Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Điều trị bệnh lý hẹp khúc nối doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.17 KB, 5 trang )

Điều trị bệnh lý hẹp khúc nối

Điều trị ban đầu:
Bảo tồn chức năng thận: đặc biệt ở những bệnh nhân bị hai bên hoặc bệnh nhân
có chức năng thận còn lại kém hoặc mất chức năng:
+ Mở thận ra da/ hoặc đặt stent double J niệu quản
Giải quyết các triệu chứng nặng: Dẫn lưu thận ra da tạm thời/ Đặt thông double J
trước khi quyết định điều trị.
Điều trị thận mủ nếu có: Cấy nước tiểu – kháng sinh đồ hoặc đặt double J vói sự
chắc chắn là đủ dẫn lưu.
Điều trị phẫu thuật:
+ Mổ hở: là phương pháp được chọn đối với lứa tuổi nhi đồng bằng cách đi đường
bụng và lưng.
+ Cắt tạo hình bể thận ( Anderson – Hynes): hầu hết các ca mổ mở tỷ lệ thành
công > 90%, thích hợp cho các trường hợp chỗ xuất phát cao, các mạch máu phụ,
hay bể thận dãn do một khối chèn ép, hoặc niệu quản dài. Loại bỏ vùng bất thường
về giải phẫu và chức năng.
+ Phẫu thuật Y foley: thích hợp nhất cho các hẹp khúc nối bể thận xuất phát cao.
+ Xẻ dọc hay chéo thích hợp cho các hẹp khúc nối bể thận - niệu quản có kèm bể
thận dãn ngoài thận và hẹp niệu quản đoạn gần một khoảng dài.


+ Mở thông niệu quản và đài thận trong trường hợp có gắn bảo tồn hoặc thất bại
trong tạo hình bể thận hoặc trong trường hợp hẹp khúc nối bể thận - niệu quản
kèm thận xoay à thường việc cắt bỏ phần cực dưới thận là cần thiết.
+ Cắt thận: có thể thực hiện khi thận bệnh mất chức năng và thận còn lại chức
năng còn tốt.
Chỉ định cắt thận khi chức năng thận giảm dưới 10- 15%, bệnh lý sỏi lan rộng và/
hoặc mạn tính, đã phẫu thuật nhiều lần thất bại và chức năng thận có dấu hiệu mất
chức năng. Nội soi điều trị: Là phương pháp được chọn ở người lớn cho dù hẹp
khúc nối bể thận - niệu quản nguyên phát hay thứ phát.


+ Mở thận qua nội soi: cắt lạnh xuôi dòng bằng dao. Tỷ lệ thành công khoảng 80%
cho cả hẹp khúc nối bể thận - niệu quản nguyên phát và thứ phát. Đòi hỏi phải đi
bằng đường qua da. Ống mở thận ra da cần đặt từ 24- 48 giờ, và double J cần giữ
từ 4- 8 tuần. Phương pháp này thích ợp co những hẹp khúc nối bể thận - niệu quản
có chiều dài đoạn hẹp < 2 cm. Nó còn thích hợp cho các hẹp khúc nối bể thận -
niệu quản có kèm sỏi thận và ở trẻ em bị hẹp khúc nối bể thận - niệu quản thứ
phát.
+ Mở thận qua nội soi ngược dòng với dạo rạch có bóng (cutting balloon catheter)
– Acucise). Tỷ lệ thành công khoảng 80% cho cả nguyên và thứ phát. ống thông
mang dao này được đặt qua ngã bàng quang, việc mở thận được hước dẫn của màn
huỳnh quang. Stent double J được lấy ra từ 4- 8 tuần. Phương pháp này thích hợp
nhất cho hẹp khúc nối bể thận - niệu quản nguyên và thứ phát. Thận ứ nước từ nhẹ
đến trung bình và chiều dài đoạn hẹp < 2cm. Ứng dụng và trẻ em hạn chế do
thườngcó sự hiện diện của các mạch máu bắt chéo điều này làm tăng nguy cơ biến
chứng và làm giảm tỷ lệ thành công. thủ thuật này dòi hỏi phải có thiết bị chuyên
dùng qua nội so và nhà nội soi niệu đầy kinh nghiệm. Cho phép nhìn trực tiếp khi
rạch và đi qua da. tỷ lệ thành công trên một lượng bệnh nhân ít đạt 85- 90%, Stent
cần đặt trong 6 tuần.
+ Nong chỗ hẹp khúc nối bể thận - niệu quản bằng bóng: Bóng được đặt qua một
dây dẫn đến ngay chỗ hẹp bằng đường ngược hay xuôi dòng. Khúc nối bị xé vỡ ra
khi bơm bóng lên với áp lực cao để đạt kích thước khoảng 24- 30 Fr dưới hướng
dẫn của màn huỳnh quang. Stent niệu quản được đặt từ 6 đến 8 tuần. Tỷ lệ thành
công đạt khoảng 70- 80%, chủ yếu dùng cho các hẹp khúc nối thứ phác có chiều
dài dưới 2 cm. Phương pháp này không được áp dụng cho bế tắc hoàn toàn khúc
nối. Việc đặt stent hay mở thận ra da được dùng cho những bệnh nhân không có
chỉ định mổ. double J nên được thay định kỳ mỗi 8- 12 tuần. Điều này làm tăng
nguy cơ nhiễm trùng, hình thành sỏi, gây tổn thương thận.
+ Tạo hình bể thận qua nội soi ổ bụng: đòi hỏi phải có phương tiện và kỹ thuật
chuyên biệt. Đường chọn có thể sau phúc mạc hay qua ngã bụng. Kỹ thuật: Phẫu
thật Y-V; thuận lợi: giảm đau đớn sau mổ, thời gian hồi phục nhanh cải thiện được

khoảng cách giữa nhà phẫu thuật và nhà thẩm mỹ. Tỷ lệ thành công > 90% ( giới
hạn trong lô nghiên cứu).
Theo dõi:
1. Điều trị bảo tồn: Hẹp khúc nối bể thận - niệu quản ở trẻ sơ sinh: Siêu âm thận
xạ hình thận động sau 1 tháng, theo dõi vào thời điểm 3- 6 tháng. Phẫu thuật can
thiệp nếu cần: khi có triệu chứng, chức năng thận giảm > 10% và tình trạng ứ
nước thận càng tệ hơn.
2. Điều trị phẫu thuật: Chụp niệu ký nội tĩnh mạch ( IVP) hoặc xạ hình thận
động sau mổ 6 tuần và 3 tháng. có 91% có cải thiện trên xạ hình thận động ở thời
điểm 6 và 12 tháng. Sự cải thiện ở người lớn trên 30 tuổi ở xạ hình thận động thì
hiếm. chụp IVP thường thấy thận bớt ứ nước và thận bắc đầu tiết thuốc. Chụp IVP
và xạ hình thận động nên được làm mỗi năm để đánh giá việc mở bể thận: 10-
13% thất bại muộn.

×