè đen. Do đặc điểm của việc chế biến chè xanh là diệt men ngay từ đầu,
nên hàm lượng tanin trong chè ít bị thay đổi và cịn q cao làm cho chè có vị đắng. Protein
kết hợp với một phần tanin làm cho vị chát và đắng giảm đi. Vì thế trong một chừng mực
nào đó, protein có lợi cho phẩm chất chè xanh.
Ngày nay người ta đã tìm thấy trong chè có 17 axít amin, các axít amin này kết hợp với
đường và tanin tạo thành andehit có mùi thơm của chè đen và làm cho chè xanh khác
1.6.6.Gluxít và pectin:
Trong lá chè chứa rất ít gluxít hịa tan, trong khi đó các gluxít khơng hịa tan lại chiếm
tỷ lệ lớn. Xenlulo và hemixenlulo cũng tăng lên theo tuổi của lá, vì vậy nguyên liệu càng
già chất lượng càng kém. Hàm lượng đường hịa tan ở trong chè tuy ít nhưng rất quan trọng
đối với hương vị chè. Đường tác dụng với protein hoặc axít amin tạo nên các chất thơm.
Pectin thuộc về nhóm gluxít và nó là hỗn hợp của các polixacarit khác nhau và những chất
tương tự chúng. ở trong chè, pectin thường ở dạng hịa tan trong nước, tan trong axít oxalic,
tan trong amon oxalat. Pectin tham gia vào việc tạo thành hương vị chè, làm cho chè có mùi
táo chín trong q trình làm héo. ở mức độ vừa phải, pectin làm cho chè dễ xoăn lại khi chế
biến nhưng nó có ảnh hưởng xấu đến q trình bảo quản chè thành phẩm vì pectin dễ hút ẩm.
1.6.7.Diệp lục và các sắc tố khác gần nó:
Trong lá chè có chứa diệp lục tố, carotin và xantofin. Các sắc tố này biến động theo
giống, theo mùa và các biện pháp kỹ thuật canh tác.
12
Trong chè thành phẩm diệp lục tố có ảnh hưởng xấu tới phẩm chất của chè bởi vì làm
cho sản phẩm có màu xanh, mùi hăng, vị ngái.
1.6.8.Dầu thơm:
Dầu thơm ở trong chè rất ít, hàm lượng của chúng trong lá chè tươi: 0,007% 0,009%
và trong chè bán thành phẩm: 0,024 0,025%. Hàm lượng dầu thơm trong lá chè, được tăng
dần ở những địa hình cao, tuổi lá q non chứa ít hương thơm. Dầu thơm ảnh hưởng trực
tiếp đến hương vị của chè do hương thơm tự nhiên và do q trình chế biến tạo thành như sự
lên men, ơxi hóa, tác dụng của độ nhiệt cao.
Dầu thơm có tác dụng điều tiết sinh lý của cây để thích hợp với điều kiện bên ngồi (khi
độ nhiệt q cao hay q thấp) và ngăn cản những bức xạ có bước sóng ngắn, tác hại đến cây
chè. Đối với cơ thể con người dầu thơm có tác dụng kích thích hệ thần kinh trung ương làm
cho tinh thần minh mẫn, thoải mái dễ chịu nâng cao hiệu suất làm việc của các cơ năng
trong cơ thể.
1.6.9.Vitamin:
Các loại vitamin có trong chè rất nhiều. Chính vì vậy giá trị dược liệu cũng như giá trị
dinh dưỡng của chè rất cao. Theo các tài liệu của Trung Quốc, hàm lượng một số vitamin
trong chè tính theo mg/1.000g chất khơ như sau:
Vitamin A: 54,6; B1: 0,70; B2: 12,20; PP: 47,0; C: 27,0 v.v...
Đáng chú ý nhất là hàm lượng vitamin C ở trong chè, nhiều hơn trong cam chanh từ 3 đến 4
lần. Q trình chế biến chè đen làm cho vitamin C giảm đi nhiều vì nó bị ơxi hóa, cịn trong
chè xanh thì nó giảm đi khơng đáng kể.
1.6.10. Men:
Men là nhân tố quan trọng của sự sống. Men quyết định chiều hướng phát triển của mọi
phản ứng hóa học xảy ra trong cơ thể sinh vật và chúng là chất kích động tất cả các biến đổi
hóa học.
