Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Đề tài: Thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống thông tin phục vụ cho việc ra quyết định trong quá trình quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.67 KB, 36 trang )

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Đề tài
Thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống
thông tin phục vụ cho việc ra quyết định trong quá
trình quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay
- 1 -
MỤC LỤC
- 2 -
A/ LỜI MỞ ĐẦU
Trên thế giới hiện nay đang diễn ra một cuộc cách mạng về thông tin hết sức
sôi động.Trong xu thế phát triển của thế giới có sự đóng góp to lớn của thông
tin ,khoa học công nghệ.Để phát triển thì mỗi quốc gia đều cần có những
nguồn lực nhất định và thông tin ngày nay đã trở thành một trong những nguồn
lực thực sự của mỗi quốc gia ,mỗi tổ chức.Vì vậy xu hướng chung của xã hội
ngày nay là hướng vào một xã hội thông tin ,trong xã hội đó những giá trị vật
chất mà thông tin và tri thức đem lại chiếm một tỉ lệ lớn trong xã hội.Thông tin
là một nguồn lực quan trọng góp phần to lớn không chỉ trong công tác quản
lý,điều hành các hoạt động mà còn góp phần tạo ra các giá trị mới ,mà sự tăng
trưởng của một quốc gia lại phụ thuộc rất lớn vào những giá trị mới trong quốc
gia đó.Vì vậy thông tin được coi là một trong những loại tài sản quan trọng
nhất đối với bất kỳ tổ chức nào.
Đối với Việt Nam hiện nay thì một trong những khâu yếu kém nhất đó là
quá trình quản lý.Chính bởi sự quản lý còn yếu kém mà chúng ta không tận
dụng được các nguồn lực gây lãng phí nguồn lực cho phát triển ,đôi khi còn có
những quyết định sai lầm… Vì vậy trong bài viết này em đi sâu nghiên cứu về
vai trò của thông tin trong quá trình quản lý kinh tế đặc biệt là quá trình ra
quyết định.Tuy nhiên ,các thông tin phải được tổng hợp lại thành một hệ thống
thông tin tuỳ theo nội dung ,tính chất …của thông tin.Do đó trọng tâm nghiên
cứu ở đây là hệ thống thông tin phục vụ cho quá trình quản lý đặc biệt là ra
quyết định .Trong công cuộc đổi mới của đất nước hiện nay đòi hỏi một trình
độ quản lý ở mức cao hơn, hoàn thiện hơn và một trong những vấn đề ảnh


hưởng lớn đến chất lượng quản lý là thông tin phục vụ cho việc ra quyết định
quản lý. Để cạnh tranh được thì doanh nghiệp phải đưa ra những quyết định
đúng đắn kịp thời vì vậy thông tin cho việc ra quyết định cung phải chính xác
- 3 -
và đúng thời điểm. Đối với nhà nước thì thông tin về tình hình kinh tế xã hội
giúp cho nhà đề ra những chính sách phù hợp với đất nước.
Khi nghiên cứu vấn đề này là nhằm mục đích thấy được tầm quan trọng của
hệ thống thông tin trong quá trình quản lý và ra quyết định .Xem xét những
yếu kém về vấn đề thông tin còn tồn tại ở nước ta từ đó khắc phục những yếu
kém đó nhằm hoàn thiện dần hệ thống quản lý của nhà nước cũng như của các
doanh nghiệp từ việc ra quyết định quản lý. Để thấy được thực trạng của vấn
đề thông tin ở đây em sẽ nghiên cứu hai hệ thống thông tin chủ yếu cụ thể đó
là hệ thống thông tin của nhà nước và hệ thống thông tin của doanh nghiệp ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Đề tài: Thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống thông tin phục vụ
cho việc ra quyết định trong quá trình quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay"
Nội dung chính trong bài viết của em gồm những phần sau:
-Phần 1:Một số vấn đề cơ bản về thông tin và ra quyết định trong
quản lý kinh tế
-Phần 2:Vai trò của thông tin
-Phần 3:Thực trạng và giải pháp để hoàn thiện hệ thống thông tin
kinh tế phục vụ cho quá trình ra quyết định
Em xin cảm ơn PGS.TS PHAN KIM CHIẾN đã giúp đỡ em hoàn thành bài
viết này.Trong quá trình nghiên cứu ,bài viết của em vẫn còn nhiều sơ xuất ,em
rất mong sự góp ý của thầy.
Em xin trân thành cảm ơn
- 4 -
B/NỘI DUNG
I/MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THÔNG TIN VÀ RA QUYẾT ĐỊNH
TRONG QUẢN LÝ KINH TẾ.

1.Thông Tin
1.1.Các khái niệm
1.1.1.Thông tin chung:
Thông tin là một khái niệm rộng và phổ biến liên quan đến tất cả các
hoạt động của con người như sản xuất ,kinh doanh,nghien cứu khoa học ,nghệ
thuật,chính trị…Vì vậy cũng có nhiều khái niệm về thông tin khác nhau vói
nhiều góc độ xem xét khác nhau:góc độ triết học ,góc độ tin học, điều khiển
học…
Từ nhiều góc độ trên ta có thể nêu nên một khái niệm về thông tin một
cách tổng quát : Thông tin là thông báo tin tức các dữ liệu phản ánh hiện thực
khách quan,là thuộc tính đặc biệt của vật chất.Nó có thể được truyền đạt xử lý
phục vụ các hoạt động lý luận và thực tiễn của con người.
Thông tin luôn phản ánh mối liên hệ qua lại lẫn nhau giữa người gửi tin
với người nhận tin hoặc người sử dụng tin.
1.1.2.Thông tin kinh tế
a. Thông tin kinh tế
-là những tín hiệu mới , được thu nhận , được cảm thụ,và được đánh giá
là có ích cho việc ra quyết định hoặc giải quyết một nhiệm vụ nào đó trong
quản lý kinh tế.
Thông tin kinh tế là hoạt động thông tin gắn liền với hoạt động kinh tế,
xuất phát từ nhu cầu kinh tế và phục vụ cho kinh tế,nó lấy đối tượng phục vụ
là sự vận hành kinh tế .
1.1.3.Thông tin quản lý kinh tế:
a. Thông tin quản lý kinh tế
- 5 -
Thông tin quản lý kinh tế là những tin tức sự kiện liên quan đến hoạt
động quản lý kinh tế ở cả tầm vĩ mô và vi mô.
Ở tầm vi mô : để ra được quyết định kinh doanh người quản lý phải
được thông tin về nhu cầu ,giá cả hàng hoá ,về công nghệ ,tài chính ,chính sách
của chính phủ…

