Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Ứng dụng nghiên cứu quan hệ kinh tế vào thị trường tại Việt nam phần 4 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.72 KB, 8 trang )


25

mà C.Mac đã dự đoán. Đây là một hình thức phân phối quá độ, nó
phù hợp với xu hớng phát triển của xã hội. Hình thức phân phối
này là sự bổ sung cần thiết và quan trọng đối với nguyên tắc phân
phối theo lao động. Nó thích hợp nhất với việc thoả mãn những
nhu cầu công cộng của xã hội. Nó có lợi trớc hết cho những gia
đình có thù lao lao động tơng đối thấp. Nó chẵng những bảo đảm
cho các thành viên xã hội có mức sống bình thờng tối thiểu mà
còn có tác dụng kích thích lao động sản xuất, kích thích sự phát
triển toàn diện của mọi thành viên xã hội.
Bằng những tác dụng to lớn của hình thức phân phối này nó
khẳng điịnh việc xây dựng các quỹ phúc lợi xã hội là việc làm cần
thiết và ngày càng có ý nghĩa to lớn. Đảng ta rất coi trọng việc mở
rộng dần các sự nghiệp phúc lợi xã hội với hai mục tiêu lớn, đó là:
Coi mục tiêu và động lực chính cho sự phát triển xã hội là vì con
ngời, do con ngời, đặt con ngời vào vị trí trung tâm của các
chính sách và chơng trình phát triển xã hội. Khơi dậy mọi tiềm
năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể và cả cộng đồng coi trọng lợi
ích cá nhân ngời lao động, xem đó là động lực trực tiếp để phát
triển kinh tế xã hội. Thêm vào đó nó đảm bảo sự thống nhất giữa
chính sách kinh tế và chính sách xã hội. Bởi phát triển kinh tế là
điều kiện thực hiện chính sách xã hội, nhng chính sách xã hội lại

26

là sự cụ thể hoá mục đích của các hoạt động kinh tế, do đó cần
phải kết hợp tốt mọi hình thức nhằm đảm bảo việc phân phối có
hiệu quả bằng cách huy động mọi khả năng của nhà nớc và nhân
dân, trung ơng và từng địa phơng cùng làm.


Nh vậy việc thực hiện cả ba hình thức phân phối cơ bản là
cần thiết và tất yếu để thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa hiện
đại hoá. Nếu nh phân phối theo lao động đợc xem là giữ vai trò
chủ đạo, thì phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ
phúc lợi xã hội ngày càng trở nên quan trọng trong quá trình phát
triển xã hội và phân phối theo tài sản hay vốn và những đóng góp
khác cũng càng trở nên quan trọng hơn trong thời kỳ đổi mới và
hội nhập quốc tế.
Chơng 2
Thực trạng về quan hệ phân phối ở nớc ta
hiện nay và một số biện pháp nhằm hoàn thiện
quan hệ phân phối ở nớc ta trong thời gian
tới.

27

2.1 Thực trạng của quan hệ phân phối ở nớc
ta trong thời gian qua.
2.1.1 Quan hệ phân phối trong thời kỳ đổi mới cơ
chế quản lý nền kinh tế cùng những định hớng
tiến bộ.
Mỗi hình thái kinh tế xã hội sẽ quyết định các hình thức sở
hữu khác nhau đồng thời cũng quy định những hình thức phân phối
nhất định. Thông qua phân phối trong nền kinh tế thị trờng định
hớng XHCN, ở nớc ta đã hình thành các hình thức thu nhập khác
nhau của các tầng lớp dân c. Đồng thời nó cũng phản ánh thành
quả của từng cá nhân cũng nh của toàn xã hội đã đạt đợc và các
hình thức thu nhập thờng đi liền với các hình thức phân phối. Với
một nền kinh tế đang vận hành theo một quỹ đạo đã định, theo xu
hớng mở rộng hội nhập đa phơng hoá, đa dạng hoá những mối

quan hệ, thì vấn đề phân phối thu nhập nh thế nào để nó vừa là
động lực cho phát triển kinh tế xã hội, và đảm bảo tính công bằng
xã hội. Chínhvì vậy, nó đang đòi hỏi phải có những chính sách hợp
lý và đang là một thách thức to lớn đối với đảng và nhà nớc ta.