13
Trong búp chè non có hầu hết các loại men, nhưng chủ yếu gồm hai nhóm chính:
Nhóm thủy phân: men amilaza, glucoxidaza, proteaza và một số men khác.
Nhóm ơxi hóa khử: Chủ yếu là hai loại men: peroxidaza và polifenoloxidaza.
1.6.11. Chất tro:
Các ngun tố tro giữ vai trị quan trọng trong hoạt động của cơ thể sống, chúng là
những nhân tố của sự thay đổi trạng thái các chất keo và ảnh hưởng trực tiếp đến sự trao
đổi chất của tế bào. Hàm lượng tro trong chè tươi từ 45% và trong chè khơ từ 56%.
Trong chè, tro chia thành hai nhóm: hịa tan trong nước và khơng hịa tan trong nước. Chè
thành phẩm loại tốt, hàm lượng tro ít hơn so với loại chè xấu nhưng tỷ lệ chất tro hịa tan lại
nhiều hơn.
1.7. đặc diểm hình thái
1.7.1.Thân và cành:
Cây chè sinh trưởng trong điều kiện tự nhiên là đơn trục, nghĩa là chỉ có một thân chính,
trên đó phân ra các cấp cành. Do đặc điểm sinh trưởng và do hình dạng phân cành khác
nhau, người ta chia thân chè ra làm ba loại: thân gỗ, thân nhỡ (thân bán gỗ) và thân bụi.
1. Đứng thẳng 2. Trung gian 3. Nằm ngang
Hình 1: Các dạng tán chè
14
Cành chè do mầm dinh dưỡng phát triển thành, trên cành chia làm nhiều đốt. Chiều dài
của đốt biến đổi rất nhiều (từ 1 10 cm) do giống và do điều kiện sinh trưởng. Đốt chè dài
là một trong những biểu hiện giống chè có năng suất cao. Từ thân chính, cành chè được
phân ra nhiều cấp: cành cấp 1, cấp 2, cấp 3... Hoạt động sinh trưởng của các cấp cành trên
tán chè rất khác nhau. Theo lý luận phát dục giai đoạn thì những mầm chè nằm càng sát phía
gốc của cây càng có giai đoạn phát dục non, sức sinh trưởng mạnh. Còn những cành chè
càng ở phía trên ngọn (mặt tán) thì càng có giai đoạn phát dục già, sức sinh trưởng yếu, khả
năng ra hoa kết quả mạnh. Những cành chè ở giữa tán hoặc trên mặt tán, hoạt động sinh
trưởng thường mạnh hơn các cành ở rìa tán và ở phía dưới tán.
Thân và cành chè tạo nên khung tán của cây chè. Với số lượng càng thích hợp và cân đối
ở trên tán, cây chè cho sản lượng cao. Vượt q giới hạn đó, sản lượng khơng tăng và phẩm
cấp giảm xuống do búp mù nhiều. Tương quan giữa mật độ cành và sản lượng búp là một
tương quan không chặt. Theo Bakhơtatje, hệ số tương quan giữa mật độ cành với sản lượng
là r = 0,071.
Trong sản xuất, cần nắm vững đặc điểm sinh trưởng của cành để áp dụng các biện pháp
kỹ thuật đốn, hái hợp lý mới có thể tạo ra trên tán chè nhiều búp, đặt cơ sở cho việc tăng
sản.
1.7.2. Mầm chè:
Trên cây chè có những loại mầm: mầm dinh dưỡng và mầm sinh thực. Mầm dinh dưỡng
phát triển thành cành lá, mầm sinh thực phát triển thành nụ hoa và quả.