Ở tầm vĩ mô :Trong nền kinh tế thị trường thì một trong những vai trò
rất quan trọng của nhà nước là quản lý của nhà nước về kinh tế và để đề ra
được những chính sách nhằm quản lý kinh tế nhà nước phải có những thông
tin về thị trường ,các chủ thể hoạt động kinh tế ,hoàn cảnh , điều kiện cụ thể
của đất nước.
b.Hệ thống thông tin :
hệ thống thông tin là giải pháp tổ chức và kỹ thuật trong thực tiễn được
thiết lập để sử dụng nội dung thông tin mà chúng ta xử lý.
Hệ thống thông tin quản lý là những con người và sự hoạt động có mục
đích của họ hướng vào thông tin để bằng các phương tiện kỹ thuật biến thông
tin thành những kiến thức cần thiết cho việc ra quyết định ,thực hiện tác động
quản lý.
Hệ thống thông tin trợ giúp ra quyết định là những hệ thông được thiết
kế với mục đích trợ giúp các hoạt động ra quyết định.Quá trình ra quyết định
thường được miêu tả là một quá trình gồm ba giai đoạn :xác định vấn đề ,xây
dựng đánh giá các phương án ,lựa chọn phương án.Hệ thông sẽ cung cấp thông
tin cho phép người ra quyết định rõ tình huống mà một quyết định cần phải ra,
nó có khả năng mô hình hoá để có thể phân lớp và đánh giá các giải pháp.
1.2. Đặc điểm của thông tin kinh tế
1.2.1.Thông tin không phải là vật chất nhưng không tồn tại ngoài các giá trị
vật chất tức là vật mang tin.
Xét từ góc độ nhận thức luận ,sự trao đổi thông tin giữa hai đối tượng vật chất
khác nhau sẽ sẽ được chia thành vật mang tin và vật truyền tin.Nhưng xét một
cách tổng quát ,khi tác động đến một vật khác ,mỗi vật sẽ vừa là vật truyền tin,
- 6 -
vừa là vật mang tin.Vì quá trình quản lý cũng chính là quá trình trao đổi thông
tin giữa đối tượng quản lý và đối tượng bị quản lý.Với sự phát triển của thế
giới ngày càng có nhiều vật mang tin khác nhau như sách báo, tài liệu , các
phương tiện truyền thông , thông tin đại chúng ,internet…
1.2.2.Thông tin trong quản lý kinh tế có số lượng lớn và có nhiều mối quan

hệ.
Hàng ngày người quản lý thường tiếp nhận rất nhiều thông tin từ nhiều
nguồn khác nhau.Với số lượng lớn như vậy thì mỗi người mỗi doanh nghiệp
đều có thể trở thành một trung tâm thu và phát tin.Vì vậy những thông tin này
cần được tổng hợp lại sao cho ngắn gọn hơn nhưng vẫn chứa đựng đầy đủ
những nội dung cần thiết cho việc ra quyết định.Những thông tin này cũng có
những mối quan hệ tưong đối với nhau chẳng hạn như thông tin về sản phẩm
của doanh nghiệp với thông tin về sản phẩm của đối thủ cạnh tranh,hay thông
tin của nhà quản lý cho cấp dưới với thông tin về đối tượng quản lý.Như vậy
ngoài việc tổng hợp lại thông tin nhà quản lý còn phải nắm bắt mối quan hệ
trong các thông tin đó để giải quyết các mối quan hệ ấy.
1.2.3.Thông tin phản ánh trật tự và phẩm cấp của quản lý kinh tế.
Trong cơ cấu của mỗi tổ chức nhất định có thể hình thành nhiều bậc
quản lý vì người lãnh đạo cao nhất không thể bao quát toàn bộ công việc của
tổ chức đặc biệt là những tổ chức có quy mô lớn.Ở mỗi cấp quản lý như vậy
thì đều có luồng thông tin riêng của mình,các luồng thông tin này được trải
theo các kênh tổ chức của hệ thống ,nêu rõ cấp độ quyền hạn của từng cấp.Đối
với người lãnh đạo của hệ thống ,các thông tin đều được quy tụ tập trung giúp
cho người lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược so với các nhà quản lý ở các cấp
phân hệ.
Tuy nhiên mức độ tổng hợp thông tin cao hay thấp còn phụ thuộc vào
loại thông tin và quy trình quản lý.Chẳng hạn để thực hiện chức năng hoạch
định trong quy trình quản lý ,doanh nghiệp cần có thông tin nội bộ và các
thông tin từ môi trường bên ngoài ,trong đó các thông tin về môi trường bên
- 7 -
ngoài chiếm tỉ lệ cao hơn.Nhưng để thực hiện chức năng kiểm tra ,lại chủ yếu
cần các thông tin nội bộ bên trong.Ta có thể thấy được mối quan hệ giữa các
cấp quản lý và các loại thông tin cần thiết được biểu diễn dưới dạng sơ đồ sau:
Cao
Trung bình

Thấp
Cấp quản lý Mức độ tổng hợp thông tin
1.3.Chức năng của thông tin kinh tế:
1.3.1.Chức năng hướng dẫn hoạt động kinh tế thực tiễn.
Đây là một chức năng rất quan trọng và giữ vai trò số một bởi vì mỗi
hoạt động kinh tế cụ thể để đi đến mục tiêu thì cần có sự hướng dẫn cụ thể.Để
đạt được mục tiêu thì trước hết các nhà doanh nghiệp ,các tổ chức hoặc nhà
nước phải xây dựng các chương trình ,kế hoạch sản xuất – kinh doanh nhằm
định hướng những hoạt động kinh tế lâu dài hoặc điều chỉnh hoạt động hàng
ngày về sản xuất – kinh doanh ,xử lý nghiệp vụ.
1.3.2.Chức năng cung cấp tư liệu cho nghiên cứu khoa học
Thông tin khoa học là kết quả của nghiên cứu khoa học bởi vì nghiên
cứu là cỗ máy sản xuất ra tư liệu(máy móc thiết bị cho sản xuất …), vật liệu
phương tiện cho thông tin .Nhưng đồng thời thông tin kinh tế lại tạo ra tiền đề
mới , vật liệu mới để cho nghiên cứu kinh tế sáng tạo ra các nội dung mới ,đề
ra các khái niệm , các nội dung học thuật mới.Từ các yếu tố mới trên lại tạo ra
những giá trị gia tăng mới cho nền kinh tế.
1.3.3.Chức năng góp phần hình thành tư duy kinh tế lành mạnh.
Sự phát triển của nền kinh tế bên cạnh những tác động tích cực còn có
nhiều tác động tiêu cực như con người chạy theo lợi ích của cá nhân không vì
lợi ích của tổ chức , tham nhũng …Do đó để quản lý được đất nước nhà nước
phải phổ biến những thông tin về pháp luật nhằm hạn chế nhũng tiêu cực.Mặt
- 8 -
Thông tin về
Môi trường
Bên ngoài
Thông tin
về nội bộ
khác cùng với sự phát triển của kinh tế thì tư duy kinh tế cũng ngày càng được
năng lên, được phát triển từ chỗ vô thức , từ chỗ chỉ thấy được những lợi ích

