Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Tiểu luận: " Nội dung và ý nghĩa của chế độ BHXH " potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (624.01 KB, 28 trang )








TIỂU LUẬN
"Nội Dung Và ý Nghĩa của chế độ
BHXH”

Tiểu luận Luật Kinh tế

LỜI NÓI ĐẦU

Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở
và đi lại . Để thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu đó,người ta phải
lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết cho cuộc sống của
mình. Khi sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống của
con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn
minh hơn.Điều đó cho thấy việc thoả mãn những nhu cầu sinh
sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng
lao động của họ. Nhưng trong thực tế khong phải lúc nào cuộc
sống của con người cũng đầy đủ và thuận lợi mà đôi khi họ phải
chịu không ít những khó khăn và bất lợi do điều kiện khách quan
và tác động vào như: tai nạn lao động, những rủi ro từ thiên tai,
mất khả năng lao động khi tuổi già….Từ đó buộc con người phải
nghĩ đến việc sẽ phải làm gì để đảm bảo sự ổn định cho cuộc sống
của họ ngay cả khi những rủi ro trên xảy ra hoặc không xảy ra .
Mặt khác khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, do việc thuê mướn
công nhân trở nên phổ biến đã phát sinh ra khá nhiều những vấn


đề có liên quan tới việc trả công và nhu cầu cần được đảm bảo
một khoản thu nhập nhất định để người lao động trang trải khi
không may ốm, tai nạn, thai sản…,gây ra không ít những mâu
thuẫn giữa chủ và thợ , những mâu thuẫn này đã có tác động khá
lớn tới đời sống kinh tế xã hội . Do vậy buộc nhà nước phải đứng
ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn bằng cách buộc cả giới chủ lẫn
thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính
dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra với người làm thuê, số tiền
đóng của cả chủ lẫn thợ hình thành một quĩ tiền tệ tập trung trên
phạm vi quốc gia .Quĩ này còn được bổ sung từ NSNN nhằm đảm
bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải những biến cố bất
Tiểu luận Luật Kinh tế

lợi. Bên cạnh đó , giới chủ thấy mình có lợi và sản xuất kinh
doanh diễn ra bình thường và tránh được những xáo trộn không
cần thiết.
Tất cả những hoạt động và mối quan hệ ràng buộc trên
và ý nghĩa của nó đối với con người và xã hội được thế giới quan
niệm là Bảo Hiểm Xã Hội đối với người lao động .Đồng thời đó
cũng chính là tiêu đề mà em chọn cho tiểu luận của mình: "Nội
Dung Và ý Nghĩa của chế độ BHXH”.Do trình độ và sự hiểu biết
về BHXHcủa em còn hạn chế nên trong quá trình phân tích và
trình bầy không tránh khỏi những thiếu sót . Em rất mong sự chỉ
bảo và đóng góp ý kiến của thầy cô .Em xin chân thành cảm ơn.

Tiểu luận Luật Kinh tế

B. NỘI DUNG

I. MỘT SỐ QUAN NIỆM VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI :

1.Khái niệm về BHXH:
Ra đời vào giữa thế kỷ 14, hệ thống BHXH lần đầu tiên là công
trình của chính phủ Đức dưới thời Bismask (1883-1889) với cơ
chế 3 bên (Nhà nước-giới chủ-giới thợ) cùng đóng góp nhằm bảo
hiểm cho người lao động khi họ gặp rủi ro. Sau đó, trước ý nghĩa
to lớn của BHXH trong quan hệ lao động, nhiều nước đã bắt đầu
áp dụng hệ thống BHXH và BHXH thực sự trở thành một chính
sánh xã hội lớn ở VN đó là vào năm 1962 trở lại đây.BHXH ra đời
đã giúp người lao động dàn trải được những khó khăn do ốm đau,
tai nạn…trên cơ sở những cam kết đóng góp của người lao động,
người sử dụng lao động cho một bên thứ 3 (Cơ quan bảo hiểm
trước khi xảy ra những biến cố đó
Như vậy xét dưới góc độ kinh tế, BHXH là một phạm trù kinh
tế tổng hợp, là sự đảm bảo thu nhập nhằm đảm bảo cuộc sống cho
người lao động khi mất hoặc giảm khả năng lao động . Còn nếu
xét dưới góc độ pháp lý , chế độ BHXH là tổng hợp những qui
định của nhà nước, qui định các hình thức đảm bảo điều kiện vật
chất và tinh thần cho người lao động và các thành viên gia đình họ
trong trường hợp bị giảm hoặc mất khả năng lao động.
2.Tính chất của BHXH:
BHXH gắn liền với đời sống của người lao động , vì vậy nó có
một số tính chất cơ bản sau:
2.1.Tính tất yếu khách quan :
Trong quá trình lao động và sản xuất, người lao động có thể gặp
nhiều biến cố rủi ro như: tai nạn, đau ốm, thiên tai…Những biến
cố đó đồng thời đẩy người sử dụng lao động cùng rơi vào tình
Tiểu luận Luật Kinh tế

cảnh khó khăn không kém như: thiếu nguồn nhân lực, sản xuất
kinh doanh bị gián đoạn…Sản xuất càng phát triển, nguy cơ rủi ro

