Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Luận văn tốt nghiệp: Tại sao phải xây dựng các công ty thành các tập đàon kinh tế lớn mạnh ? phần 2 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.91 KB, 7 trang )


8

Chủ tịch HĐQT và TGĐ đều phải ký nhận. Nh vậy, trách nhiệm thì tập thể
nhng ngời điều hành chỉ là Tổng giám đốc. HĐQT tuy có trách nhiệm giám
sát nhng vốn của các DNNN lại không thuộc quyền sở hữu của mình. Do đó,
trách nhiệm và quyền hạn của HĐQT cũng bị giới hạn. Hiện nay, giám đốc
của các doanh nghiệp thành viên chủ lực hầu hết cha tham gia HĐQT của
Tổng công ty vì muốn tách chức năng quản lý và chức năng điều hành, nhng
thực tế hai chức năng này gắn bó tới hiệu quả kinh doanh của Tổng công ty.
Có nơi HĐQT trong khi cha thực hiện tốt chức năng. Chủ yếu nh xây dựng
chiến lợc, quyết định dự án đầu t, lựa chọn cán bộ nhng lại sa vào lĩnh vực
điều hành của Tổng giám đốc. Có nơi Tổng giám đốc quyết định các vấn đề
thuộc quyền hạn của chủ tịch HĐQT. Lại có nơi chủ tịch HĐQT lại bao biện
công việc điều hành của giám đốc. Thực tế hiện nay cho thấy, nơi nào uy tín
và trình độ của chủ tịch HĐQT cao hơn thì thờng can thiệp vào hoạt động
kinh doanh, lấn quyền của giám đốc, biến HĐQT thành cơ quan chủ quản của
doanh nghiệp. Ngợc lại, nơi nào trình độ và uy tín của Tổng giám đốc cao
hơn thì vai trò của HĐQT trở lên mờ nhạt. Sở dĩ có tình trạng trên là vì quyền
hạn và trách nhiệm ở đây đợc phân công không xuất phát từ lợi ích kinh tế
mà hoàn toàn xuất phát từ năng lực quản lý hành chính.
3.2. Mối quan hệ giữa Tổng công ty với các đơn vị thành viên và giữa các
đơn vị thành viên với nhau.
* Sự dính kết hữu cơ giữa các doanh nghiệp thành viên với Tổng công
ty cha thực sự tồn tại; động lực xây dựng Tổng công ty đối với các đơn vị
thành viên bị thả nổi, không phát huy đợc sức mạnh tổng hợp của toàn Tổng
công ty.
Sau khi tham gia vào Tổng công ty, các DNNN thành viên hầu nh hạch
toán độc lập. Họ phải tự xoay sở, tự lo công ăn việc làm, tự lo lỗ, lãi, các
Tổng công ty gần nh không có vai trò gì. Đặc biệt sau khi Chính phủ ban
hành nghị định số 44/1998/NĐ - CP (ngày 29/6/98) và việc chuyển DNNN


thành Công ty cổ phần, một số doanh nghiệp trong các Tổng công ty Nhà
nớc đã đợc thí điểm tiến hành cổ phần hoá. Điều đó có nghĩa là các doanh