trước mắt và lợi ích vụn vặt dần dân trở thành tư duy có ý thức ,mang tính tự
giác tính khoa học.
Thông tin kinh tế giúp con người từ chỗ nhận thức thế giới lợi ích và xã
hội tiến tới nhận thức mối quan hệ lợi ích giữa cá thể với cộng đồng,đồng thời
nó cung cấp nhũng kiến thức cho các đối tượng tham gia vào quá trình kinh
tế ,giúp họ hiểu biết được mục đích ,phương pháp ,đối tượng khai thác các lợi
ích.
2.Quyết định quản lý kinh tế :
Quản lý kinh tế là nhằm đạt tới mục tiêu chung của mỗi một tổ
chức.trong quá trình quản lý kinh tế đó các nhà quản lý phải đưa ra các quyết
định giữa rất nhiều phương án được đề ra nhằm đi tới mục tiêu một cách tối ưu
nhất.Sự thành công của các nhà quản lý và của chính các tổ chức phụ thuộc rất
nhiều vào các quyết định mà họ đưa ra.Trong quá trình ra quyết định cung
chứa đụng rất nhiều rủi ro do các yếu tố thường xuyên biến động vì vậy nhà
quản lý phải là người dám chấp nhận rủi ro và dám chịu trách nhiệm về quyết
định của mình.
2.1.Khái niệm quyết định quản lý kinh tế:
Trước khi xem xét quyết định quản lý kinh tế ta cần xét xem thế nào là
quyết định: quyết định là quá trình xác định lựa chọn và thực hiện những
phưong thức hoạt động nhằm giải quyết một vấn đề nhất định.
Quyết định quản lý kinh tế là hành vi sáng tạo với tư cách là sản phẩm
lao động của chủ thể quản lý nhằm định ra mục tiêu ,chương trình và tính chất
hoạt động của người hay cấp phải thực hiện quyết định đó.Như vậy quyết định
quản lý kinh tế là các chỉ thị mệnh lệnh của chủ thể quản lý nhằm tổ chức định
hướng và kích thích các hoạt động kinh tế của đối tượng quản lý để thực hiện
mục tiêu của tổ chức
- 9 -
Mỗi quyết định quản lý nhằm trả lời một hoặc một số câu hỏi sau: Tổ
chức cần làm gì ? Khi nào làm cái đó ? Làm trong bao lâu ?Ai làm ? Và làm
như thế nào ?

Trả lời các câu hỏi làm gì khi nào làm và làm cái đó trong bao lâu,
thường là những quyết định kế hoạch.Tổ chức cần đạt được những mục tiêu
nào trong tương lai gần ? Mục tiêu đó có nhằm đạt mục tiêu tông thể dài hạn
không ? Để đạt được những mục tiêu đó tổ chức cần thực hiện những nhiệm
vụ nào ?
Trả lời câu hỏi ai làm , thường là nhũng quyết định tổ chức.Để thực hiện
mục tiêu cần sắp xếp cơ cấu tổ chức như thế nào để đảm bảo toàn bộ hệ thông
hoạt động một cách linh hoạt để đi đên mục tiêu ? Sắp xếp hệ thông quản lý ,
hệ thống sản xuất của tổ chức ra sao ?
Trả lời câu hỏi làm như thế nào ,thường là những quyết định kế hoạch
và lãnh đạo.Gồm có quyết định về lựa chọn công nghệ ,kỹ thuật ,phương thức
tiến hành…
2.2.Chức năng của quyết định quản lý kinh tế.
Các chức năng của một quyết định quản lý biểu hiện nội dung mà một
quyết định cần làm rõ.Một quyết định quản lý có nhũng chức năng cơ bản sau :
2.2.1.Chức năng định hướng:
Mỗi quyết định quản lý đều nhằm hướng tơí một mục tiêu.Vì vậy mỗi
quyết định quản lý đều chứa đựng mục tiêu và những nhiệm vụ được đề
ra.Tính định hướng ở đây thể hiện ở chỗ nó xác định rõ nhiệm vụ cụ thể cần
thực hiện cho những người thực hiện quyết định biết họ phải làm gì ? Làm như
thế nào ? Và trách nhiện của họ trong việc thực hiện nhiệm vụ.
Mặt khác quyết định quản lý còn nhằm tập trung mọi nguồn lực của hệ
thống để thực hiện các mục tiêu chung và mục tiêu bộ phận của hệ thống ,tránh
sự phân tán nguồn lực như về nhân sự , các yêú tố đàu vào…Ngoài ra cung
tránh sự trồng chéo trong hoạt động của các cấp thực hiện vì kèm theo các
quyết định là các nhiệm vụ cụ thể cua tưng cấp.
- 10 -
2.2.2.Chức năng bảo đảm nguồn lực cho quyết định:
Khi đưa ra quyết định không phải bất cứ phương án nào đi đến được
mục tiêu đều được lựa chọn mà chỉ có phương án có chi phí ít nhất mới được

lựa chọn tức tiết kiệm nguồn lực nhất.Khi ra quyết định về sản phẩm sản xuất
cần dựa vào nguồn lực của công ty để quyết định sử dụng dây chuyền công
nghệ nào , nguyên vật liệu từ nguồn nào để đảm bảo lợi nhuận của doang
nghiệp đạt được mức đề ra.Như vậy chức năng đảm bảo nguồn lực cuả các
quyết định quản lý đòi hỏi khi đưa ra các quyết định ,các nhà quản lý cần xác
định rõ nguồn lực vật chất để thực hiện quyết định.
2.2.3.Chức năng phối hợp
Đối với quản lý ,một quyết định đưa ra phải nhằm một mục tiêu tổng
thể chung của cả hệ thống thông việc thực hiện các mục tiêu bộ phận.Như vậy
các bộ phận của tổ chức không chỉ quan tâm đến mục tiêu riêng của bộ phận
mình mà phải xem xét đóng góp của mục tiêu riêng đó vào mục tiêu chung
như thế nào.Vì vậy quyết định phải thực hiện chức năng phối kết hợp .Chức
năng này thực hiện trong quá trình đưa ra quyết định có sự phối kết hợp của
các bộ phận và cá nhân có liên quan đến quyết định,bao gồm cả bộ phận quản
lý và bộ phận bị quản lý ,đặc biệt giữa các bộ phận quản lý.Thực hiện chức
năng này nhằm tránh sự chồng chéo , mâu thuẫn giữa các quyết định trong tổ
chức hay bỏ xót một trong những nhiệm vụ cần làm.
2.2.4.Chức năng động viên cưỡng bức:
Các quyết định mà nhà quản lý đưa ra đều phải có các cấp dưới thực
hiện , quyết định được ban hành phải được coi như một mệnh lệnh hành chính
mang tính bắt buộc mà cấp dưới phải có trách nhiệm thực hiện.Tính bắt buộc
thể hiện ở việc ai vi phạm hoặc không hoàn thành tốt nhiệm vụ sẽ bị xử lý
nghiêm khắc.Tuy nhiên cũng cần phải động viên họ để họ làm việc hăng say
hơn sáng tạo hơn và đạt hiệu quả cao hơn do nhiều khi sự cưỡng bức làm việc
sẽ lam triệt tiêu sáng tạo của họ.
- 11 -
2.2.5.Chức năng bảo mật:
Các quyết định quản lý quan trọng cần được đảm bảo bí mật trong một
phạm vi nhất định như chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp , chiến lược
sản phẩm mới …Khi các thông tin quyết định bị rò rỉ hay bị đối thủ cạnh tranh