đối với người lao động và những khó khăn đối với người sử dụng
càng lớn và trở nên phức tạp dẫn đến sự mâu thuẫn trong mối quan
hệ chủ-thợ ngày càng căng thẳng. Để điều hoà và giải quyết mâu
thuẫn này, nhà nước đã đứng ra can thiệp thông qua BHXH, do
vậy sự ra đời của BHXHlà cần thiết, là một điều tất yếu khách
quan trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi nước.
2.2.BHXHcó tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời
gian và không gian:
Để tạo ra giá trị cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của mình,
con người tác động vào tư nhiên làm ra sản phẩm, nhưng đồng
thời con người cũng phải chịu những qui luật khách quan của điều
kiện tự nhiên và xã hội, những tác động này thường diễn ra một
cách ngẫu nhiên mà con người không thể dự đoán một cách đâỳ
đủ. Điều này được thể hiện rất rõ ở những nội dung cơ bản của
BHXH, từ thời điểm hình thành và triển khai, đến mức đóng góp
của các bên tham gia để hình thành quĩ BHXH.
2.3.BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội, đồng thời còn
có tính dịch vụ:
Bên cạnh tính tất yếu khách quan, tính ngẫu nhiên, BHXH còn
có tính chất kinh tế ,tính xã hội, và tính dịch vụ rất rõ ràng.Trước
hết về tính kinh tế được thẻ hiện ở quĩ BHXH, nó là sự đóng góp
của các bên tham gia được đặt dưới cơ chế rất chặt chẽ, sử dụng
đúng mục đích. Quĩ BHXH chủ yếu dùng để trợ cấp cho người lao
động theo các điều kiện của BHXH, trên thực tế phần góp của mỗi
người lao động là không đáng kể, nhưng quyền lợi nhận được là
rất lớn khi gặp rủi ro, còn đối với người sử dụng lao động thì họ
cũng có lợi vì không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để trang trải
Tiểu luận Luật Kinh tế

cho những người lao động bị mất hoặc giảm khả năng lao động,

mà vẫn đảm bảo được quá trình sản xuất kinh doanh. Và với nhà
nước BHXH góp phần làm giảm ghánh nặng cho ngân sách đồng
thời còn là một nguồn đầu tư đáng kể cho nền kinh tế quốc dân.
Mặt khác đối với xã hội, BHXH là một nhân tố quan trọng trong
việc điều hoà và giải quýêt mâu thuẫn chủ-thợ, đồng thời trong
mô lớn, lại được hình thành tập trung trên phạm vi quốc gia nên
BHXH mang tính dịch vụ rất lớn. Tất cả những điều đó đều cho
thấy sự cần, tầm quan trọng của BHXH trong đời sống kinh tế xã
hội của mỗi nước trên phạm vi toàn cầu.
II.NỘI DUNG CỦA CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM:
1.Các chế độ BHXH được tạo thành bởi các điều kiện BHXH
cùng với các mức trợ cấp bảo hiểm:
Về nguyên tắc, BHXH phải đảm bảo an toàn kinh tế cho mọi
người lao động trong mọi trường hợp giảm hoặc mất khả năng lao
động. Tuy nhiên, tuỳ theo điều kiện kinh tế xã hội từng quốc gia
trong từng giai đoạn mà các chế độ BHXH được qui định khác
nhau
Ơ nước ta hiện nay thực hiện một số các chế độ BHXH sau:
- Chế độ trợ cấp ốm đau
- Chế độ trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghệ nghiệp
- Chế độ trợ cấp thai sản
- Chế độ hưu trí
- Chế độ tử tuất
Ngoài ra, những đối tượng đã giải quyết chế độ mất sức lao
động, đang hưởng trợ cấp hàng tháng theo các qui định cũ vẫn tiếp
tục được hưởng và chế độ bảo hiểm thất nghiệp đang được xây
Tiểu luận Luật Kinh tế

dựng, bước đầu đã được qui định trong Bộ luật lao động sữa đổi
2002

Các chế độ bảo hiểm nói trên nói trên có một điểm chung là đều
được tạo thành bởi các điều kiện BHXH và mức trợ cấp BHXH.
2.Đối tượng của BHXH và đối tượng tham gia BHXH:
BHXH ra đời vào những năm giữa thế kỷ 19, khi nền công
nghiệp và kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các
nước Châu âu.Từ năm1883,ở nước Phổ (CHLB Đức ngày nay) đã
ban hành luật BHYT. Một số nước Châu âu và Bắc mỹ mãi đến
cuối năm 1920 mới có đạo luật về BHXH. Tuy ra đời từ lâu như
vậy, nhưng đối tượng của BHXH vẫn còn nhiều quan điểm chưa
thống nhất, đôi khi còn có sự nhầm lẫn giữa đối tượng BHXH với
đối tượng tham gia BHXH. Do vậy ta cần phải phân biệt được
1cách rõ ràng giữa 2 khái niệm này.
2.1.Đối tượng của BHXH:
Như chúng ta đã biết, BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu
nhập bị giảm hoặc bị mất đi do người lao động bị giảm hoặc mất
khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân như ốm đau,
tai nạn, già yếu…Do vậy, đối tượng của BHXH chính là thu nhập
của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc
bị mất khả năng lao động, mất việc làm của những người lao động
tham gia BHXH. Mà mức thu nhập được bảo hiểm chính là mức
tiền lương hoặc một mức thu nhập bằng tiền nào đó do nhà nước
qui định trên cơ sở mức sống, mức thu nhập bình quân thực tế của
người lao động theo 2 cách lựa chọn. Cách thứ nhất là áp dụng
một mức đồng nhất đối với mọi người được bảo hiểm. Cách thứ
hai là lấy tiền lương làm cơ sở để qui định mức thu nhập được bảo
hiểm. Mỗi cách đều có những tác dụng như nhau, nhưng thông
thường người ta láy tiền lương làm căn cứ để xác định mức thu
Tiểu luận Luật Kinh tế

