VĐ 6. QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP VÀ QUYỀN ĐỐI VỚI GIỐNG CÂY TRỒNG.
I. Quyền sở hữu CN:
1. Khái niệm
Quyền SHCN là các quyền hợp pháp của con người đối với các đối tượng mang tính CN (sáng chế, giải
pháp hữu ích…) hoặc những dấu hiệu phân biệt mang tính thương mại do trí tuệ con người tạo ra và được nhà nước
bảo hộ trong một thời gian nhất định.
2. Đặc điểm:
- Quyền SHCN mang tính lãnh thổ tuyệt đối hơn so với quyền tác giả. Thể hiện:
+ Quyền SHCN chỉ phát sinh khi được cơ quan có thẩm quyền của nhà nước cấp văn bằng bảo hộ (trừ t/h
ngoại lệ như bí mật kinh doanh…)
+ Văn bẳng bảo hộ chỉ có hiệu lực trên lãnh thổ mà nhà nước đó cấp.
3. Phân biệt quyền tác giả với quyền SHCN: (mọi ng tham khảo nhé, vì tớ phân biệt dựa trên giá trình luật
sở hữu trí tuệ đấy)
Quyền tác giả Quyền SHCN
Đối
tượng
Các tác phẩm văn học, nghệ thuật,
khoa học.
Các tài sản trí tuệ, luôn gắn liền với hoạt
động sx k.doanh mang tính hữu ích hay khả năng
ứng dụng cao
Phạm
vi áp dụng
Chủ yếu đc áp dụng trg các hoạt
động giải trí, tinh thần
Sử dụng trg các hoạt động sản xuất, kinh
doanh thương mại
ĐK đc
bảo hộ
Đc bảo hộ ko phụ thuộc vào giá
trị nội dung và giá trị nghệ thuật
Phải đáp ứng những tiêu chuẩn bảo hộ nhất
định (phải có tính mới, tính sáng tạo…)
Tính
lãnh thổ
Rõ ràng và tuyệt đối Mang tính tuyệt đối hơn
Hình
thức xác lập
quyền sở hữu
Hành vi tạo ra tác phẩm của tác
giả, ko phụ thuộc vào thể thức, thủ tục
nào
Đc xác định dựa trên quyết định của cqnn có
thẩm quyền thông qua việc xét và cấp văn bằng bảo
hộ cho chủ sỏ hữu các đối tượng đó
Thời
hạn bảo hộ
Dài hơn ( do thời gian tồn tại của
một tác phẩm là rất dài nên cần bảo hộ
thời gian dài để đảm bảo hơn quyền lợi
của tác giả).
Ngắn hơn, vì các đối tượng của QSHCN là
các yếu tố khoa học kỹ thuật nếu thời hạn dài sẽ dẫn
đến độc quyền công nghệ đó. Ngoài ra còn ảnh
hưởng đến giá cả và lợi ích công chúng. Bên cạnh
đó, các khoa học công nghệ thường có thời gian tồn
tại ngắn do khoa học kỹ thuật luôn có sự sáng tạo,
phát triển mới hơn nên nếu vẫn cứ bảo hộ sẽ ko phù
hợp với tương lai.
Quyền tác giả ko dc bảo hộ một
cách tuyệt đối, cá nhân tổ chức khác vẫn
có quyền sử dụng các tác phẩm nêu việc
sử dụng ko nhằm mục đích kinh doanh…
Mang tính tuyệt đối hơn, chỉ đc sử dụng khi
đc sự đồng ý và chỉ đc sử dụng trg những t/h PLQĐ
vì mục đích đáp ứng nhu cầu quốc phòng an ninh,
phòng bệnh, chữa bệnh, dinh dưỡng cho nhân dân
hoặc các nhu cầu cấp thiết khác của xã hội.
1
II. Phương thức để bảo hộ quốc tế quyền sở hữu CN:
- Bảo hộ thông qua ĐƯQT đa phương.
- Bảo hộ thông qua ĐƯQT song phương.
- Bảo hộ thông qua việc các quốc gia cùng chấp nhận nguyên tắc có đi có lại.
1. Công ước Pari 1883:
Là một trong những công ước quốc tế đa phương quan trọng về SHCN. CƯ được ký kết ngày 20/3/1983
với sự tham gia của 11 nước, đến ngày 19/5/2005 số lượng thành viên là 169. VN tham gia năm 1981 (có tài liệu
ghi là năm 1949)
* Mục đích:
Xây dựng các đkiện có lợi cho việc cấp văn bằn bảo hộ cho chủ sở hữu CN là công dân, pháp nhân của
nước này ở nước khác thuộc thành viên công ước trên cơ sở tôn trọng luật SHTT của nước thành viên.