nắm được thì doanh nhgiệp sẽ đánh mất cơ hội của thị trường và thất bại.Khi
đó quyết định cần có chức năng bảo mật,nhờ đó ý đồ quản lý của hệ thống
được thực hiện một cách vững chắc.
3.Mối quan hệ giữa thông tin và ra quyết định trong quản lý
3.1.Thông tin là nguyên liệu đầu vào ,quyết định quản lý là sản phẩm đầu ra
Quản lý nối chung và thông tin là hai lĩnh vực có liên hệ mật thiết với
nhau . Nếu không có thông tin quản lý sẽ không tồn tại với tư cách là quản
lý.Thông tin ban đầu được thu thập lại dưới dạng các số liệu dữ liệu cụ thể
(nguyên liệu đầu vào) được xử lý và tổng hợp lại bằng một hệ thống xử lý
thông tin ( quá trình sản xuất ).Sau khi đã được xử lý và tông hợp một cách
đầy đủ các nhà quản lý dựa trên nhũng thông tin ràng buộc này như thông tin
về môi trường bên trong (điểm mạnh điêm yếu của doanh nghiệp) ,thông tin về
môi trường bên ngoài (cơ hội và thách thức từ ngoài) để cho ra nhũng quyết
định (đầu ra ) phù hợp với những thông tin thu nhận được hay phù hợp với môi
trường của tổ chức
3.2.Chất lượng thông tin ảnh hưởng đến chất lượng ra quyết định
Một quyết định nào đó cũng như một sản phẩm sản xuất ra ,chất lượng
của mỗi sản phẩm chịu ảnh hưóng chủ yếu của chất lượng các yếu tố đầu
vào.Đối với loại sản phẩm là quyết định đưa ra thì một trong những yếu tố đầu
vào quan trọng của nó là thông tin phục vụ cho việc ra quyết định .Vi vậy chất
lượng của thông tin sẽ ảnh hưởng đến chất lượng của quyết định được đưa
ra.Do đó không thể dựa vào nhũng thông tin thiếu chính xác hoặc không đầy
đủ để đưa ra các quyết định trong quản lý vì mỗi quyết định sai sẽ ảnh hưởng
nghiêm trọng đến cả hệ thông của tổ chức.
- 12 -
3.3.Thu thập thông tin để làm rõ mục tiêu mà quyết định hướng tới.
Mục tiêu của mỗi doanh nghiệp được đề ra dựa trên những điều kiện
nhất định của doanh nghiệp hay điều kiện về môi trường như tiềm lực của
doanh nghiệp , tiềm lực của đối thủ cạnh tranh hay thị trường sản phẩm cùng
loại với sản phẩm của doanh nghiệp.Để nắm bắt được các điều kiện trên thì

doanh nghiệp phải thu thập các thông tin có liên quan.Vì mục tiêu luôn gắn vói
nhũng điều kiện cụ thể và mục tiêu có thể thay đổi theo thời gian khi mà điều
kiện thay đổi.
II/ VAI TRÒ CỦA THÔNG TIN
1.Vai trò của thông tin nói chung.
Con người biết được môi trường xung quanh , đi sâu vào thế giới vật
chất và hiện tượng ,nắm bắt kiến thức … là nhờ có thông tin.Thông tin đóng
vai trò tổ chức và phát triển xã hội.
1.1.Thông tin có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhận thức xã
hội và lập trường chính trị.
Thông tin là phương thức quan trọng để nhà nước thực hiện chức năng
quản lý xã hội . Xã hội thông tin là xu thế phát triển của thời đại hiện nay.Xu
thế sử dụng thông tin như một ngồn lực quan trọng ngày càng được khẳng
định.Trong đời sống chính trị , thông tin chính trị - xã hội phục vụ trực tiếp cho
công tác chính trị tư tưởng mọi cấp mọi ngành . Thông tin chính trị là công cụ
hàng đầu của một đảng cầm quyền . Đó chính là việc thực hiện mục đích chính
trị tư tưởng và tuyên truyền chính sáng của đảng cầm quyền .
1.2.Thông tin giữ vai trò quan trọng trong công tác lãnh đạo và quản lý.
Hiệu quả quản lý phụ thuộc vào chất lượng các quyết định mà chất
lượng các quyết định lại phụ thuộc vào sự đầy đủ và chất lượng của thông
tin .Cho nên không có thông tin đúng đắn thì không thể có quá trình quản lý
nào hiệu quả được.Chỉ có nhũng tin tức được chủ thể quản lý nhận thức như là
kiến thức có ích cho chủ thể quản lý mới là thông tin quản lý.
- 13 -
1.3.Thông tin giữ vai trò quan trọng trong công tác giáo dục và đào tạo.
Các hoạt động đào tạo giảng dạy học tập , nghiên cứu … luôn luôn cần
đến sự hỗ trợ đắc lực của công tác thông tin ,thông qua hàng loạt các loại hình
thu thập ,xử lý ,lưu trữ và phổ biến thông tin.Con người có thể tiếp thu được
những tinh hoa của nhân loại từ thế hệ này sang thế hệ khác , từ nơi này đến
nơi khác là nhờ có thông tin ,dù ở bất cứ hình thức nào.

1.4.Thông tin thúc đẩy sự phát triển của khoa học
Thông tin là một nhu cầu khách quan để phát triển khoa học .Một trong
những quy luật phát triên của khoa học và nghiên cứu khoa học là thế hệ sau
chon lọc hệ thống hoá, kế thừa nhũng thành quả của thế hệ đi trước ,đồng thời
phát hiện , tìm tòi bổ xung những cái mới hơn. Như vậy hoạt động khoa học là
một quá trình khai thác tiếp nhận thông tin , lưu trữ thông tin và tạo ra những
thông tin mới khác với thông tin ban đầu.
1.5.Thông tin với sự phát triển của mỗi quốc gia .
Do sự phát triển không đồng đều ở các nước trên thế giới cho nên các
nước chậm phát triển muốn đuổi kịp các nước tiên tiến về kinh tế ,xã hội cần
chú ý đến lĩnh vực thông tin.Trước hết cần nâng cao khả năng sẵn có về tiếp
nhận thông tin từ các nước phát triển.Tiếp thu có chon lọc sáng tạo thông tin
khoa học , kỹ thuật của thế giới.Tăng cường giao lưu thông tin trong hoàn cảnh
các nèn kinh tế trên thế giới có xu hướng liên kết chặt chẽ với nhau.Việc nâng
cao năng cao chất lượng hiệu quả trong lĩnh vực thông tin sẽ góp phần thúc
đẩy sự phát triển kinh tế văn hoá khoa học và giáo dục ở các nước chậm phát
triển và đang phát triển.
2.Vai trò của thông tin trong việc ra quyết định quản lý
2.1.Thông tin là cơ sở tiền đề của các quyết định
Thông tin là đối tượng lao động của nhà quản lý nói chung và người
lãnh đạo nói riêng.Một trong những hoạt động quan trọng của nhà quản lý hay
người lãnh đạo là việc ra quyết định.Như đã nghiên cứu ở trên ta biết được là
- 14 -
thông tin chính là các yếu tố đầu vào còn quyết định đóng vai trò là sản phẩm
đầu ra.Như vậy đã tạo tiền đề để cho ra các đầu ra là các quyết định.
Thông tin từ bên ngoài
Thông tin quyết định