nhập được bảo hiểm. Mặt khác đối tượng BHXH hay mức thu nhập

được bảo hiểm là công cụ để nhầ nước giám sát , kiểm tra, điều
tiết trên giác độ quản lý vĩ mô đối với BHXH và quản lý lao động
trong nền kinh tế quốc dân.
2.2.Đối tượng tham gia BHXH:
Đối tượng tham gia quan hệ BHXH gồm có: người thực hiện bảo
hiểm, người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm. T uy
vậy, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước mà
đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao
động nào đó.
Vào những năm đất nước ta bắt đầu có sự đổi mới trong cơ chế
quản lý: từ một kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị
trường nhiều thành phần, có sự điều tiết của nhà nước theo định
hướng XHCN đã đánh dấu bước phát triển mới sự nghiệp BHXH
ở nước ta đó là: về phạm vi, đối tượng tham gia BHXH đã được
mở rộng từ chỗ trước đây chỉ áp dụng cho cán bộ, công nhân, quân
nhân làm việc trong khu vực nhà nước và lực lượng vũ trang nay
đã được mở rộng ra các đối tượng người làm công hưởng lương ở
các đơn vị, tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế. Và đồng
thời có sự sửa đổi, bổ xung ở điều 3 trong số 12/CP tháng 1/1995
của Chính Phủ :’’ đối tượng áp dụng BHXH bắt buộc với người
lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3
tháng trở lên và hợp đồng kjhông xác định thời hạn trong các DN,
cơ quan, tổ chức đều phải đóng BHXH’’
Các thành viên tham gia quan hệ BHXH có mối mối quan hệ mật
thiết với nhau. Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên được
đặt trong mối quan hệ thống nhất với nhau. Song, cũng như bất cứ
một quan hệ pháp luật nào, trong quá trình phát sinh, tồn tại của
quan hệ BHXH giữa các chủ thể không tránh khỏi sự bất đồng với
Tiểu luận Luật Kinh tế


nhau dẫn đến tranh chấp. Nếu sự tranh chấp giữa người lao động
với người sử dụng lao động thì giải quyết theo qui định về giải
quyết tranh chấp lao động. Nếu tranh chấp giữa người lao động,
người sử dụng lao động với cơ quan BHXH thì giả quyết theo qui
chế của tổ chức BHXH. Và mối quan hệ có sự ràng buộc lẫn nhau
này cũng chính là đặc trưng riêng của BHXH. Nó quyết định sự
tồn tại, hoạt động và phát triển của BHXH một cách ổn định và
bền vững.
3.Các điều kiện hưởng BHXH và mức trợ cấp BHXH:
3.1.Các điều kiện hưởng BHXH:
Điều kiện BHXH là cơ sở pháp lý để được hưởng BHXH. Các
điều kiện BHXH có vai trò quan trọng trong hệ thống BHXH, nó
không chỉ là cơ sở pháp lý để hưởng BHXH, mà còn là công cụ
điều tiết của nhà nước để đảm bảo cho phù hợp giữa các chế độ
BHXH, giữa người lao động và người không lao động hưởng
BHXH.
Hệ thống các điều kiện BHXH gồm: tuổi đời, mức độ suy giảm
hoặc mất khả năng lao động, và thời gian tham gia BHXH trong
đó chế độ hưu trí và chế độ mất sức lao động được coi là những
điều kiện chủ yếu và hết sức quan trọng .
3.2.Mức trợ cấp:
Trợ cấp BHXH là số tiền mà người lao động nhận được từ cơ
quan BHXH hoặc thêm vào phần thu nhập bị mất hoặc bị giảm do
mất khả năng lao động .
Trợ cấp BHXH có 2 loại: trợ cấp thường xuyên và trợ cấp một
lần. Và cơ sở để xác định mức trợ cấp BHXH được xây dựng dựa
trên cơ sở mức sống dân cư và mức lương tối thiểu , các thang
,bảng trợ cấp BHXH được xây dựng dựa trên thời gian công tác,
mức độ suy giảm khả năng lao động. Trong đó, khống chế mức trợ
Tiểu luận Luật Kinh tế


cấp hưu trí và mất sức lao động tối đa và tối thiểu.Trên những cơ
sở này, mức trợ cấp cụ thể của từng người được huởng, được tính
toán xác định bằng một tỷ lệ so với mức tiền lương cá nhân.
Tiểu luận Luật Kinh tế

4.Quĩ BHXH và cơ chế quản lý:
*Về Quĩ BHXH:
Quĩ BHXH được huy động trên cơ sở trích nộp theo tỷ lệ phần
trăm so với tổng quĩ lương của cơ quan xí nghiệp vào NSNN, ở
các đơn vị hành chính sự nghiệp, phần trích nộp này do nhà nước
đảm nhiệm, còn ở các đơn vị kinh doanh phần này được tính vào
giá thành sản phẩm.Như vậy, cá nhân, công nhân viên chức không
phải đóng góp gì cho quĩ này.
Về tính chất quĩ BHXH không chỉ là một quĩ an toàn về tài
chính nhằm đối phó với những rủi ro mang tính ngẫu nhiên hoặc
mất khả năng lao động, mà quĩ BHXH còn là một quĩ tiêu dùng, là
bộ phận cấu thành của hệ thống phân phối thu nhập quốc dân, làm
nhiệm vụ phân phối hoặc phân phối lại thu nhập cho người lao
động. Là một quĩ tích luỹ đồng thời đồng thời là quĩ tiêu dùng
trên cơ sở tuân theo qui luật phân phối theo lao động, ở một mức
độ nhất định theo nguyên tắc tương đương, đồng thời phải tham
gia điều chỉnh cần thiết giữa nhu cầu và lợi ích.
*Về cơ chế quản lý :
Khi mới ban hành điều lệ, quĩ BHXH và nói chung toàn bộ sự
nghiệp BHXH do công đoàn quản lý.Nhưng theo cơ chế mới trong
nghị định số 43/CP của chính phủ ra ngày 22/6/1993 qui định quĩ
BHXH là quĩ độc lập,. Tập trung nằm ngoài NSNN do: người sử
dụng lao động góp 15% quĩ lương, người lao động góp 5% tiền
lương, trợ cấp của nhà nước, ngoài ra còn dược bổ xung thêm