9

nghiệp này đã tách hoàn toàn khỏi sự kiểm soát của Tổng công ty và hoạt
động theo một luật mới: luật công ty.
Theo số liệu điều tra ở TPHCM và Hà Nội thì chỉ có khoảng 13% các
doanh nghiệp (mà đa phần là nhỏ hay hoạt động cha có hiệu quả) là cần có
Tổng công ty. Điều này cho thấy mô hình Tổng công ty chỉ có một phần tác
dụng với một số doanh nghiệp cha khẳng định đợc trên thị trờng và một số
các doanh nghiệp đặc thù. Còn phần lớn các doanh nghiệp khác thì mô hình
Tổng công ty là không cần thiết và không ít doanh nghiệp đang mong muốn
độc lập với cả Tổng công ty.
Điều này cho thấy, sự điều hành của Tổng công ty với các công ty thành
viên cha đem lại hiệu quả cao, cha hội tụ đợc các anh tài từ các công ty về
với Tổng công ty. Hiện tại có không ít ý kiến đề nghị trực tiếp hoặc gián tiếp
xem xét lại mô hình tổ chức Tổng công ty và điều lệ hoạt động của nó.
Ngoài ra, chính t tởng độc lập theo nghị định 388/HĐBT đã làm một
số đơn vị thành viên của các Tổng công ty không liên kết đợc với nhau, hoạt
động rời rạc, cha phát huy đợc sức mạnh tổng hợp của toàn Tổng công ty.
Thậm chí các doanh nghiệp thành viên còn cạnh tranh lẫn nhau, gây thiệt hại
đến lợi ích của Nhà nớc.
* Khác với các tập đoàn kinh tế của nớc ngoài, mối quan hệ giữa công
ty mẹ và công ty con là mối quan hệ mang tính hữu cơ chặt chẽ, công ty
mẹ chi phối hoạt động của công ty con bằng các quan hệ tài chính, thị
trờng, ở các Tổng công ty của Việt Nam, mối quan hệ này chỉ mang tính
hành chính, cơ học. Tổng công ty điều hành hoạt động của các doanh
nghiệp thành viên bằng các quyết định, bằng các ràng buộc về quyền lợi và
nghĩa vụ của doanh nghiệp với Tổng công ty. Điều này phản ánh một thực

trạng là, nếu Tổng công ty thực hiện vai trò của mình thì vô hình chung nó đã
biến mình thành cấp chủ quản cản trở hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp thành viên.
Sở dĩ có mâu thuẫn trên là vì các Tổng công ty Nhà nớc đợc thành lập
chủ yếu bằng con đờng hành chính tổ chức chứ không áp dụng những yếu tố
của kinh tế thị trờng. Theo cách thức này, các DNNN trong cùng một ngành

10
đợc gom góp lại và đợc tham gia vào một tổ chức gọi là Tổng công ty Nhà
nớc. Có những DNNN tham gia vào Tổng công ty không phải là tự nguyện
mà bị gò ép, họ thậm chí không có quyền quyết định vận mệnh của chính
mình. Tất cả những điều này đã không tạo ra đợc sự gắn kết cần thiết giữa
các đơn vị thành viên với Tổng công ty và do đó không phát huy đợc sức
mạnh tổng hợp của Tổng công ty.
3.3. Thiếu sự phân công, phân cấp cụ thể, rõ ràng về quản lý Nhà nớc
và thực hiện quyền chủ sở hữu Nhà nớc đối với DNNN giữa chính phủ với
Bộ quản lý ngành, Bộ chức năng và UBND cấp tỉnh, cấp huyện nên mối quan
hệ giữa Tổng công ty với các cơ quan quản lý Nhà nớc rất phức tạp, có quá
nhiều đầu mối, trách nhiệm giải quyết công việc không rõ ràng và khó xác
định trách nhiệm khi xảy ra hậu quả.
Hiện tại đại diện quyền sở hữu Nhà nớc đợc dàn trải ở nhiều cơ quan
đại diện làm nảy sinh nhiều vấn đề phiền hà cho doanh nghiệp, tạo ra nhiều sơ
hở trong cơ chế quản lý vốn và tài chính của doanh nghiệp mà hậu quả khó
lờng hết cho cả các cơ quan quản lý Nhà nớc lẫn doanh nghiệp.
3.4. Qua thực tế hoạt động có một số Tổng công ty đang đòi hỏi phải có
giải pháp tổ chức sắp xếp lại nh: Tổng công ty đá quý và vàng (Tổng công ty
91), Tổng công ty cơ khí năng lợng và mỏ (Tổng công ty 90).
3.5. Tình trạng thiếu vốn của các DNNN là phổ biến và nghiêm trọng.
Tổng công ty Nhà nớc tuy đợc u tiên các điều kiện vật chất, nguồn lực để
phát triển nhng tình hình cũng không sáng sủa hơn. Năm 1998, vốn Nhà