Đầu vào (V) Thông tin về nhiễu(N)
Đầu ra(R)


2.2.Thông tin là công cụ của các quyết định
Thông tin là căn cứ để tiến hành xây dựng chiến lược của hệ thống.
Trong quá trình xác định các chỉ tiêu chiến lược, cần thiết tiến hành các tính
toán dựa trên những thông tin xác thực về cơ sở vật chất , vật tư , tiền vốn, và
sự kêt hợp tôi ưu giữa các nguồn lực từ đó đưa ra được quyết định phù hợp.
Thông tin là công cụ để kiểm tra tính đúng đắn của quyết định.Mỗi
quyết định sẽ cho ra những kết quả và những kết quả đó lại đựơc đưa đến chủ
thể quản lý dưới dạng thông tin phản hồi.
Vai trò công cụ cho các quyết định của thông tin đựợc thể hiện ở chỗ
bản thân các quyết định được đưa ra chính là những thông tin thể hiện ở việc
phân phát các quyết định cho cấp dưới đồng thời kiểm tra hoạt động của họ.
Một quyết định sẽ không được thực thi nếu như nó không được thông tin đến
các cấp dưới để họ thực hiện quyết định.
2.3. Đánh giá quyết định khi nó đã được thực thi nhờ hệ thống thông tin
phản hồi.
Chủ thể quản lý muốn tác động lên đối tượng bị quản lý thì phải đưa ra
các thông tin ( mệnh lệnh , chỉ thị ,nghị quyết ,quyết định…),đó chính là thông
tin điều khiển.Tuy nhiên nhà quản lý không phải là người chỉ phát tin là các
quyết định đi cho các cấp dưới mà họ còn phải tiếp nhận thông tin phản hồi lại
từ hệ thống nhằm đánh giá không phải chỉ hoạt động của tổ chức mà còn để
- 15 -
chủ thể
quản lý
đối tượng
quản lý
đánh giá hoạt động ra quyết định của chính nhà quản lý.Nếu quyết định đó
không con phù hợp hoặc không phải là phương án tối ưu nhất nhà quản lý phải
điều chỉnh quyết định đó sao cho phù hợp với tinh hình hiện tại.Vì Thông tin
có thể thay đổi rất nhanh chóng theo thời gian việc sử dụng những thông tin cũ

để ra nhũng quyết định mới trong thời điểm hiện tại sẽ không còn phù hợp
nữa.
Tuy nhiên hệ thống thông tin phản hồi có thể cung cấp nhũng thông tin
sai lệch cho nhà quản lý xuất phát từ động cơ của đối tượng bị quản lý như
bệnh thành tích ,hay muốn vừa lòng cấp trên.Vì vậy khi dùng người cần xem
xét kỹ các cán bộ quản lý cấp dưới.
III/THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THÔNG
TIN KINH TẾ PHỤC VỤ CHO QUÁ TRÌNH RA QUYẾT ĐỊNH
1.Một số nét về hệ thống thông tin kinh tế của nước ta hiện nay.
Cũng như nhiều nước trên thế giới Việt Nam dang bước vào một công
cuộc đổi mới kinh tế sao cho phù hợp với xu thế của thế giới và khu vực.Nhờ
công cuộc này đã đem lại những thay đổi to lớn trong nhiều lĩnh vực trong đó
có lĩnh vực thông tin.Biểu hiện ở những bước phát triển vượt bậc của hệ thống
thông tin về phương tiện thông tin đại chúng cho đến các tổ chức cung cấp
thông tin chuyên ngành.Hệ thống thông tin kinh tế đã giúp cung cấp được
những thông tin trung thực kịp thời và có xử lý ở mức độ nhất định.Tạo điều
kiện cho việc hoạch định các kế hoạch chiến lược cho nhà nước cho các tổ
chức doanh nghiệp.
Hệ thống thông tin kinh tế nước ta hiện nay gồm ba bộ phận phục vụ
cho hệ thống quản lý kinh tế ở các đơn vị kinh tế cơ sở và chính phủ.Bao gồm
các hệ thông sau:
Hệ thống thông tin kinh tế nội bộ của các đơn vị kinh tế
Hệ thống thông tin thị trường
Hệ thống thông tin kinh tế của chính phủ
- 16 -
1.1.Hệ thống thông tin kinh tế nội bộ của các đơn vị kinh tế.
Là hệ thống mà về cơ cấu tổ chức được tạo thành từ các hệ thống nhỏ
như hệ thống thông tin kế hoạch , hệ thống thông tin kế toán thống kê,hệ
thống thông tin tác nghiệp quản lý.Hệ thống thông tin tác nghiệp quản lý ,hệ
thống thông tin marketing.Các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ ,dù thuộc loại

hình hoạt động khác nhau đều được vận hành và có quan hệ với bên ngoài
nhờ vào bộ máy và cơ chế quản lý kinh tế riêng của nó.Hệ thống thông tin
của các doanh nghiệp không chỉ giúp cho những người quản lý doanh nghiệp
kiểm soát được các hoạt động kinh tế bên trong cũng như tác động bên ngoài
trong quá trình đề ra và tổ chức thực hiện các quyết định kinh tế để đạt được
mục tiêu của doanh nghiệp.
Trong nên kinh tế thị trường nước ta hiện nay nhà nước không còn làm
thay cho doanh nghiệp trong việc giải quyết các vấn đề cơ bản của nó.Sự tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp phụ thuộc vào quyết định ,khả năng tổ
chức thực hiện các hoạt động sản xuất của nó.Vì vậy đòi hỏi doanh nghiệp
phải tự tìm kiếm thông tin tự ra quyết định và tự chịu trách nhiệm về quyết
định của mình.Đòi hỏi doanh nghiệp phải có một hệ thống thông tin riêng của
mình.Hệ thống thông tin này phải đáp ứng được nhu cầu thông tin mới của
doanh nghiệp do thị trường thường tồn tại nhiều bất ổn.
1.2.Hệ thống thông tin thị trưòng.
Hệ thống thông tin thị trường hình thành và phát triển do nhu cầu thông
tin của xã hội ngày càng gia tăng.Hệ thống thông tin thị trường liên quan đến
các tổ chức thực hiện các quá trình tổ chức thực hiện các quá trình thu thập
,xử lý cung cấp các thông tin kinh tế phục vụ cho nhu cầu thông tin của nền
kinh tế.Sự hình thành và phát triển của hệ thống thông tin thị trường đã tạo ra
các mối quan hệ thông tin mới trong nền kinh tế.Đó là các quan hệ thị truờng
về thông tin(cung-cầu ,giá cả ,cạnh tranh…)
Hệ thống thông tin thị trưòng cũng có mối liên hệ chặt chẽ với các hệ
thống thông tin của chính phủ của doanh nghiệp.Nó bổ xung hỗ trợ cho khả
- 17 -
năng thông tin của các hệ thông đó và tạo thành một mạng lưới thống nhất
trong nền kinh tế.hệ thống thông tin thị trưòng còn có mối quan hệ mật thiết
với các hệ thông thị trưòng khác và tham gia vào các hoạt động kinh tế thị
trường.
1.3.Hệ thống thông tin kinh tế của chính phủ.