phần lãi suất do đầu tư mang lại và cá tổ chức quốc tế, các nhà
hảo tâm đóng góp .
Như vậy, quĩ BHXH là một bộ phận nằm trong NSNN gồm 2
phần do 2 cơ quan quản lý nhưng được thực hiện theo cơ chế
chung-cơ chế tập trung bao cấp. Hoạt động của quĩ BHXH thực
Tiểu luận Luật Kinh tế

hiện theo kiểu dư đoán và cấp phát ngân sách theo thực tế phát
sinh BHXH giữa phần thu và chi của quĩ luôn không cân đối, bội
chi ngày càng lớn và do ngân sách phải cấp bù giữa 2 phần của
quĩ do 2 cơ quan quản lý không có quan hệ gì với nhau và không
thể điều tiết lẫn cho nhau nên trên thực tế trở thành 2quĩ độc lập.
III.CÁC CHẾ ĐỘ BHXH và Ý NGHĨA :
1. Các chế độ BHXH:
Hệ thống BHXH ở nước ta hiện nay bao gồm: BHXH đối với
công nhân, công nhân viên chức nhà nước và mọi người lao động
theo loại hình bắt buộc (được qui định trong nghị định 12/CP ngày
26/1/1995, và BHXH đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp ,
hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và công an ND (được qui
định trong nghị định 45/CP ngày 15/7/1995.Hai hệ thống nói trên
về cơ bản có nhiều điểm chung như nguyên tắc thực hiện BHXH,
điều kiện căn cứ hưởng BHXH….Tuy nhiên, do lao động cua lực
lượng vũ trang là một loại lao động đặc biệt nên pháp luật thường
qui định với sự ưu đãi nhất định đối với quyền lợi, chế độ của
người lao động thuộc lực lượng vũ trang .
Trong hệ thống các chế độ BHXH nước ta hiện nay đang thực
hiện gồm các chế độ sau: chế độ trợ cấp ốm đau; chế độ trợ cấp
tan nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; chế độ trợ cấp thai sản; chế
độ hưu trí; chế độ tử tuất.( Ngoài ra trong bộ luật sữa đổi 2002,
bướa đầu đã qui định thêm chế độ bảo hiểm thất nghiệp )

1.1. Chế độ trợ cấp ốm đau:
Người lao động nghỉ việc vì ốm đau, bị tai nạn rủi ro (không
phải tai nạn lao động) được khám bệnh và điều trị tại các cơ sở y
tế theo chế độ BHYT và được hưởng trợ cấp ốm đau thay tiền
lương nếu có chứng nhận hợp pháp cơ quan y tế có thẩm quyền
chế độ trợ cấp ốm đau cũng được áp dụng với lao động nữ có con
Tiểu luận Luật Kinh tế

thứ nhất,thứ hai (kể cả con nuôi theo hợp pháp) hoặc trường hợp
đặc biệt có con thứ 3 (theo qui định cua phấp luật) dưới 7 tuổi bị
ốm đau có giấy xác nnhận hợp pháp cua cơ quan y tế. Trong một
số trường hợp, chế độ này cũng được áp dụng với cả người bố.
Chế độ trợ cấp ốm đau không áp dụng đối với những trường hợp
nghỉ việc do tự huỷ hoại sứu khoẻ, do đánh nhau, do say rượu ….
Thời gian hưởng trợ cấp và mức trợ cấp ốm đau phụ thuộc vào
điều kiện làm việc, mức và thời gian đóng phí BHXH.
1.2. Chế độ trợ cấp tai nạn lao động , bệnh nghề nghiệp :
Tai nạn la động là tại nạn làm ảnh hhưởng tới sức khoẻ, tính
mạng hoặc l tổn thương bất kì bộ phận, chức năng nào của cơ thể
làm người lao động và xảy ra trong quá trình lao động gắn liền với
việc tục hiện công việc, nhiệm vụ lao động.
Theo một số qui định trước đây, trong một số trường hợp bất
khả kháng, tình thế cấp thiết tai nạn xảy ra không liên quan đến
việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ lao động cũng được coi là
tai nạn lao động (cứu người, cứu tài sản của nhà nước… ).
Bệnh nghề nghiệp là bệnh phát sinh do tác động của điều kiện
lao động có hại đối với người lao động. Bệnh nghề nghiệp chỉ
phát sinh và bắt nguồn từ quá trình làm việc mà thường xuyên
phải tiếp xúc với môi trường có yếu tố độc hại của nghề đó.Như
vậy không phải bất cứ bệnh nào cũng coi là bệnh nghề nghiệp.