28

Trớc tiên ta cần xem xét vai trò của nó duới các phơng
diện khác nhau bởi phân phối thu nhập có ảnh hởng to lớn đối với
sản xuất. Mac đã từng nói tới vai trò của phân phối đói với sản
xuất, trên phơng diện phân phối trực tiếp các yếu tố cho quá trình
sản xuất, nó nối liền sản xuất với sản xuất. Điều đó có nghĩa là nó
đảm bảo các yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp, đảm bảo các nguồn
lực cho sản xuất kinh doanh để cung cấp hàng hoá trên thị trờng
sản phẩm. Sự phân phối các nguồn lực diễn ra thông suốt sẽ đảm
bảo quă trình tái sản xuất đợc tiến hành một cách liên tục.
Mặt khác, phân phối thu nhập quyết định tiêu dùng của các
chủ thể yếu tố sản xuất. Thông qua phân phối thu nhập các chủ thể
yếu tố sản xuất có đợc thu nhập để mua hàng tiêu dùng và dịch vụ
trên thị trừng hàng tiêu dùng hàng hoá và dich vụ. Về cơ bản quy
mô của phân phối quyết định quy mô của tiêu dùng. Các chủ thể
nhận đợc thu nhập nhiều thì mức tăng tiêu dùng sẽ càng cao hơn
về tuyệt đối.
Kể từ sau đại hội Đảng VI năm 1986 chúng ta đã từng bớc
xáo bỏ cơ chế bình quân bao cấp, thực hiện chế độ phân phối theo
nguyên tắc thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo
kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân

29


phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản
xuất kinh doanh và phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội đi
đối với chính sách điều tiết hợp lý nhằm bảo hộ quyền lợi ngời
lao động. Nguyên tắc phân phối theo lao động đã phát huy tác
dụng trong khu vực kinh tế quốc doanh và tập thể. Trong các
doanh nghiệp nhà nớc và các tổ chức kinh tế thuộc sở hữu của
nhà nớc phân phối theo lao động động biểu hiện dới hình thức
tiền lơng còn các doanh nghiệp thuộc sở hữu tập thể thì dới hình
thức tiền công lao động. Bên cạnh đó còn tồn tại các hình thức thu
nhập khác nh lợi tức, lợi tức cổ phần và thu nhập từ các quỹ tiêu
dùng công cộng.
Trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý từ tập trung bao
cấp sang kinh tế thị trờng chúng ta thừa nhận sức lao động là
hàng hoá, nó có thể đợc đem bán trên thị trờng các yếu tố sản
xuất. Và một khi sức lao động trở thành hàng hoá thì ngời có sức
lao động hoàn toàn có quyền tự do bán sức lao động của mình theo
những hợp đồng lao động nhất định và khi đó các chủ doanh
nghiệp sử dụng lao động phải trả công cho họ theo đúng những hợp
đồng đã ký, nhà nớc chỉ đợc phép bảo vệ khi có sự vi phạm luật
đối với ngời lao động. Sau quá trình làm cho các chủ doanh
nghiệp hoặc các tổ chức kinh tế quốc doanh, ngời lao động thu

30

đợc thu nhập gắn với kết quả lao động của họ. Về nguyên tắc
khoản thu nhập đó phải tơng xứng với số lợng lao động và chất
lợng lao động mà mỗi ngời đóng góp. Số thu nhập theo lao động
đó chính là tiền lơng hay tiền lơng chính là hình thức thu nhập
theo lao động.
Cùng với cơ chế thị trờng định hớng XHCN thì tiền