Trong ba bộ phận của hệ thống thông tin thì hệ thống thông tin của chính
phủ có vị trí quan trọng nhất ,giúp nhà nước nhà nước thực hiện vai trò quản lý
vĩ mô nền kinh tế thị trường .hệ thống thông tin của chính phủ có tầm quan
trọng như vậy là do những vai trò to lớn của nó sau:
• tổng hợp thông tin phục vụ cho hoạch định chiến lược ,kế hoạch phát
triển kinh tế ,giúp nhà nước thực hiện đựơc vai trò định hướng của mình
cho nền kinh tế thông qua các hệ thông như:hệ thống thông tin thống
kê ,hệ thống thông tin kế hoạch…
• Giúp nhà nước quản lý vĩ mô các ngành kinh tế các lĩnh vực nhờ hệ
thống thông tin chuyên ngành về tài chính ,khoa học công nghệ ,thị
trường…
• Từ việc nắm bắt được thông tin thực tế giúp nhà nước đua ra các quyết
định về chính sách ,chương trình.Nhà nước cũng phải tạo môi trường
pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh tế phát triển và giám sát việc
thực hiện pháp luật về kinh tế.
Ngoài ra hệ thống thông tin chính phủ còn hỗ trợ ,kết nối với hệ thống thông
tin thị trường và hệ thống thông tin doanh nghiệp.
2.Thực trạng của thông tin kinh tế ở Việt Nam
Hệ thống thông tin kinh tế của nước ta trong cơ chế kế hoạch hoá tập
trung trước đây được tổ chức theo một hệ thống nhất trong cả nước.Nó phục
vụ trong công tác kế hoạch hoá của đất nước đảm bảo cho công tác quản lý
kinh tế tập trung , kế hoạch hoá cao độ.Trong giai đoạn này nhà nước đã áp
dụng một cách máy móc mô hình kinh tế của Liên Xô mà không nắm được
- 18 -
thông tin thực tế về điều kiện hoàn cảnh của nước ta giai đoạn đó để định
hướng cho nền kinh tế vì vậy đã dẫn đến thất bại.Công cuộc đổi mới kinh tế
hiện nay đã đem lại những thay đổi to lớn trong hệ thống kinh tế cũng như cơ
chế vận hành nền kinh tế của nước ta.Hệ thống thông tin kinh tế trong những
năm gần đây cũng có những bước phất triển vượt bậc,kể từ phương tiện thông
tin đại chúng đến các tổ chức cung cấp thông tin chuyên ngành.

Một sự kiện lớn đối với Việt Nam vừa qua đó là việc trở thành thành
viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO.Khi ra nhập WTO thì một
trong những điều lệ cơ bản của nó là thông tin, được thể hiện ở một số điểm
như WTO đề ra các điều luật và nhiệm vụ của các thành viên là phải nắm vững
các điều lệ khi ra nhập(quá trình nắm bắt thông tin).Nếu xét WTO là một chủ
thể quản lý còn Việt Nam là đối tượng bị quản lý thì WTO quy định cho các
thành viên của mình phải làm một số nhiệm vụ gì(thông tin quyết định) và Việt
Nam phải có các báo cáo định kỳ về từng lĩnh vực(thông tin phản hồi).Đây
chính là một quá trình thông tin.Như vậy thông tin là điều kiện tất yếu trong
nội bộ một nước.Không chỉ có chính phủ là người phải hiểu biết các luật lệ của
WTO mà các doanh nghiệp cũng phải nắm rõ thông tin khi doang nghiệp làm
ăn với các đối tác nứơc ngoài.Thực tế cho thấy thời gian vừa qua chính vì
không có thông tin về các nền kinh tế trên thế giới mà nền kinh tế Việt Nam
phải chịu nhiều tổn thất như : Chúng ta không tìm hiểu kỹ về giá cả thị trưòng
gạo,do đó không có nhũng dự báo về giá cả và chúng ta đã bán gạo cho trung
quốc với giá rẻ nhưng ngay sau đó thì giá gạo trên thế giới tăng cao và chúng
ta bị tổn thất nặng.Hay việc chung ta bị mỹ kiện về bán phá giá một số mặt
hàng(thuỷ sản ,may măc ) do không nắm được luật chống bán phá giá của
Mỹ.Đây chỉ là một trong những bất cập về hệ thống thông tin của nước ta.Để
đánh giá đúng được thực trạng hệ thống thông tin kinh tế của nước ta hiện nay
cần xem xét cả nhũng ưu điểm và nhược điểm trong hệ thống thông tin kinh tế.
2.1.Những ưu điểm trong hệ thống thông tin kinh tế
- 19 -
Trước hết,ta xem xét nhũng ưu điểm của hệ thống thông tin kinh tế có
những ưu điểm sau:
Thứ nhất:Thông tin được cung cấp đầy đủ kịp thời và chính xác hơn nhờ
việc có thêm nhiều công cụ để thu thập hay xử lý …thông tin nhờ đó chất
lượng thông tin được nâng lên một phần ,đã giúp cho các các cấp quản lý kinh
tế ra được những quyết định kịp thời với nhũng bất ổn của nền kinh tế,góp
phần ổn định sản xuất kinh doanh.Ngoài ra ,các hoạt động thông tin đa dạng

,phong phú đáp ứng được nhu cầu về số lượng thông tin.Đối với các doanh
nghiệp nó làm cho nguồn cung cấp thông tin đa dạng ,dễ tiếp cận như hệ thống
thông tin marketing từ các phương tiện thông tin đại chúng , mạng internet,
mạng liên ngành.Mặc dù tồn tại nhiều hệ thống thông tin kinh tế khác nhau
nhưng giữa các hệ thống này lại có mối quan hệ với nhau ,do đó đảm bảo sự
lưu thông thông tin giữa chúng ở một mức độ nhất định.Điều này được thể
hiện như : trong các doanh nghiệp , tổ chức cũng như ở tầm vĩ mô là đất nước
thì hệ thống thông tin không chỉ khép kín trong phạm vi nội bộ mà đã mở rộng
đầu mối quan hệ thực hiện trao đổi thông tin với các hệ thông bên ngoài.Nhờ
đó việc lưu chuyển của thông tin cũng trôi chảy hơn.
Thứ hai :Trinh độ của đội ngũ cán bộ làm việc trong các bộ phận của hệ
thống thông tin có xu hướng được nâng cao , một số khâu của quá trình thông
tin đã được chuyên môn hoá cao.Không chỉ có trình độ của những người làm
việc trong hệ thống thông tin được nâng cao mà trình độ của các cán bộ quản
lý về thông tin cũng được nâng cao theo các cấp quản lý.Đây là một đòi hỏi tất
yếu đối với nhà quản lý trong sự phát triển của hệ thống thông tin hiện nay
cũng như sự phát triển của xã hội.Các doanh nghiệp , tổ chức hiện nay cũng
quan tâm nhiều đến việc đào tạo thêm cho nhân viên của mình nâng coa trình
độ về công nghệ thông tin.Trình độ thông tin của các cán bộ trong bộ máy
quản lý của nhà nước ngày càng nâng lên một trình độ mới cao hơn trong điều
kiện nền kinh tế thị trường với luồng thông tin khổng lồ và rất phức tạp.Đội
ngũ cán bộ kế hoạch từ cấp cơ sở trở lên nhìn chung có trình độ văn hoá và
- 20 -
chuyên môn coa ,có khả năng tiếp cận và sử dụng được kỹ thuật thông tin mới.
Vì vậy các nhà quản lý vĩ mô đã đưa ra những chính sách về kinh tế xã hội
đúng đắn.
Thứ ba: Trình độ trang bị công nghệ thông tin phần nào đã được tiếp cận
với công nghệ hiện đại , tiên tiến. Cơ cấu của hệ thông đã và đang được hoàn
thiện thể hiện ở chỗ một số ngành có hạ tầng cơ sở khá hiện đại , thực hiện vi
tính hoá và nối mạng giữa các đầu mối thông tin quan trọng hoặc ở hầu hết các