nớc bình quân của Tổng công ty 91 là 3661 tỉ đồng (260 triệu USD). Nhng
trong số 17 Tổng công ty 91 có tới 14 Tổng công ty (82%) có mức vốn Nhà
nớc dới mức vốn bình quân, trong đó 6 Tổng công ty (35%) có mức vốn
Nhà nớc dới 1000 tỉ đồng. Điều đó có nghĩa là chỉ có 3 Tổng công ty 91 có
vốn Nhà nớc là lớn.
Đối với Tổng công ty 90, tình hìnhh vốn còn đáng buồn hơn. Hơn 20%
số Tổng công ty 90 vốn Nhà nớc chỉ có dới 100 tỉ đồng, trong đó ở 13 Tổng
công ty vốn từ ngân sách cấp cho mỗi Tổng công ty chỉ đợc dới 40 tỉ đồng.

11
Với quy mô vốn nhỏ hẹp nh vậy, e rằng các Tổng công ty khó mà thực
hiện đợc vai trò chủ đạo trong nền kinh tế của mình.
III. Phơng hớng và giải pháp cần làm để củng cố và phát
triển các Tổng công ty.
1. Chấn chỉnh Bộ máy tổ chức của HĐQT và xử lý lại mối quan hệ
giữa chủ tịch HĐQT và Tổng giám đốc.
* Hội đồng quản trị cần đợc chấn chỉnh cả về cơ cấu tổ chức và chất
lợng hoạt động. Bài kết luận hội nghị sơ kết mô hình Tổng công ty của Phó
Thủ tớng Ngô Xuân Lộc nêu rõ chuẩn bị tốt về mặt nhân lực. Nâng cao chất
lợng hoạt động của HĐQT để đủ sức gánh vác nhiệm vụ. Chủ tịch HĐQT và
các thành viên của HĐQT phải là những ngời thuộc lĩnh vực hoạt động của
Tổng công ty, có kiến thức chuyên môn sâu rộng, am hiểu nội tình của doanh
nghiệp mà mình đang quản lý. Tham gia vào HĐQT có một số các giám đốc
của các công ty đầu đàn của Tổng công ty. Tổng giám đốc Tổng công ty Dệt -
May Việt Nam Bùi Xuân Khu nói: Mô hình HĐQT cần hết sức gọn nhẹ.
Thành viên HĐQT phải là những ngời giỏi chuyên môn, am hiểu ngành nghề
thì mới có thể xây dựng các chiến lợc, chính sách đúng đắn. Bên cạnh đó có
thể lập hội đồng cố vấn để giúp đỡ cho HĐQT.
Theo ý kiến của Thủ tớng chính phủ và của ban đổi mới quản lý doanh
nghiệp trung ơng thì trong thời gian tới nên thí điểm mô hình chủ tịch HĐQT

kiêm Tổng giám đốc Tổng công ty. Một số Tổng công ty đồng tình với giải
pháp này. Việc chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Tổng công ty là hoàn
toàn đúng ông chủ tịch HĐQT Tổng công ty xây dựng số 1 nói. Nhng cũng
có ý kiến cho rằng, chủ tịch HĐQT không nên kiêm nhiệm Tổng giám đốc.
Tổng giám đốc Tổng công ty điện lực Việt Nam Hoàng Trung Hải đề nghị:
HĐQT nên chỉ có một số ít thành viên chuyên trách nh: chủ tịch và trởng
ban kiểm soát, còn các thành viên khác nên kiêm nhiệm. Chủ nhiệm HĐQT
phải là ngời quản lý có nhiều kinh nghiệm, năng động, có khả năng quản lý,
đã kinh qua công tác lãnh đạo doanh nghiệp ít nhất 3 năm. Tổng giám đốc
không nhất thiết là thành viên HĐQT và do HĐQT chọn và đề cử để chính