lơng là một phạm trù kinh tế, là biểu hiện của bộ phận cơ bản cần
thiết đợc tạo ra trong doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế quốc
doanh để đi vào tiêu dùng cá nhân của ngời lao động, tơng ứng
vơúi số lợng lao động và chất lợng lao động mà họ đã hao phí
trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Trong cơ cấu tiền lơng bao gồm hai phần: tiền lơng cơ
bản và tiền lơng bổ sung (tiền thởng) trong đó tiền lơng cơ bản
phụ thuộc vào thang lơng, bậc lơng của từng đối tợng, phần
tiền thởng phụ thuộc vào kết quả hoạt động của đơn vị. Việc xác
định hợp lý và chính xác các bậc lơng, ngạch lơng theo từng
ngành và kheo từng khu vực có tính đến trình độ chuyên môn và
điều kiện lao động có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Điieù đó thúc đẩy
ngời lao động quan tâm hơn nữa tới việc hoàn thành công việc
đợc giao, và không ngừng học hỏi nâng cao trình độ tay nghề vì

31

chính lợi ích của bản thân, đồng thời góp phần nâng cao trình độ
lực lợng của toàn xã hội.
Trong quá trình sử dụng tiền lơng đợc phân biệt thành
tiền lơng danh nghĩa và tiền lơng thực tế. Nếu tiền lơng danh
nghĩa là tiền lơng mà ngời lao động nhận đợc dới hình thức
tiền tệ còn tiền lơng thực tế đợc biểu hiệ bằng số liệu t liệu sinh
hoạt và ngời lao động đợc sử dụng. Mức tiền lơng thực tế chỉ rõ
số lợng vật phẩm tiêu dùng và dịch vụ mà ngời lao động có thể
mua đợc bằng tiền lơng danh nghĩa của mình. Sự biến động của
tiền lơng thực tế chịu ảnh hởng của nhiều nhân tố nh: việc tăng
giá cả của hàng hoá, tăng thuế, tăng chi phí vận chuyển những
nhân tố này sẽ hạ thấp giá trị của tiền lơng thực tế. Chính vì vậy
mà trong thời gian vừa qua nhà nớc ta đã chú trọng tới việc tăng

các mức lơng tối thiểu, tăng trợ cấp hu trí tăng các khoản phụ
cấp và các khoản thu nhập bằng tiền khác cho ngời lao động để
giá trị của tiền lơng thực tế không bị giảm dần theo thời gian.
Việc tăng tiền lơng đợc thể hiện trên cơ sở không ngừng phát
triển sản xuất, đảm bảo công ăn việc làm đầy đủ.
Trong cơ chế thị trờng định hớng XHCN thì vai trò của
nhà nớc là vô cùng quan trọng, cụ thể nhà nớc trực tiếp định

32

mức kao động, trực tiếp định mức tiềm lơng, duyệt quỹ tiền
lơng, quy định thang lơng, bảng lơng, bậc lơng cụ thể cho các
doanh nghiệp nhà nớc (chiếm đa số trong nền kinh tế quốc dân)
phải thực hiện. Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp t nhân tiền
lơng là chỉ số đánh giá hiệu quả của sản xuất kinh doanh, cùng
nhiều chỉ tiêu khác, nhà nớc chi khống chế tiền lơng tối thiểu
không khống chế tiền lơng tối đa. Chính sách tiền lơng đợc coi
là một bộ phận quan trọng trong hệ thống các chính sách kinh tế xã
hội, tác động trực tiếp đến đời sống của những ngời làm công ăn
lơng, đến đời sống của những ngời dân trong xã hội. Đồng thời
chính sách tiền lơng còn ảnh hởng sâu sắc đến sản xuất, đến mối
quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, đến quan hệ giữa các tầng lớp
lao động, giữa các ngành nghề, các khu vực, đến động lực tăng
trởng và phát triển kinh tế, đến năng suất và hiệu quả công tác,
đến vấn đề ổn định chế độ chính trị xã hội. Chính vì lẽ đó nhà nớc
ta luôn luôn quan tâm đến cải cách và hoàn thiện chế độ tiền lơng
để làm sao vừa đảm bảo công bằng vừa là động lực để các thành
viên trong xã hội không ngừng nâng cao chất lợng cuộc sống.
Trong nền kinh tế trị trờng, các nhà sản xuất kinh doanh
ngoài phần thu nhập tiền lơng, còn khoản thu nhập khác đó là lợi

nhuận và phần này ngày càng tăng lên và chiếm u thế trong tổng

×