cấp, các bộ phận như hệ thống thông tin kinh tế của ngành ngân hàng , hàng
không , ngành bưu chính viễn thông ….
Thứ tư: Về phía các doanh nghiệp thì nhìn chung hệ thống thông tin
kinh tế nội bộ của doanh nghiệp đã có nhiều đổi mới và tiến bộ.Các thông tin
có tính định hướng kinh tế theo các chương trình , mục tiêu của nhà nước hoặc
cấp trên giúp cho các cán bộ quản lý hoạch định chiến lược ,các kế hoạch phát
triển kinh tế trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp.Nhờ tính định
hướng kinh tế của các thông tin mà khi đề ra mục tiêu của doanh nghiệp mình
các doanh nghiệp phải căn cứ vào mục tiêu chung của đất nước , mục tiêu đó
của doanh nghiệp phải nhằm góp phần thực hiện mục tiêu của đất nước hay ít
nhất mục tiêu đó không làm tổn hại đến mục tiêu chung của đất nước.Như vậy
tránh tình trạng doanh nghiệp quá chạy theo mục tiêu , mục đích của minh mà
bất chấp mọi quy định của nhà nước.
Thứ năm : Về phía nhà nước thì nhà nước đã ban hành và cải cách một
số quy chế ,luật lệ hoạt động của các bộ phận trong hệ thống thông tin để phù
hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường, nhất là trong hệ thống thông tin
của chính phủ và doanh nghiệp.Để nâng cao khả năng thông tin của đất nước
thì nhà nước đã đầu tư hoặc khuyến khích đầu tư vào những ngành về công
nghệ thông tin.Trong xu thế hội nhập và mở cửa hiện nay không chỉ có các
doanh nghiệp mới sử dụng thông tin như một công cụ để nâng cao khả năng
của doanh nhgiệp mà các nhà nước các chính phủ cũng sử dụng thông tin
nhằm năng cao năng lực cạnh tranh quốc gia khi quan hệ thương mại với các
- 21 -
nước trên thế giới .Hệ thống thông tin của chính phủ ngày càng được nâng cấp
nó không chỉ phục vụ cho công tác quản lý vĩ mô của nhà nước mà còn hỗ trợ ,
kết nối với thông tin thị trưòng và hệ thống thông tin doanh nghiệp , tạo ra mối
quan hệ chặt chẽ giữa các hệ thống thông tin này.
2.2. Những nhược điểm của hệ thống thông tin kinh tế của nước ta
Tuy hệ thống thông tin kinh tế của nước ta đã đạt được nhiều tiến bộ so
với thời kỳ trước .Song nó vẫn tồn tại nhiều hạn chế gây ảnh hưởng khá lớn

đến quá trình quản lý kinh tế của Việt Nam đặc biệt là quá trình ra quyết
định.Dưới đây là một số hạn chế chủ yếu của thống thông tin kinh tế :
Hệ thống thị trường thông tin kinh tế không phát triển , hoạt động của
nó không mang lại hiệu quả vì vậy chưa đáp ứng đòi hỏi của sự phát triển.Đối
với bât cứ doanh nghiệp , tổ chức nào thì yếu tố thông tin cũng tồn tại như một
nguồn lực của họ . Để có được nguồn lực này ngoài cách các doanh nghiệp , tổ
chức tự tìm kiếm khai thác thông tin mà doanh nghiệp có thể mua thông tin từ
thị trường thông tin thông qua các công ty tư vấn hay các công ty mà sản phẩm
dịch vụ chính của nó là cung cấp thông tin.Có nhiều nguyên nhân để thị trường
thông tin này không phát triển như : Doanh nghiệp không quan tâm đến yếu tố
thông tin và cho rằng không cần phải bỏ ra một khoản chi phí để có được
thông tin , hay trình độ của các công ty chuyên về thông tin này thấp chưa
cung cấp được những thông tin thực sự cần thiết cho doanh nghiệp.
Một trong những nguyên tắc quan trọng của thông tin nói chung cũng
như thông tin kinh tế nói riêng đó là tính kịp thời do sự biến động liên tục của
thị trường của xã hội khi đó quyết định đưa ra trong thời điểm này chỉ phù hợp
với thời điểm trước và dễ dân đến sai lầm trong việc ra quyết định.Mặc dù đây
là một nguyên tắc rất quan trọng của thông tin song trong hầu hết các trường
hợp thì nguyên tắc này lại không được đảm bảo.Cụ thể đó là việc phát hiện ra
các vấn đề còn chưa nhanh và không nhạy bén mang tính bị động.Nhiều khi
vấn đề đã xảy ra chung ta mới có thông tin về hoặc mới được những người làm
công tác thông tin chú ý đến.Khi đó hậu quả gây ra có thể rất lớn không cứu
- 22 -
vãn được hoặc có cứu vãn được thì tổn thất cũng là rất lớn .Một trong những
cách thức để đảm bảo tính kịp thời trên là sử dụng thông tin dự báo.Khi tìm
kiếm thông tin chng ta không chỉ nhằm nắm bắt được sự vật hiện tượng nào đó
mà còn nhằm nắm bắt được xu hướng vận động của nó để đưa ra những dự
báo.Vì vậy một trong những bộ phận của thông tin kinh tế là thông tin dự báo
về thị trường.Tuy nhiên đối với Việt Nam khâu dự báo này cũng rất yếu
kém.Một trong những ví dụ điển hình về sự yếu kém này đó là việc Việt Nam