Danh mục bệnh nghề nghiệp do Bộ y tế qui định .
Người lao động khi bị tai nạn lao động hay bệnh nghề
nghiệpđược hưởng trợ cấp bằng 100% tiền lương trong thời gian
điều trị và được cấp chi phí khám, chữa bệnh.
Sau thời gian điều trị, khi thương tật ổn định, người lao động bị
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được giám định y khoa có
thẩm quyền. Tuỳ theo mức độ suy giảm khả năng lao động mà
Tiểu luận Luật Kinh tế

người lao động được hưởng trợ cấp hàng tháng. Đối với người lao
bị tai nạn lao động, bẹnh nghề nghiệp mà bị tổn thương các chức
năng hoặt động của cơ thể(chân, tay, mắt…)được cấp một lần các
phương tiện trợ giúp cho sinh hoạt phù hợp với các tổn thất của cơ
quan chức năng. Khi vết thương tái phát, nngười lao động được
chữa trị và giám định lại thương tật.
Người lao động chết khi xảy ra tai nạn lao động hoặc do bệnh
nghề nghiệp thì gia đình đựoc hươngr chế độ tử tuất và được trợ
cấp thêm một lần trên cơ sở số tiền lương tối thiểu theo qui định
của pháp luật.
1.3.Chế độ trơ cấp thai sản :
Lao động nữ là một loại lao động đặc thù, bởi vì người phụ nữ
ngoài việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ lao động, họ còn đảm
nhận một chức năng không ai thay thế là sinh đẻ và nuôi con.
Do đó, khi sử dụng lao đọng nữ, bên cạnh việc tuân thủ các qui
địng chung về sử dụng lao động. Pháp luật còn có những qui định
riêng để sử dụng lao động phù hợp với đặc điểm về cơ thể, sinh lý
và chức năng làm mẹ của người phụ nữ.
Trong lĩnh vực BHXH, các chế độ đối với lao động nữ khi thai
sản nhằm trợ giúp, bổ xung sự thăng băng trong thu nhập và đảm
bảo sức khoẻ cho người phụ nữ khi chức năng làm mẹ. Chế độ trợ

cấp thai sản áp dụng cho người lao động nữ sinh con thứ nhất thư
hai. Nội dung chế độ thai sản bao gồm: thời gian nghỉ trước và
sau khi sinh con, thời gian nghỉ đi khám thai, sẩy, nạo thai, thời
gian đối với người nuôi con hợp pháp, thời gian nghỉ theo thoả
thuận. Trong toàn bộ thời gian nghỉ nói trên, người lao động nữ
được hưởng trợ cấp bằng 100% tiền lương (trừ thời gian nghỉ theo
thoả thuận).
1.4.Chế độ hưu trí :
Tiểu luận Luật Kinh tế

Người lao động tham gia quan hệ lao động được hưởng chế độ
hưu trí hàng tháng khi họ đạt đến một độ tuổi nhất định và với
thời gian tham gia BHXH theo qui định của pháp luật. Độ tuổi hưu
trí và độ dài thời gian tham gia bảo hiểm để hưởng chế độ hưu trí
hàng tháng được pháp luật qui định khác nhau dựa trên cỏ sở của
điều kiện và mức độ lao động.
Chế độ đối với người hưởng trợ cấp hưu trí hàng tháng bao gồm:
trợ cấp hưu trí một lần trước khi nghỉ hưu và lương hưu hàng
tháng. Mức trợ cấp cũng như mức lương hưu pháp luật qui định
dựa trên cơ sở thời gian tham gia BHXH.
Đối với người lao động không đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí
hàng tháng, nếu có đủ diều kiện theo qui định của pháp luật sẽ
được hưởng trợ cấp hưu trí một lần .
1.5.Chế độ tử tuất:
Chế độ này áp dụng đối với người lao động đang tham gia quan
hệ lao động cũng như những người lao động đã chấm dứt quan hệ
lao động nhưng đang hưởng trợ cấp BHXH mà bị chết. Nội dung
chế độ này bao gồm chế độ mai táng phí và chế độ trợ cấp tiền
tuất. Chế độ mai táng phí là khoản là khoản trợ cấp cho người lo
việc chôn cất, mai táng cho người chết. Mức độ trợ cấp do pháp

luật qui định. Chế độ trợ cấp tiền tuất là chế độ áp dụng cho nhân
thân, gia đình người lao động bị chết khi họ có một khoảng thời
gian nhất định tham gia BHXH. Tuỳ theo nguyên nhân của việc
người lao động chết mà họ được hưởng chế độ tuất hàng tháng hay
chế độ tuất một lần. Mức trợ cấp hàng tháng và một lần do pháp
luật qui định.
2.Ý Nghĩa của các chế độ BHXH:
Qua hơn 30 năm thực hiện đã có rất nhiều van bản sữa đổi và bổ
xung, nhưng kết quả cho thấy BHXH ở nước đã có những thành
Tiểu luận Luật Kinh tế

công nhất định và ngày càng phát triển, nó có ý nghĩa rất to lớn
đối với các bên tham gia BHXH, nó giúp cho cuộc sống của người
lao động đi vào ổn định, giúp cho nền kinh tế và xã hội của nước
ta ngày vững chắc so với các nước trên thế giới.
Tiểu luận Luật Kinh tế