Mầm dinh dưỡng gồm có:
Mầm đỉnh
Mầm nách
Mầm ngủ
Mầm bất định (mầm ở cổ rễ)
15
Phía trái:
1. Lá vẩy ốc
2. Mầm lá cá
3. Mầm lá thật
4. Mầm nách
5. Điểm sinh trưởng
Phía phải
1. Lá vẩy ốc
2. Mầm lá cá
3. Mầm lá thật
4. Mầm nách thứ 4
5. Mầm nách thứ 5
6. Điểm sinh trưởng
Hình 2: Mầm chè cắt dọc
Mầm đỉnh: Loại mầm này ở vị trí trên cùng của cành, tiếp tục phát triển trên trục
chính của các cành năm trước, hoạt động sinh trưởng mạnh và thường có tác dụng ức
chế sinh trưởng của các mầm ở phía dưới nó (ưu thế sinh trưởng ngọn). Trong một
năm, mầm đỉnh hình thành búp sớm nhất cùng với thời kỳ bắt đầu sinh trưởng mùa
16
xuân của cây. Búp được hình thành từ các mầm đỉnh là các búp đợt 1, có thể là búp bình
thường hoặc búp mù.
Mầm nách: Trong điều kiện sinh trưởng tự nhiên, phần lớn chúng ở trạng thái nghỉ do
sự ức chế của mầm đỉnh. Khi hái các búp đỉnh, mầm nách phát triển thành búp mới. Tùy
theo vị trí của lá ở trên cành, khả năng phát triển thành búp và chất lượng búp ở các nách lá
rất khác nhau. Những mầm ở nách lá phía trên thường hoạt động sinh trưởng mạnh hơn, do
đó cho búp có chất lượng tốt hơn các mầm ở nách lá phía dưới. Những búp được hình thành
từ mầm nách của các lá năm trước gọi là búp đợt 1, có thể là búp bình thường hoặc búp mù.
Mầm ngủ: Là những mầm nằm ở các bộ phận đã hóa gỗ của các cành một năm hoặc già
hơn. Những mầm này kém phân hóa và phát triển hơn hai loại mầm trên, cho nên sự hình
thành búp sau khi đốn đòi hỏi một thời gian dài hơn. Kỹ thuật đốn lửng, đốn đau, có tác
dụng thúc đẩy sự phát triển của mầm ngủ, tạo nên những cành chè mới, có giai đoạn phát
dục non, sức sinh trưởng mạnh. Búp được hình thành từ mầm ngủ có thể là búp bình thuờng
hoặc búp mù.
Mầm bất định: Vị trí của loại mầm này khơng cố định trên thân chè thường ở sát cổ rễ.
Nó chỉ phát triển thành cành lá mới khi cây chè được đốn trẻ lại. Trong trường hợp ấy cành
chè tựa như mọc ở dưới đất lên. Búp được hình thành từ các mầm bất định cũng có hai
loại: búp bình thường và búp mù.
Mầm sinh thực: Mầm sinh thực nằm ở nách lá. Bình thường mỗi nách lá có hai mầm
sinh thực nhưng cũng có trường hợp số mầm sinh thực nhiều hơn và khi đó ở nách lá có
một chùm hoa. Các mầm sinh thực cùng với mầm dinh dưỡng phát sinh trên cùng một trục,
mầm dinh dưỡng ở giữa, mầm sinh thực ở hai bên, vì vậy, quá trình sinh trưởng dinh dưỡng
và sinh trưởng sinh thực thường có những mâu thuẫn nhất định. Khi mầm sinh thực phát
triển nhiều ở trên cành chè, thì q trình sinh trưởng của các mầm dinh dưỡng yếu đi, do sự
tiêu hao các chất dinh dưỡng cho việc hình thành nụ hoa và quả. Trong sản xuất chè búp cần
áp dụng các biện pháp kỹ thuật thích đáng để hạn chế sự phát triển của các mầm sinh thực.
17
1.7.3. Búp chè:
Búp chè là đoạn non của một cành chè. Búp được hình thành từ các mầm dinh dưỡng,
gồm có tơm (phần lá non ở trên đỉnh của cành chưa xịe ra) và hai hoặc ba lá non. Búp chè
trong q trình sinh trưởng chịu sự chi phối của nhiều yếu tố bên ngồi và yếu tố bên trong
của nó. Kích thước của búp thay đổi tùy theo giống, loại và liều lượng phân bón, các khâu
kỹ thuật canh tác khác như đốn, hái và điều kiện địa lý nơi trồng trọt.