12
phủ phê chuẩn. Đối với DNNN, chủ tịch HĐQT không nên kiêm nhiệm Tổng
giám đốc để thực hiện đợc các chức năng khác nhau mà không bị chồng chéo
và công tác giám sát đợc tốt hơn. Tổng giám đốc Tổng công ty hàng không
cũng nói: Đối với Tổng công ty hàng không Việt Nam đề nghị không áp
dụng mô hình chủ tịch HĐQT kiêm nhiệm Tổng giám đốc để tránh sự lẫn lộn
giữa đại diện sở hữu Nhà nớc và ngời điều hành trong Tổng công ty.
* Xét cả về phơng diện pháp lý và trên thực tế, thì vị trí, chức năng,
nhiệm vụ và quyền lực giữa HĐQT và Tổng giám đốc vẫn cha đủ rõ ràng nên
ngời ta cảm thấy Tổng công ty là một cơ thể có hai đầu vừa HĐQT vừa
Tổng giám đốc mà quyền lực của HĐQT thì cao nhất trên phơng diện quản
lý, còn Tổng giám đốc quyền lực cao nhất trên phơng diện điều hành. Thật ra
thì khó có thể tách bạch giữa quản lý và điều hành, vì có quản lý nào lại
không có điều hành và có điều hành nào lại không có quản lý? cho nên để xử
lý mối quan hệ giữa chủ tịch HĐQT và Tổng giám đốc Tổng công ty, cần
phân biệt rõ chức năng của HĐQT và nhiệm vụ của ban Tổng giám đốc trong
từng lĩnh vực cụ thể: xác định, định hớng chiến lợc phát triển, quản lý vốn,
sử dụng lao động, quản lý dự án đầu t, quản lý bổ nhiệm cán Bộ Nghiên
cua phơng thức giao vốn cho HĐQT và HĐQT giao lại vốn cho Tổng giám

đốc và các doanh nghiệp thành viên. Triển khai việc HĐQT tuyển chọn Tổng
giám đốc và ký hợp đồng theo quy định và sự hớng dẫn của chính phủ. Ký
hợp đồng là để xác định rõ cơ sở pháp lý về chức trách và quyền hạn của Tổng
giám đốc trong việc quản lý điều hành Tổng công ty theo đúng hợp đồng. Mặt
khác để khắc phục tình hình Tổng công ty có hai cơ quan đứng đầu gây khó
khăn, chồng chéo, sự phân định không rõ ràng giữa HĐQT và Tổng giám đốc
nh hiện nay. Bên cạnh đó, chính phủ cũng sẽ khẩn trơng nghiên cứu thí
điểm giải pháp tập trung quyền lực vào một chức danh là chủ tịch HĐQT kiêm
Tổng giám đốc ở một số Tổng công ty.




13
2. Xử lý mối quan hệ giữa Tổng công ty với các đơn vị thành viên và
giữa các đơn vị thành viên với nhau.
Cần phải tạo ra các liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp trong Tổng
công ty. Để làm đợc điều đó, các doanh nghiệp này cần phải đợc phân công
chuyên môn hoá trong sản xuất, cần hợp tác với nhau về công nghệ hoặc hỗ
trợ nhau về vốn. Công ty có thể liên kết dới dạng công ty mẹ, công ty con
trong đó công ty mẹ quản lý công ty con chủ yếu là quản lý vốn. Công ty mẹ
yêu cầu các công ty con phải làm ra lợi nhuận và đồng thời quản lý công ty
con về phơng hớng sản xuất theo hớng chuyên môn hoá để có sự phối hợp
đồng Bộ giữa các doanh nghiệp chứ không điều hành và thu phụ phí nh các
Tổng công ty Nhà nớc hiện nay. Về mặt kinh doanh, công ty mẹ, công ty con
là bình đẳng, quan hệ với nhau trên cơ sở hợp đồng kinh tế, hai bên đều có lợi
không ép buộc nhau. Việc quản lý và chỉ đạo công ty con hoạt động cho đúng
phơng hớng đã định là do hội đồng quản trị của công ty mẹ chỉ đạo.
Ngoài ra có thể tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp thành viên của
Tổng công ty với điều kiện Nhà nớc nắm cổ phần chi phối và Tổng công ty