2.1.Ý nghĩa của các chế độ BHXH đối nền kinh tế xã hội:
Từ khi nước ta thực hiện chính sách, cơ chế hoạt động BHXH
mới, có bước chuyển đổi cơ bản phù hợp với sự thay đổi cơ chế
quản lý từ một nền kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị
trường nhiều thành phần có sự điều tiết của nhà nước theo địng
hướng XHCN, kết quả cho thấy đã giải quyết được những vấn đề
cơ bản, có tác dụng nhiều mặt trong việc đảm bảo an toàn xã hội,
có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội. Chính sách
BHXH đã thực sự trở thành công cụ để thực hiện xã hội hoá các
hoạt động xã hội từng bước giảm dần sự bao cấp của NSNN, thông
qua việc xác lập trách nhiệm đóng góp chủ sử dụng lao động và
người lao động có sự bảo hộ của nhà nước, dần hình thành quĩ
hoạt động độc lập với NSNN quĩ BHXH ngoài đảm bảo các khoản

chi, phần “nhàn rỗi “ thông qua các hoạt động đầu tư, bảo tồn tăng
trưởng đã trở thành nguồn quan trọng tham gia vào thị trường vốn,
góp phần đầu tư tăng trưởng kinh tế. Tính đến cuối năm 2002, quĩ
BHXH đã đầu tư theo kế hoạch của nhà nước 25000 tỷ đồng gồm
có: mua trái phiếu, công trái, cho NSNN vay, cho các NHTM vay,
tổng lãi thu qua các năm đã bổ xung cho quĩ là gần 4tỷ đồng .
Chính sách BHXH đã thể hiện rõ sự tiến bộ xã hội và công bằng
trên nguyên tắc “lấy số đông bù số ít”, “có đóng có hưởng”.Cơ
chế tổ chức, quản lý các hoạt động BHXH đã được thiết lập thành
một hệ thống tập trung, thống nhất từ trung ương tới địa phương,
giải quyết được những vướng mắc chồng chéo giữa các chức năng
quản lý sự nghiệp. Chính sách BHXH đã đi vào cuộc sống, tạo
niềm tin cho cán bộ, công chức và người lao động góp phần đẩy
mạnh sự phát triển mang đến sự ổn định cho toàn bộ nền kinh tế
chính trị quốc gia.
Tiểu luận Luật Kinh tế

2.2.Ý nghĩa của các chế độ BHXH đối với người tham gia BHXH:
Như chúng ta đã biết, BHXH có ý nghĩa rất quan trọng đối với
nền kinh tê xã hội, nhưng bên cạnh đó BHXH còn ý nghĩa lớn đối
với những người tham gia BHXH đó là: cán bộ, công nhân viên
chức nhà nước nói chung và những người sử dụng lao động và
người lao động nói riêng.
Trước hết đối với những cán bộ CNVC nhà nước và người lao
động thì chế độ BHXH có ý nghĩa góp phần đảm bảo quyền và lợi
ích cá nhân, tạo cho họ một khoản thu nhập để trang trải trong
trường hợp không may có rủi ro xảy ra, giúp họ phần nào ổn định
đời sống của bản thân và gia đình mình .
Còn đối với người sử dụng lao động tham gia chế độ BHXH có
ý nghĩa giúp họ giàn trải những khoản tiền lớn mà họ không muốn

bỏ ra cùng một lúc trong trường hợp người lao động gặp rủi ro
hàng loạt. Bên cạnh đó người sử dụng lao động thấy khi tham gia
BHXH họ có lợi và được bảo, việc sản xuất kinh doanh diễn ra
bình thường, tránh được những mâu thuẫn giữa chủ-thợ nguyên
nhân gây ra những xáo trộn không cần thiết mà có ảnh xấu tới việc
phát triển doanh nghiệp. Mặt khác BHXH còn là trung gian gắn bó
lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa
người sử dụng lao động với nhà nước.
Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, chính sách BHXH đã
trở thành một chính sách xã hội quan trọng của hệ thống an sinh
xã hội, góp phần đảm bảo an toàn đời sống của cán bộ công chức,
người lao động, góp phần tích cực vào công cuộc bảo vệ và xây
dựng đất nước.
IV.TÌNH HÌNH THI HÀNH CHẾ ĐỘ BHXH TẠI DN DỆT MAY
VÀ GIẢI PHÁP
Tiểu luận Luật Kinh tế

Theo qui định của pháp luật BHXH hiện hành không có sự phân
biệt về chính sách đối với các DN thuộc các thành phần kinh tế,
mọi DN đều có nghĩa vụ như nhau về BHXH đối với người lao
động và người lao động trong các DN đều có quyền lợi như nhau
về BHXH.Tuy nhiên các DN thuộc diện tham gia BHXH phải thực
hiện nghĩa vụ BHXH(đóng BHXH cho người lao động. Qua điều
tra cho thấy có khoảng 61% số DN thực hiện đóng BHXH cho
người lao động. Xét trong các loại hình DN thì 100% công ty, DN
thuộc nhà nước và công ty cổ phần thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp
BHXH cho người lao động và công ty Dệt May Hà Nội là một
trong những công ty đó. Nhưng do tính đặc thù của công ty Dệt
May là có sử dụng nhiều lao động nữ nên trong quá trình thực
hiện chính sách nàyvẫn có nhiều vấn đề đặt ra và cần phải có