Búp chè là ngun liệu để chế biến ra các loại chè, vì vậy nó quan hệ trực tiếp đến năng
suất và phẩm chất của chè. Nghiên cứu của Bakhơtatje (1947) cho thấy tương quan giữa số
lượng búp trên một đơn vị diện tích và năng suất là một tương quan rất chặt chẽ r = 0,956.
a) Búp bình thường b) Búp mù
Hình 3: Búp chè
Búp chè gồm có hai loại: búp bình thường và búp mù. Búp bình thường (gồm có tơm + 2,
3 lá non), có trọng lượng bình qn 1 búp từ 1g đến 1,2g đối với giống chè Shan, từ 0,5 đến
0,6g đối với giống chè Trung du, búp càng non phẩm chất càng tốt. Hệ số tương quan giữa
tỷ lệ phần trăm búp bình thường với hàm lượng tanin và cafein trong lá chè là r = 0,67 và r
= 0,48 . Búp mù là búp phát triển khơng bình thường, trọng lượng bình qn của một búp
mù thường bằng khoảng 1/2 trọng lượng búp bình thường và phẩm chất thì thua kém rõ rệt.
18
Nguyên nhân xuất hiện búp mù rất phức tạp. Một mặt do đặc điểm sinh vật học của cây
trồng, mặt khác do ảnh hưởng xấu của các điều kiện bên ngồi hoặc do biện pháp kỹ thuật
khơng thích hợp.
Trên một cành chè nếu để sinh trưởng tự nhiên, một năm có 4 5 đợt sinh trưởng, nếu hái
búp liên tục thì có 6 7 đợt và trong điều kiện thâm canh có thể đạt 8 9 đợt sinh trưởng.
Thời gian hình thành một đợt sinh trưởng dài hay ngắn tùy thuộc vào giống, tuổi cây chè,
điều kiện thời tiết khí hậu và các biện pháp kỹ thuật.
1.7.4.Lá chè:
Lá chè mọc cách trên cành, mỗi đốt có một lá. Lá thường có nhiều thay đổi về hình dạng
tùy theo các loại giống khác nhau và trong các điều kiện ngoại cảnh khác nhau. Lá chè có
gân rất rõ. Những gân chính của lá chè thường khơng phát triển ra đến tận rìa lá. Rìa lá chè
thường có răng cưa, hình dạng răng cưa trên lá chè khác nhau tùy theo giống. Số đơi gân lá
là một trong những chỉ tiêu để phân biệt các giống chè.
CHƯƠNG 2: KỸ THUẬT TRỒNG VÀ CÁCH CHĂM SĨC CÂY CHÈ
2.1.Phương pháp trồng trọt
2.1.1. Cách chọn giống cây
Chọn giống chè có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt, thích ứng mạnh với điều kiện
đất trồng của địa phương.
Là những giống có chất lượng cao, phù hợp với u cầu cơng nghệ chế biến hiện tại (chè
đen, chè xanh, chè Ơ long...) của thị trường.
Cùng với 20 năm đổi mới đất nước, trong nhiều năm qua cơng cuộc cách mạng giống
cây trồng vật ni được đặc biệt chú trọng, chè cũng là một trong những cây trồng được
quan tâm nên nhiều giống chè mới ưu thế thay thế dần những giống chè cũ năng suất thấp.
19
Ơ các tỉnh trồng chè khu vực phía Bắc đã có nhiều giống được nhập, chọn tạo và đưa
vào sản xuất đại trà: LDP1, PH1, LDP2, Bát Tiên, Đại Bạch Trà, Vân Xương…Ơ khu vực
phía Nam mà Lâm Đồng là chủ yếu cũng đã nhập, chọn lọc và phóng thích được nhiều giống
chè q.Cơng việc di nhập giống, khảo nghiệm trong những năm qua ở Lâm Đồng được Tỉnh
chú ý quan tâm trong chiến lược phát triển ổn định và lâu dài. Nhiều giống chè mới trong
nhiều chương trình Trung ương, Tỉnh, doanh nghiệp được đưa vào nghiên cứu, khảo nghiệm.
Hiện nay đã có trên 70 dịng, giống trong tập đồn giống có ở Lâm Đồng. Trong tập
đồn này hiện đang được tiếp tục nghiên cứu để tiếp tục đánh giá, khẳng định và đi tới cơng
nhận giống, từng bước đưa những giống chè có nhiều triển vọng. Các giống được đặc biệt
chú ý là Phúc Vân Tiên, Keo Am Tích, Hùng Đỉnh Bạch và Cinyrual143. Đây là các giống
được nhập từ tập đồn chè tốt của Trung Quốc, Indonesia và Srilanca.