* Ý nghĩa:
Công ước mang tính nền tảng cho sự ra đời của các điều ước quốc tế điều chỉnh việc bảo hộ từng đối tượng
riêng biệt (như thoả ước Madrid về đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, Công ước Lahay về đăng ký kiểu dáng công
nghiệp, Hiệp ước hợp tác trong lĩnh vực cung cấp văn bằng bảo hộ sáng chế… đều được ký kết trong khuôn khổ
của công ước Paris).
* Đối tượng quyền SHCN:
Các đối tượng sở hữu công nghiệp được công ước bảo hộ theo công ước Pari đc hiểu theo 2 nghĩa:
- Nghĩa rộng: QSHCN ko chỉ áp dụng cho CN và TM mà còn áp dụng cho cả ngành san xuất nông nghiệp,
CN khai thác và tất cả các sản phẩm chế biến hoặc sản phẩm tự nhiên như rượu, ngũ cốc, thuốc lá, hoa quả, gia
súc, khoáng sản, nước khoảng.
- Nghĩa hẹp: QSHCN bao gồm sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá,
nhãn hiệu dịch vụ, tên thương mại, chỉ dẫn nguồn gốc hoặc tên gọi xuất xứ hàng hóa, quyền chống cạnh tranh lành
mạnh.
* Nguyên tắc bảo hộ:
- Nguyên tắc “đãi ngộ như công dân” là một trong những nguyên tắc cơ bản mà Công ước áp dụng trong
việc điều chỉnh các quan hệ về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Theo đó, khi tham gia Công ước công dân của
bất kỳ các thành viên nào của công ước cũng đều được hưởng sự bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp giống như công
dân của nước sở tại. Ngay cả những công dân của các quốc gia không phải là thành viên của công ước Paris hay là
những doanh nghiệp thực sự quan trọng ở đó, thì cũng nhận được sự bảo hộ của công ước theo nguyên tắc này.
- Nguyên tắc “quyền ưu tiên“: Một người nộp đơn yêu cầu bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nộp đơn đầu
tiên của mình ở một nước thành viên của công ước thì trong thời hạn nhất định sau ngày nộp đơn đầu tiên (12
tháng đối với sáng chế và giải pháp hữu ích, 6 tháng đối với kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu hàng hoá), người
đó có thể nộp đơn yêu cầu bảo hộ ở bất kỳ nước thành viên nào và những đơn nộp sau sẽ được tính cùng ngày nộp
đơn của đơn đầu tiên. Tuy nhiên, để dược hưởng quyền ưu tiên, người nộp đơn phải ghi rõ ngày nộp đơn, nước
nhận đơn thứ nhất, các nước thành viên có thể yêu cầu người nộp đơn phải nộp các bản sao mô tả bản vẽ của đơn
thứ nhất để làm bằng chứng cho việc hưởng quyền ưu tiên của mình.
- Bên cạnh đó, Công ước PARIS còn quy định cả quyền ưu tiên về triển lãm: Các sáng chế, giải pháp hữu
ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá có khả năng được bảo hộ tạm thời tại các cuộc triển lãm quốc tế
chính thức hoặc các cuộc triển lãm được công nhận là chính thức tổ chức tại một trong số các nước thành viên.
2
Điều đó cho phép một đối tượng sở hữu công nghiệp tham gia triển lãm tại hội chợ th́ì được lấy ngày bắt đầu trưng
bày hàng hóa tại triểm lãm làm ngày được hưởng quyền ưu tiên với thời hạn không quá 6 tháng.
* Quy định tiêu chuẩn bảo hộ, đkiện đăng ký và chuyển giao quyền sử dụng đối với các đối tượng của
quyền SHCN:
Để nâng cao hiệu quả bảo hộ, Công ước Paris đã có những quyết định điều chỉnh việc bảo hộ các đối tượng
sở hữu công nghiệp một cách cơ bản nhất.
- Đối với patent quy định về vấn đề nhập khẩu đối tượng, quyền đưa ra các biện pháp pháp lý quy định việc
cấp Licence không tự nguyện nhằm ngăn chặn việc lạm dụng việc độc quyền của các nước thành viên.
- Kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ tại tất cả các nước thành viên của Liên hiệp và sẽ không thể bị đình
chỉ trong bất kỳ hoàn cảnh nào cho dù có vì lý do không sử dụng hoặc vì lý do nhập khẩu các đối tượng tương tự
với các đối tượng đang được bảo hộ.
- Các quy định trong việc đăng ký, chuyển giao, bảo hộ ở các nước thành viên, về những công cụ bảo vệ và
quyền yêu cầu toà án xét xử đối với các loại nhãn hiệu (nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể,
…) cùng với các loại đối tượng khác.
* quy định về vấn đề hiệu lực:
Ngoài việc quy định một số điều khoản bắt buộc mà các nước thành viên đểu phải tuân thủ, với nguyên tắc
tôn trọng sự độc lập của pháp luật các quốc gia thành viên về lĩnh vực bảo hộ sở hữu công nghiệp, công ước Paris
cho phép các nước thành viên được quyền xây dựng và áp dụng pháp luật sở hữu công nghiệp của mình, cũng như
ký kết những Hiệp ước với nhau về sở hữu công nghiệp nhưng không được trái với các điều khoản trong công ước
Paris.
2. Chú ý: Quyền ưu tiên theo CƯ Pari, VD:
* Khái niệm
Quyền ưu tiên là quyền của nqười nộp đơn trên cơ sở một đơn hợp lệ lần đầu tiên đã được nộp tại một quốc
gia khác là thành viên điều ước quốc tế có quy định về quyền ưu tiên (sau đây gọi là quốc gia thành viên), trong
một thời hạn nhất định người nộp đơn có thể nộp đơn yêu cầu bảo hộ đối tượng sở hữu trí tuệ đó tại một quốc gia
thành viên khác và đơn nộp sau đó được coi như nộp cùng ngày với đơn nộp đầu tiên. Nói cách khác, những đơn
nộp sau sẽ có quyền ưu tiên đối với các đơn có thể đã được người khác nộp trong khoảng thời gian ưu tiên nói trên
chi chính đối tượng sở hữu trí tuệ đó.
Quyền ưu tiên là một nội dung quan trọng của Công ước Pari và có nghĩa là trên cơ sở đơn yêu cầu thông
thường đầu tiên được gởi đến quốc gia thành viên Công ước, người yêu cầu có thể yêu cầu bảo vệ tại bất cứ quốc
gia thành viên Công ước nào (12 tháng đối với sáng chế và giải pháp hữu ích; 6 tháng đối với kiểu dáng công
nghiệp và nhãn hiệu); những đơn yêu cầu muộn hơn sẽ được xem như được gởi cùng ngày với đơn yêu cầu đầu
tiên. Tức là những đơn yêu cầu muộn hơn này sẽ được ưu tiên (như vậy gọi là -quyền ưu tiên") so với các đơn yêu
cầu khác về cùng một sáng chế, giải pháp hữu ích, nhãn hiệu hoặc kiểu dáng công nghiệp do những người khác gởi
đến trong thời hạn nói trên. Như vậy, một người không cần phải gởi đơn yêu cầu cùng một lúc đến nhiều nước mà
có 6 tháng hoặc 12 tháng tùy thuộc vào ý muốn của mình để quyết định những nước mà người đó muốn có sự bảo
vệ và chuẩn bị cẩn thận những bước cần thiết phải tiến hành để đảm bảo cho yêu cầu bảo vệ.
Ví dụ: Ngày 02/02/2004 một công dân Việt Nam nộp đơn đăng ký bảo hộ một KDCN là X' tại Cục sở hữu
trí tuệ Việt Nam. Ngày 02/05/2004 một công dân Pháp cũng nộp đơn đăng ký chính đối tượng X' đó tại cơ quan sở
3
hữu trí tuệ của Pháp. Ngày 05/05/2004 công dân Việt Nam đó mới nộp đơn đăng ký bảo hộ đối tượng này tại Pháp.
Theo nguyên tắc nộp đơn đầu tiên thì đơn của công dân Pháp nộp ở Pháp sẽ hợp lệ (vì đơn nộp sớm hơn tại Pháp).
Tuy nhiên trong trường hợp này công dân Việt Nam có thể xin hưởng quyền ưu tiên trên cơ sở đơn đơn đã nộp
sớm hơn tại Việt Nam (nộp ngày 02/02/2004). Do đó đơn của công dân Việt Nam nộp ở Pháp sẽ được tính là ngày
02/02/2004.