những giải pháp đúng đắn để người lao động có thể được hưởng
một cách tối đa quyền và lợi ích của mình.
1.Tình hình thi hành chế độ BHXH tại DN:
Xét về đối tượng đối tượng tham gia BHXH và việc thi hành 5
chế độ BHXH, thì công ty Dệt May Hà Nội đã thực hiện theo đúng
qui định của pháp luật. Từ phía người lao động họ đã có ý kiến
rằng:” công ty có đảm bảo cho họ được hưởng đầy đủ các chế độ
BHXH, tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề cần được quan tâm hơn
trong các chế dộ BHXH dành riêng cho lao động nữ, vì số lượng
lao động nữ ở cong ty chiếm phần đa ví dụ như chế độ trợ cấp thai
sản, chế độ trợ cấp ốm đau…. Bên cạnh đó họ còn mong muốn ban
tổ chức quản lý công ty quan tâm hơn đến điều kiện lao động của
họ.
*Chế độ trợ cấp ốm đau:
Theo ở điều 6 số 12/CP của chính phủ thì Cty Dệt May Hà Nội
đã thực hiện tương đối đúng qui định của pháp luật. Đa số người
Tiểu luận Luật Kinh tế

lao động đều được hưởng mọi quyền lợi được do chế độ trợ cấp
ốm đau mang lại, từ việc được nghỉ đi khám bệnh tới việc điều trị
tại các cơ sở y tế hay việc được hưởng trợ cấp ốm đau thay tiền
lương khi có chứng nhận hợp pháp của cơ quan y tế có thẩm
quyền. Trường hợp con cái hoặc bố ốm họ cũng có quyền được
nghỉ làm theo đúng qui định, trong việc thực hiện chế độ này công
ty Dệt May đã đem lại khá nhiều niềm tin và sự an tâm cho người
lao động,tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề xuất phát từ phía người
lao động và các cơ quan y tế có thẩm quyển đó là vẫn còn trường
hợp gian lận trong giấy xác nhận ốm đau, nguyên nhân của bệnh
tật không đúng với thực tế, điều này đôi khi đã gây những nghi
ngờ cho ban lãnh đạo công ty dẫn đến điều đáng tiếc xảy ra trong

mối quan hệ chủ thợ. Đây là tình trạng cần phải được khắc phục
và có sự hợp tác của nhiều bên để tránh những việc không cần
thiết phải xảy ra.
*Chế độ trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp:
Theo như qui định ở điều 6 “Sau khi điều trị ổn định thương tật
người sử dụng lao động có trách nhiệm sắp xếp công việc phù hợp
cho người bị tai nạn lao động và được tổ BHXH giới thiệu đi giám
định khả năng lao động tại hội đồng giám định y khoa theo qu
định của bộ y tế”. Nhưng có một số trường hợp đã xảy ra do sự
thiếu tránh nhiệm trong ban lãnh đạo của DN như: người lao động
sau khi bình phục đến công ty để nhận việc nhưng lại không đuợc
chấp nhận hoặc phải nhận những công việc không đúng chuyên
môn hay không phù hợp với khả năng của mình. Cũng có trường
hợp người lao động chưa bình phục hẳn nhưng vẫn bị gọi đi làm vì
công ty có nhiều đơn đặt hàng, đây là do sự thiếu tránh nhiệm và
sự coi thường mạng sống của con người. Bên cạnh đó, còn có xảy
ra việc làm giấy tờ và thủ tục để người nhà của người lao động
Tiểu luận Luật Kinh tế

chết khi bị tai nạn lao động khá khó khăn, vấn đề này đôi khi đã
gây cho họ sự bất mãn, dẫn đến kiện cáo và nhièu việc không hay
đã xảy ra. Đây là một vấn đề cấp bách cần được sự quan tâm của
nhà nước và các cán bộ có thẩm quyền can thiệp.
*Chế độ trợ cấp thai sản:
Chế độ thai sản là một trong chính sách quan trọng của nhà
nước nhằm bảo vệ sức khỏe không chỉ cho lao động nữ mà còn
bảo vệ cả thế hệ tương lai. Có lẽ do vậy mà ở công ty Dệt May đã
thực hiện khá tốt nghĩa vụ của mình, gần như 100% người lao
động nữ khi có thai đều được hưởng đầy đủ các chính sách thai
sản bao gồm: nghỉ khám thai, nghỉ sinh con, nghỉ khi có thai đến

tháng thứ 7, nghỉ để thựchiện kế hoặch hoá gia đình. Đây là một
điều đáng để chúng ta tuyên dương lệ và khích lệ đối với công ty
Dệt May vì hiện nay số DN hoặc các côngty tư nhân khác thực
hiện đúng theo qui định cuả nhà nước khá ít ỏi, đôi khi mang đến
cho người lao động nhiều sự thiệt thòi không đáng có.
*Chế độ hưu trí:
Theo qui định hiện hành, tuổi nghỉ hưu của nam là 60 tuổi và nữ
là 55 tuổi (trong điều kiện lao động bình thường). Ban lãnh đạo
công ty có thực hiện đuúng nghĩa vụ của mình, tuy nhiên họ cho
rằng qui định hiện nay chưa phù hợp và có đưa ra ý kiến của mình
như sau:
+) Đối với lao động gián tiếp: Tuổi nghỉ hưu nên qui định bằng
nhau đối với lao động nữ và lao động nam vì đây là nghành dệt
may, không đòi hỏi lao động nặng mà chỉ là đòi hỏi tính chuyên
môn cao.
+) Đối với lao động trực tiếp SX thì nên qui định tuổi nghỉ hưu
của nữ thấp hơn nam là 5 tuổi.
Tiểu luận Luật Kinh tế

Và Ban lãnh đạo công ty thì họ rất mong muốn được thực hiện
chế độ hưu trí theo ý kiến của mình đưa ra, họ nghĩ rằng đấy là độ
tuổi về hưu thích hợp với cả lao động nữ và lao động nam trong
nghành dệt may hiện nay.
*Chế độ tử tuất:
Thực hiện đúng qui định của pháp luật, 100% số người lao động
trong công ty đều được hưởng mọi trợ cấp của chế độ này như:
chế độ mai táng phí và chế độ cấp tiền tuất.Tuy nhiên dệt may là
một nghề khá nhẹ nhàng đối với lao động nữ, không có sự nguy
hiểm đến tính mạng, số người bị chết do công việc gần như là
không có.