Nhiều giống chè nhập nội đã sớm được đưa vào sản xuất đại trà và góp phần quan trọng
cho một hướng sản xuất chè mới: chè chất lượng cao. Những giống chè này có năng suất cao
hơn và đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn chè địa phương rất nhiều. Những giống chè này cũng
đem lại một loại sản phẩm mới mà chỉ có ở một vùng thị trường (Đài Loan, Trung Quốc)
nhưng có một sắc thái rất riêng biệt: chè Olong. Đó là các giống chè Kim Tun, Ngọc
Th, Tứ Q, Olong Thanh Tâm, Olong trắng. Các giống chè này hiện nay khơng những chỉ
phổ biến ở Lâm Đồng (diện tích hơn 1.500ha) mà được nhân ra rất nhiều địa phương khác và
cũng đem lại những sắc thái riêng biệt của chủng loại giống.
Trong bộ giống chè hiện có ở Lâm Đồng, đã có được những nhóm giống chè có những
đặc tính khác nhau: đa dạng về hình thức chế biến, phong phú về chất lượng đặc biệt… được
nhập về từ nhiều nước khác nhau. Những giống này là những giống có nguồn gốc ưu tú. Do
vậy việc đánh giá, chọn lọc và phóng thích kết hợp với những giống chè được chọn lọc, lai
tạo được rút ra trong bộ giống của địa phương là cơ sở cho những vùng chun canh đặc sản
trong tương lai.
Một số đề xuất trong cơng tác chọn lọc, phóng thích giống và hướng phát triển:
Việc lựa chọn được những giống tốt, năng suất cao, chất lượng tốt, phù hợp với điều kiện
20
sinh thái của địa phương để đưa ra sản xuất đại trà sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cho người sản
xuất. Do vậy trong thời gian tới việc chọn lọc để tìm ra những giống chè thích hợp với điều
kiện sản xuất và cơng nghệ chế biến là việc làm khơng có điểm dừng. Tuy nhiên cơng tác
nghiên cứu thị hiếu, thị trường để hướng tới những bộ giống phục vụ cho từng loại sản phẩm
là rất quan trọng. Do vậy trong định hướng di nhập giống và nghiên cứu khảo nghiệm cần đi
vào nghiên cứu những bộ giống chè đặc sản. Từ những bộ giống này đi tới phát triển sản
phẩm trên thị trường:
Cần có thương hiệu riêng cho từng bộ giống, từng loại sản phẩm;
Tiếp tục khai thác sản phẩm truyền thống như chè xanh, chè đen nhưng cần chú trọng đến
chất lượng ổn định ở mức cao, ngoại hình đẹp;
Đẩy mạnh cơng tác đa dạng sản phẩm: chè Olong, chè vàng;
Chú ý nghiên cứu những sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu của xã hội phát triển: sản chẩm
chè túi lọc, chè hồ tan, chè xanh ngun chất, chè thuốc (trong chè có nhiều chất là dược
liệu q), mỹ phẩm….
Đặc biệt cần khai thác chè thêm một hứơng mới là kẹo chè, bánh chè, cháo chè, cơm
chè…
Việc đa dạng chủng loại giống là một làm cần thiết trong quy hoạch các vùng chun
canh chè. Các vùng chun canh cần lưu ý là chế biến chè xanh; vùng chế biến chè đen; vùng
chế biến chè Olong,… sự phát triển này phải được định hướng lâu dài và bền vững.
Bên cạnh đó việc an tồn sản phẩm cho người tiêu dùng là một vấn đề ln phải quan tâm;
chúng ta đã hội nhập vào thị trường thế giới: WTO (World trade organization) nên vấn đề
cạnh tranh và uy tín sản phẩm là sự sống cịn của sản phẩm, của thương hiệu. Do vậy cơng tác
quản lý khuyến cáo, nâng cao trình độ dân trí phải thực sự là chương trình lâu dài, đều khắp
và có chất lượng của nhà nước.