* Ý nghĩa của quyền ưu tiên:
+ Việc quy định quyền ưu tiên mang lại lợi ích thiết thực cho người nộp đơn khi đơn này muốn đạt được sự
bảo hộ của nhiều quốc gia khác nhau, họ không phải nộp đồng thời tất cả các đơn tại nước xuất xứ và các nước
khác nhau mà có thời hạn nhất định để xem xét lựa chọn việc nộp đơn yêu cầu bảo hộ tại quốc gia nào thiết thực
nhất vì các đơn nộp sau này sẽ có ngày ưu tiên là ngày nộp đơn đầu tiên.
+ Nó ngăn chặn hữu hiệu người khác lợi dụng đăng ký đối tượng đó tại các quốc gia khác khi người nộp
đơn chưa kịp làm việc này.
+ Tránh được tình trạng người nộp đơn phải nộp nhiều đơn khác nhau tại một thời điểm.
* Nội dung của quyền ưu tiên.
- Các đối tượng sở hữu trí tuệ được hưởng quyền ưu tiênTheo quy định của công ước Paris bao gồm:
Sáng chế, Mẫu hữu ích (còn gọi là Giải pháp hữu ích), KDCN, Nhãn hiệu
- Quyền ưu tiên có này không được giành cho các đối tượng của quyền tác giả và quyền liên quan vì:
Theo quy định chung của hầu hết các hệ thống pháp luật trên thế giới, các đối tượng bảo hộ của quyền tác giả (gồm
tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học) và quyền liên quan (cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình
phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa) được bảo hộ từ thời điểm chúng được định hình dưới
một hình thức vật chất nhất định mà không cần đăng ký bảo hộ, không phụ thuộc vào việc có đăng ký đối tượng đó
hay không nên việc quy định quyền yêu tiên trong việc đăng ký là không cần thiết.
- Cần xác định quyền ưu tiên trg SHCN vì: quyền Sở hữu đối với một số đối tượng sở hữu trí tuệ khác như
Sáng chế, KDCN, Nhãn hiệu, Giống cây trồng mới chỉ phát sinh trên cơ sở việc đăng ký đối tượng này tại cơ quan
Sở hữu trí tuệ. Hơn nữa, do tính chất giới hạn của việc đăng ký các đối tượng này chỉ có hiệu lực trong phạm vi
lãnh thổ quốc gia nhất định nên cần có một cơ chế ghi nhận quyền yêu tiên cho người nộp đơn trước tại một quốc
gia khác.
* Điều kiện để được hưởng quyền ưu tiên: Để được hưởng quyền ưu tiên người nộp đơn phải đáp ứng
được các điều kiện sau đây: 3ĐK
- có đơn nộp sớm hơn tại một/các nước là thành viên của điều ước quốc tế có quy định về quyền ưu tiên;
- Đơn xin hưởng quyền ưu tiên phải đề cập đến cùng một đối tượng như trong đơn đầu tiên;
- Đối tượng hưởng quyền ưu tiên phải là Sáng chế, Mẫu hữu ích, Kiểu dáng công nghiệp, Nhãn hiệu. Tuy
nhiên, trong Khoản E, Điều 4 Công ước Paris cũng có quy định rằng "(1) Nếu một đơn KDCN nộp tại một nước
với yêu cầu hưởng quyền ưu tiên trên cơ sở một mẫu hữu ích, thời hạn hưởng quyền ưu tiên sẽ là thời hạn cho
KDCN (2) có thể cho phép nộp một đơn mẫu hữu ích tại một nước với yêu cầu hưởng quyền yêu tiên trên cơ sở
một đơn sáng chế và nguợc lại". Có thể xảy ra trường hợp cùng một Giải pháp kỹ thuật nêu trong đơn xin bảo hộ
tại nhiều quốc gia khác nhau nhưng mỗi nước có thể bảo hộ các đối tượng này theo cơ chế khác nhau do tính tương
tự giữa chúng, điều này phụ thuộc vào pháp luật của mỗi nước. Để khắc phục điều này, Công ước Paris đã dự liệu
trường hợp người nộp đơn có thể hưởng quyền ưu tiên của KDCN trên cơ sở một đơn yêu cầu bảo hộ một mẫu hữu
4
ích nộp sớm hơn tại một quốc gia khác hay đơn sáng chế trên cơ sở mẫu hữu ích và ngược lại. Cùng với đó người
nộp đơn được hưởng quyền ưu tiên từ nhiều đơn cũng như từ một phần của đơn nộp trước "Nếu kết quả xét nghiệm
khẳng định đơn sáng chế bao gồm nhiều sáng chế, người nộp đơn có thể tách đơn thành một số lượng nhất định các
đơn riêng và giữ ngày nộp đơn ban đầu là ngày nộp đơn của mỗi đơn đó và giữ nguyên quyền ưu tiên nếu
có người nộp đơn cũng có thể tự mình chủ động tách đơn sáng chế và giữ nguyên ngày nộp đơn ban đầu của mỗi
đơn mới tách và giữ nguyên quyền ưu tiên. nếu có". (Điểm G, Điều 4, Công ước Paris).