Trên đây là tình hình thực hiện chế độ BHXH tại Công Ty Dệt
May Hà Nội mà em đã tìm hiểu. Tuy nhiên đó chỉ là một phần
nhỏ, có thể còn nhiều vấn đề mà em còn chưa tìm hiểu hết được
,nhưng với một chút hiểu biết về việc thi hành các chế độ BHXH
của của Công Ty Dệt May Hà Nội em có một số kiến nghị về giải
pháp ở phần trình bày sau.
2. Giải Pháp :
Như em nêu trên về thực trạng tình hình thi hành các chế độ
BHXH của công ty Dệt May Hà Nội cho thấy, công ty này cũng
phần nào đã thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH mà nhà nước qui
định đối với người lao động, tuy nhiên vẫn đang còn một số hạn
chế cần phải khắc phục để đảm bảo được sự an toàn cho xã hội, sự
no ấm cho người lao động, sự phồn vinh cho các công ty Dệt May
nói riêng và cho các công ty, các DN khác nói chung. Mà các hạn
chế này theo em phải có sự hợp tác từ nhiều bên thì với có thể
khắc phục được, đó là các giải pháp từ nhà nước, từ người lao
động, người sử dụng lao động, ngoài ra cũng cần có sự quan tâm
Tiểu luận Luật Kinh tế

của các cơ quan nhà nước như : các cơ quan bảo hiểm , các đơn vị
y tế….
*Kiến nghị giải pháp từ Nhà Nước :
Vì nhà nước đảm nhiệm các chức năng quản lý vĩ mô đối với
BHXH, do vậy nhà nước cần phải quan tâm nhiều hơn tới việc ban
hành các chính sách pháp luật về BHXH nhằm qui định và đều
chỉnh các mối quan hệ lớn, các vấn đề cơ bản về các ngưỡng quan
trọng của các chế độ BHXH, tổ chức và bảo hộ hệ thống BHXH
của quốc gia, thanh tra và kiểm tra nhà nước đối với các hoạt
động của hệ thống BHXH của các DNNN cũng như các DNTN.
Sớm ban hành luật BHXH và văn bản qui phạm pháp luật về công

tác BHXH tạo cơ sở pháp lý cơ bản để thực hiện công tác BHXH,
có qui định đầy đủ và chặt chẽ các chế tài xử phạt trong việc thực
hiện chính sách BHXH cho cơ quan BHXH khi phát hiện có sự vi
phạm về việc thực hiện chính sách BHXH.
Mặt khác về cơ cấu các chế độ, ngoài 5 chế độ BHXH theo nghị
định 12/CP mà chính phủ đã qui định, cần sớm nghiên cứu ban
hành thêm chế độ trợ cấp thương tật một cách rõ ràng để BHXH
đối mọi trường hợp thương tật ngoài tai nạn lao động và chế độ
BHXH đối với tường hợp mất việc làm. Vì hiện tượng nất việc
làm là một hiện tượng khách quan xảy ra nền kinh té thị trường.
*Kiến nghị giải pháp từ người sử dụng lao động :
Theo như tình hình thi hành chế độ bảo hiểm xã hội của công ty
Dệt May Hà Nội , theo em vì đây là một công ty có đa số là lao
động nữ lại là công ty có qui mô lớn do vậy, để tăng thêm phúc
lợi cho lao động nữ công ty nên tổ chức việc đưa đón công nhân
bằng xe ô tô và tổ chức các bữa ăn ca cho người lao động.
Mặt khác, do đặc điểm giới tính của lao động nữ, công ty Dệt
May nói chung và các công khác nói riêng, nên thực hiện một số
Tiểu luận Luật Kinh tế

chế độ riêng đối với lao động nữ như đáp ứng các công trình vệ
sinh, tạo cho họ có điều kiện tốt, an toàn trong quá trình làm việc.
Bên cạnh đó, công ty nên có những biện pháp từ phía các ban
lãnh đạo công ty yêu cầu có qui định làm việc nghiêm túc tránh
tình trạng không công bằng trong việc đối xử với công nhân, cần
phải có biện cứng rắn cho mọi người bất kể người đó ở chức vụ
nào để có sự nghiêm túc trong việc thi hành các chế độ BHXH nối
riêng và các cong việc nói chung khác.
*Kiến nghị giải pháp từ người lao động:
Về phía người lao động, điều trước tiên đó là phải thực hiện

nghiêm túc quyền và nghĩa vụ của mình, không được gian lận
trong trường hợp, phải trích 5% tiền lương nộp vào BHXH theo
đúng qui định của nhà nước để được hưởng một khoảm tthu nhập
trong trường hợp rủi ro xảy ra. Mặt khác, với tư cách là một bên
tham gia BHXH người lao động cần phải tìm hiểu về các qui định
của pháp luật về các chế độ BHXH để nắm được quyền lợi và
nghĩa vụ của mình, tránh trường hợp kiện cáo không lý do, có biện
pháp đòi lại quyền và lợi ích của bản thân mọi trường hợp.











Tiểu luận Luật Kinh tế




×