Tóm lại, vấn đề giống chè trong những năm qua ở Lâm Đồng đã được quan tâm chú ý
trong cơng tác nghiên cứu, di nhập từ nhiều nguồn khác nhau. Việc chọn lọc ra những giống
thích nghi để trồng phổ biến gíup cho cơng tác sản xuất của ngành chè có những bước tiến
21
dài phù hợp với tiến trình phát triển của xã hội trong q trình hội nhập là cần thiết và lâu dài.
Do vậy, trong những năm tới cơng tác tuyển chọn giống, nghiên cứu quy trình cơng nghệ
nhằm đa dạng sản phẩm cần được đẩy mạnh và sự quan tâm đúng mức của nhiều cấp trung
ương đến địa phương.
2.1.2. Phương pháp trồng
2.1.2.1.Chọn đất trồng
Đất trồng chè phải có tầng canh tác trên 80cm, kết cấu tơi xốp; có mạch nước ngầm ở
dưới mặt đất 100cm; độ dốc bình qn dưới 25 độ; pH 4 6.
Mật độ: Mật độ trồng chè tuân thủ theo nguyên tắc: với giống tán nhỏ thì trồng dày, tán lớn
thì trồng thưa; đất có độ dốc lớn trồng dày, dốc nhỏ trồng vừa phải; canh tác thủ cơng có thể
trồng dày, cịn dùng cơ giới phải chọn mật độ phù hợp với tính năng của máy; đầu tư phân bón
cao, có tưới nước trồng mật độ vừa phải; chu kỳ kinh doanh theo hướng nhanh thu hồi vốn thì
trồng mật độ dày.
2.1.2.2. Thiết kế đồi chè va cách trồng chè
2.1.2.2.1 Thiết kế đồi chè
Thiết kế đồi chè: Gồm khu chè, đồi chè, lơ chè, hàng chè
Khu chè: Gồm nhiều đồi chè nằm gần nhau, qui mơ từ 10 25 ha
Đồi chè: Gồm một đồi độc lập, hay một phần quả đồi, diện tích khoảng vài ha.
Lơ chè: Diện tích 0,5 1,0 ha , gồm nhiều hàng chè được phân ra bằng các đường đi nhỏ để
tiện chăm sóc và thu hái. Chiều rộng lơ gồm 20 100 hàng chè, chiều dài lơ khoảng 50 200
m
Hàng chè: Gồm nhiều cây chè trồng liền nhau thiết kế theo đường thẳng hay đường đồng
mức.
Dưới 5 – 6 0 hàng chè thẳng, các hàng xép đưa ra rìa lơ.
22
Từ 6 15 0 hàng chè trồng theo đường bình độ, các hàng xép xen kẽ đều.
Từ 15 25 0 trồng bậc thang hẹp 1 hàng chè theo đường bình độ, hàng xép để xen kẽ đều.
2.1.2.2.2. Thiết kế hệ thống đường:
Thiết kế hệ thống đường, đồi chè sử dụng thước chữ A và máy ngắm, trên mép đường có
trồng cây bóng mát.
Gồm 4 loại đường sau:
Đường trục: Nối các khu chè với nhau, mặt đường rộng 5 6 m, 2 mép ngồi trồng cây, có
hệ thống rãnh thốt nước 2 bên.
Đường liên đồi: Nối liền các đồi chè: mặt đường 4 5 m
Đường lên đồi: Nối từ đường liên đồi với từng đồi có vịng quay xe ở ngã ba, mép ngồi
trồng cây thưa.
Đường vành đai: Đường bình độ khép kín, mặt đường rộng 3 m, nghiêng vào trong 6 70,
mép ngồi trồng cây thưa.
Đường lơ: Cắt ngang (đồi phẳng) hay cắt chéo hàng chè (đồi dốc) cách nhau 150 200 m,
mặt đường rộng 3 4 m, khơng có rãnh thốt nước.
Đường chăm sóc: Trong lơ chè, cách nhau 50 70 m, cắt ngang hay chéo hàng chè, mặt
đường rộng: 1,2 1,3 m, độ dốc mặt đường: 10 110 , theo mặt đất tự nhiên, khơng có rãnh
thốt nước.
2.1.2.2.3. Thiết kế các cơng trình khác
Hệ thống rãnh thốt nước: Rãnh ngăn khơng cho nước phía ngồi tràn vào khu chè gồm:
Rãnh theo sườn đồi: Thiết kế ở chỗ hợp thuỷ, từ trên xuống chân đồi, thốt nước chống xói
mịn.