đợc uỷ quyền đại diện nắm giữ. Nh vậy, các doanh nghiệp đã cổ phần hoá
vẫn nằm trong thành phần Tổng công ty trên cơ sở ràng buộc bằng mối quan
hệ tài chính, quan hệ khai thác thị trờng. Tổng công ty đợc tập trung nguồn
vốn khấu hao cơ bản, lãi sau thuế, vốn thu đợc qua quá trình cổ phần hoá
doanh nghiệp thành viên và thực hiện việc điều hoà vốn trong quá trình sản
xuất kinh doanh của toàn Tổng công ty.
3. Hoàn chỉnh đồng bộ cơ sở pháp lý quy định về quản lý Nhà nớc,
thực hiện quyền chủ sở hữu Nhà nớc đối với DNNN nói chung và các
Tổng công ty 90, 91 nói riêng.
Phơng hớng và nội dung quan trọng về sự quản lý Nhà nớc, thực hiện
quyền chủ sở hữu Nhà nớc đối với DNNN là:
- Thực hiện sự phân công, phân cấp quản lý Nhà nớc đối với DNNN về
nội dung, phạm vi, mức độ với cấp chính phủ, cấp Bộ, cấp UBND tỉnh, huyện.

14
- Phân công, phân cấp và uỷ quyền thực hiện quyền chủ sở hữu Nhà nớc
đối với DNNN cần quy định: trách nhiệm, quyền hạn cụ thể của Bộ tài chính
trong việc quản lý vốn và tài sản của Nhà nớc tại DNNN. Phạm vi, mức độ
trách nhiệm, quyền hạn của Bộ quản lý ngành hay UBND cấp tỉnh, huyện.
Mối quan hệ giữa Bộ Tài chính và Bộ quản lý ngành (hay UBND các cấp)
trong việc phối hợp thực hiện các chức năng trên. HĐQT đợc uỷ quyền thực
hiện quyền chủ sở hữu Nhà nớc đối với DNNN thế nào?
ở đây cũng cần quy định rõ các Tổng công ty 91 và 90 đều không có
khái niệm trực thuộc Thủ tớng chính phủ và về nguyên tắc Tổng công ty nào
cũng đều thuộc sự quản lý Nhà nớc của Bộ quản lý ngành kinh tế, kỹ thuật
tơng ứng. Từ đó, chính phủ sớm ban hành một nghị định về quản lý Nhà
nớc và thực hiện quyền chủ sở hữu Nhà nớc đối với DNNN.
4. Cần tiếp tục sắp xếp lại cơ cấu tổ chức các Tổng công ty và cơ cấu
các đơn vị thành viên.
a. Về cơ cấu Tổng công ty 91 và 90.

Qua thực tế gần 6 năm tổ chức và hoạt động của các Tổng công ty 91 và
90 đã cho thấy cần phải có sự đánh giá và sắp xếp lại cơ cấu tổ chức các Tổng
công ty theo vai trò, vị trí quan trọng của các ngành kinh tế và thực lực hoạt
động kinh doanh của các Tổng công ty. Ví dụ: Bộ công nghiệp đã có đề án
trình Thủ tớng chính phủ cho hợp nhất Tổng công ty Đá quý và Vàng (Tổng
công ty 91) và Tổng công ty khoáng sản (Tổng công ty 90); sáp nhập Tổng
công ty cơ khí năng lợng và mỏ (Tổng công ty 90) vào Tổng công ty Than
(Tổng công ty 91) Các Bộ, ngành và địa phơng cần thiết có sự đánh giá và
sắp xếp lại cơ cấu các Tổng công ty 91 và 90 để hoạt động có thực lực và hiệu
quả, phù hợp với tình hình thực tế hiện nay.
b. Về cơ cấu lại các đơn vị thành viên.
Hớng chủ yếu cơ cấu lại các đơn vị thành viên trong Tổng công ty là:
chuyển từ cách sắp xếp hành chính sang cách sắp xếp theo quy hoạch;
chuyển từ chỗ coi trọng giảm đầu mối là chính sang mục tiêu hiệu quả - từ

×