bán gạo cho Trung Quốc trong năm 2006.Do không nắm bắt được , không tìm
hiểu kỹ lưỡng về xu hướng vận động của giá cả mà Việt Nam đã ký hợp đồng
bán gạo rất lớn cho Trung Quốc với một mức giá hiện tại là thấp nhưng đến lúc
giao hàng cho bên bạn giá gạo lúc đó đã tăng rất nhanh và cao.Vì vậy Việt
Nam đã chịu một tổn thất rất lớn do đầu vào của sản xuất gạo thì cao mà giá
bán gạo ra lại thấp.Về phía Trung Quốc do có được thông tin về giá cả này mà
đã ký một hợp đồng rất lớn ,và lợi nhuận rất cao.
Hạn chế tiếp theo của hệ thống thông tin kinh tế của nước ta là thuộc về
yếu tố con người.Phương tiện, thiết bị để thông tin và nắm bắt thông tin mặc
dù đã đa dạng hơn so với thời kỳ trước và còn được tiếp cận với công nghệ
hiện đại (mặc dù vẫn đi sau các nước trong khu vực và thế giới ) nhưng nguồn
nhân lực làm nhiệm vụ thu thập, đánh giá, xử lý thông tin lại chưa tận dụng
đựơc những trang thiết bị này.Hạn chế của con ngưòi về mặt thông tin chủ yếu
do các nguyên nhân sau : Trình độ của con người trong việc thu thập và xử lý
thông tin, nguyên nhân thuộc về đạo đức ,khả năng tiếp nhận thông tin.Ta có
thể xem xét từng nguyên nhân để thấy rõ thực trạng về nguồn nhân lực của vấn
đề thông tin:
Trong các nguyên nhân thì nguyên nhân chủ yếu là do trình độ chuyên
môn về những lĩnh vực cần thông tin của đội ngũ nhân lực này còn thấp.Vì vậy
thông tin thường tồn tại ở dạng thông tin thô chưa được xử lý hay xử lý nhưng
không đáp ứng được so với yêu cầu.Ngay cả việc phát hiện ra thông tin thô có
lúc cũng là một khó khăn vì thông tin tồn tại một cách vô hình nó chỉ được
- 23 -
biểu hiện thông qua các phương tiện của nó.Tuy nhiên đôi khi thông tin không
được thể hiện rõ ràng cụ thể nó có thể ẩn đi hoặc biểu hiện dưới một hình thái
thông tin của sự việc hiện tượng khác.Vì vậy đòi hỏi người thu thập cũng phải
có một trình độ nhất định mới phát hiện được ra thông tin đó có liên quan đến
sự việc hiện tượng mình nghiên cứu nếu không sẽ bỏ xót thông tin.Đối với nhà
nước ta khi đầu tư vào trang thiết bị phương tiện thông tin đã không chú ý đến
việc đào tạo con người để có trình độ tương xứng với trình độ công nghệ tăng

lên.
Trong những nguyên nhân thuộc về nguồn nhân lực không chỉ có
nguyên nhân về trình độ chuyên môn của họ mà còn có nguyên nhân thuộc về
đạo đức.Đó là tình trạng bưng bít , hạn chế thông tin vì lợi ích cá nhân.Chẳng
hạn như việc không muốn báo cáo cho cấp trên những thông tin xấu do kết của
hoạt động của mình.Như vậy thông tin đã không được đưa đến đối tượng cần
sử dụng tin để họ xem xét đánh giá .Ngoài các nhân thì ngay cả một tổ chức
cũng có hiện bưng bít , lợi dụng thông tin nhằm phục vụ cho lợi ích cục bộ của
mình.Như ta đã biết thì một trong những điều làm nên lợi thế cạnh tranh của
doanh nghiệp thông tin kinh tế .Khi doanh nghiệp độc quyền về thông tin ,
doanh nghiệp có thể dựa vào thông tin đó để mắn bắt ,tận dụng cơ hội từ thị
trường để tạo ra lợi nhuận lớn.Chính vì lợi ích này mà có nhiều trường hợp
doanh nghiệp ,tổ chức cố tình giữ kín thông tin mặc dù việc găm giữ thông tin
đó sẽ làm cho xã hội bị thiệt hại trong khi chỉ có doanh nghiệp là người được
lợi.Một số các nhân ,tổ chức còn tung ra những thông tin sai lệch gây tổn hại
đến cá nhân tổ chức khác .Mặc dù những thông tin đó có thể được chứng thực
sau này tuy nhiêm nó cũng gây những tổn hại nhất định cho cá nhân tổ chức
trong một thời gian ngắn.
Về khả năng của con người trong việc tiếp nhận thông tin.Như đã nói ở
trên thông tin sai lệch do một số tổ chức cá nhân tung ra có thể gây ra những
hậu quả ngiêm trọng.Tuy nhiên ý đồ của việc tung những thông tin sai lệch có
thực hiện được hay không còn phụ thuộc khá lớn vào trình độ của người tiếp
- 24 -
nhận thông tin.Nếu người tiếp nhận thông tin có một trình độ nhất định thì khi
thông tin được truyền đến họ trước khi đưa ra quyết định họ có thể xác minh
lại độ trân thực của thông tin.Khả năng tiếp nhận thông tin lại phụ thuộc vào
những yếu tố như : trình độ học vấn, tâm lý, cảm xúc, thái độ… của người
nhận khi thông tin đến với người đó.Đặc biệt đối với nhiều nhà quản lý ở nước
ta khi tiếp khi tiếp nhận thông tin để ra quyết định chưa tiếp nhận nó một cách
khách quan ,còn bị tác động bởi một trong những yếu tố trên.

Hạn chế tiếp là thông tin thiếu chính xác không đảm bảo độ tin cậy và
tính hữu ích.Thông tin được lấy hoặc được cung cấp từ những nguồn thiếu tin
cậy.Ngay cả báo chí một trong những kênh thông tin quan trọng nhất ,một
nguồn thông tin đáng tin cậy tuy nhiên ở Việt Nam lại tồn tại một thực trạng
đó là việc báo chí đưa những thông tin sai ,chưa chính xác về một số hiện
tượng sự kiện.Một nghịch lý nữa là mặc dù thông tin lúc đầu là sai và có thể
được đính chính lại nhưng uy tín của những tờ báo này vẫn không chịu chút
thiệt hại nào.Sở dĩ như vậy là vì dư luận xã hội đối với việc tờ báo đó đã từng
đưa thông tin sai là hầu như không có phản ứng, ngưòi đọc đã quá rễ rãi trong
việc tiếp nhận thông tin.Vì vậy hiện tượng này vẫn có thể lặp đi lặp lại vài lần
mà ít có sự sửa chữa khuyết điểm của một số tờ báo.Nguyên nhân của việc đưa
thông tin sai thì có nguyên nhân chủ yếu như: do đạo đức của người viết
báo.Vì một số lợi ích vật chất nhất định mà họ đựoc hưởng khi đưa ra những
thông tin có lợi về một số đối tượng nào đó mặc dù thông tin đó không đúng
sự thật. hoặc có nguyên nhân khác như khi có thông tin báo chí không xác
minh tính chính xác của nó đã cho đăng bài và khi có những thông tin thể hiện
rõ rthông tin trước là sai thì mới đính chính.Ngoài ra thông tin không đảm bảo
chất lượng cũng có thể bắt nguồn từ sự yếu kém của phương tiện được trang bị
:những hình ảnh không rõ nét ,những âm thanh bị nhiễu khó nghe …làm cho
người tiếp nhận thông tin khó khăn trong việc tiếp nhận và xử lý.Để xử lý
được những thông tin này đòi hỏi một lượng chi phí tăng lên về thời gian ,
kinh phí ,nhân lực cho việc lọc thông tin nhiễu.Về tính hữu ích của thông tin
- 25 -

×