Rãnh ngang sườn đồi: Đưa nước dồn vào rãnh sườn đồi
23
Rãnh cách ly: Trên cùng hay dưới chân đồi
Đai rừng chắn gió(vùng khơ hanh, gió bão cần có đai rừng)
Đai rừng chính vng góc hay xiên 300 so với hướng gió chính, khoảng cách các đai: 150
200 m.
Đai rừng phụ vng góc với đai rừng chính cách nhau 300 400 m chiều rộng đai từ 5 10
m trồng các loại cây rừng, cây cách cây: 1,5 x 1,5 m.
Bể chứa nước
2 3 ha xây 1 bể chứa nước, thể tích 1 m3 nước/ha
Hố ủ phân
2 3 ha có 1 hố ủ phân hữu cơ cho chè
Thiết kế thi cơng
Thời vụ: Tháng 11 12 để trồng chè vào năm sau.
u cầu: Đất phải sạch cỏ, gốc cây, đá, san ủi bằng phẳng, đất được cày, hay cuốc lật tồn
bộ 1 lần, sau đó rạch hàng sâu 40 45 cm, rộng 60 cm, Trồng cây phân xanh cải tạo đất.
2.1.2.2.4.Cách trồng chè:
Trồng chè cành:trên rạch chè đã bón phân lót và lấp đất ta bổ hố rộng 20cm, sâu
2025cm, khoảng cách giữa các hố dày hay thưa tuỳ yêu cầu; bóc túi PE, giữ nguyên bầu đất,
đặt bầu chè quay theo hướng thuận lợi, lấp đất lèn chặt xung quanh, rồi lấp một lớp đất tơi
xốp kín lên mặt bầu 1cm, sau trồng tủ cỏ rác theo rạch chè rộng 40cm và tưới cho chè; thời
vụ trồng từ tháng 810.
Trồng chè hạt: ngâm hạt trong nước 12 tiếng trước khi gieo; có thể gieo ngay hoặc ủ trong
cát cho nứt rồi đem gieo; những rạch chè sâu 10cm được bón lót và lấp đất: gieo 46
hạt/hốc, lấp đất sâu 34cm; sau đó tỉa những cây xấu, còn 23 cây/cụm, tủ cỏ rác để giữ ẩm;
thời vụ trồng hạt tốt nhất từ 1510 đến 152.
24
2.1.3. Chăm sóc cây chè
2.1.3.1. Làm cỏ:
Vụ xn thời tiết ấm dần làm cỏ non mọc nhanh và nhiều, vì vậy cần phải diệt trừ cỏ dại
ngay từ đầu bằng cách xới cỏ giữa 2 hàng chè đồng thời dùng tay nhổ cỏ quanh gốc chè.
Nếu có điều kiện thì cày hoặc cuốc sâu từ 10 15cm giữa 2 hàng chè làm cho đất tơi
xốp, giữ ẩm cho chè.
Phát quang bụi rậm ở đường lơ, ven đồi chè nhằm hạn chế sự trú ngụ và phát sinh, phát
triển của sâu bệnh.
2.1.3.2. Bón phân:
Tuỳ theo điều kiện đất đai, bà con quyết định lượng phân và tỷ lệ các loại phân bón theo
tuổi và năng suất chè.
Những diện tích chè đến thời kỳ bón phân hữu cơ và lân mà cuối năm chưa bón được thì
cần bón bổ sung đầu năm với lượng như sau: 01ha bón khoảng 20 tấn phân hữu cơ + 500kg
supe lân trộn đều, rạch sâu 20 30cm theo rìa mép tán, rải phân và lấp kín đất.
* Lượng phân bón thúc trong năm được tính theo năng suất chè búp tươi:
Đối với những nương chè cho năng suất < 6 tấn/ha:
Bón phân theo tỷ lệ:
+ Đạm urê: 260kg/ha, tương đương 10kg/sào.
+ Supe lân: 375kg/ha, tương đương 14kg/sào.
+ Kali Clorua: 135kg/ha, tương đương 05kg/sào.
Đối với những nương chè cho năng suất > 6 tấn/ha:
Bón phân theo tỷ lệ:
+ Đạm urê: 390kg/ha, tương đương 14kg/sào.
25