* Thời hạn hưởng quyền ưu tiên và các trường hợp không được hưởng quyền ưu tiên .
- Đối với từng đối tượng khác nhau, thời hạn để người nộp đơn hưởng quyền ưu tiên cũng khác nhau.
+ Thời hạn hưởng quyền ưu tiên đối với Sáng chế và Mẫu hữu ích là 12 tháng, kể từ ngày nộp đơn đầu tiên
+ đối với KDCN và Nhãn hiệu thì thời hạn này là 06 tháng, kể từ ngày nộp đơn đầu tiên, ngày nộp đơn đầu
tiên không tính vào thời hạn.
Những quy định này không chỉ áp dụng trong phạm vi đăng ký vào một quốc gia mà cả khi đăng ký quốc
tế, các đơn này vẫn được hưởng quyền này. Điều này giúp cho người nộp đơn chỉ phải nộp lệ phí xin hưởng quyền
yêu tiên ở một cơ quan quốc tế duy nhất thay vì phải nộp lệ phí đó ở tất cả các quốc gia đăng ký có yêu cầu xin
hưởng quyền ưu tiên và mức lệ phí cũng sẽ tiết kiệm hơn.
- T/h ko đc hưởng quyền ưu tiên:
" Nếu tại thời điểm nộp đơn sau, đơn nộp trước nói trên đã được rút bỏ, không được xem xét tiếp hoặc bị
từ chối nhưng chưa đưa ra xét nghiệm công chúng và không để lại bất cứ quyền nào chưa giải quyết, và nếu chưa
phải là cơ sở để hưởng quyền yêu tiên. Lúc đó, đơn nộp trước sẽ không được dùng làm cơ sở để hưởng quyền ưu
tiên" (Điểm 4, Khoản C, Công ước Paris).
Quy định này nhằm hạn chế những người nộp đơn trước lợi dụng điều này để xin hưởng
quyền ưu tiên một cách không hợp lý khi đơn đã rút bỏ hoặc bị từ chối chính thức
* Quy định về Quyền ưu tiên trong hệ thống pháp luật Việt Nam (tham khảo thui, ko cần học đâu,
hihi
Tại Bộ luật Dân sự năm 1995, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, Nghị định 63/NĐ - CP của Chính phủ quy
định chi tiết về Sở hữu công nghiệp, Thông tư 29/2003/TT-BKHCN và Thông tư 30/2003/TT-BKHCN của Bộ
khoa học Công nghệ đã có ghi nhận quyền ưu tiên đối với người nộp đơn. Theo quy định trong Luật Sở hữu
trí tuệ thì đối tượng sở hữu trí tuệ được hưởng quyền ưu tiên gồm có: Sáng chế, KDCN, Nhãn hiệu (Điều 91)
và Giống cây trồng mới (Điều 167). Để được hưởng quyền ưu tiên, người nộp đơn phải đáp ứng được các điều
kiện sau đây:
(i) Có một đơn đầu tiên đã được nộp tại Việt Nam hoặc tại nước nước là thành viên điều ước quốc tế
mà việt nam là thành viên hoặc nước có thoả thuận áp dụng quy định như vậy đối với Việt Nam.
(ii) (ii) Người yêu cầu hưởng quyền ưu tiên là công dân Việt Nam hoặc công dân của nước khác tại điểm (i)
trên đây hoặc có cơ sở sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam hoặc tại các nước quy định tại điểm (i) trên đây;
(iii) (iii) Đơn xin hưởng quyền ưu tiên phải đề cập đến cùng một đối tượng như trong đơn đầu tiên
(iv) (iv) Đơn xin hưởng quyền ưu tiên phải nộp trong thời hạn được hưởng quyền ưu tiên và các giấy tờ tài liệu
và lệ phí hưởng quyền ưu tiên.
Trước đây, trong Nghị định 63/CP chúng ta còn quy định: "Người nộp đơn có thể yêu cầu hưởng
quyền ưu tiên trên cơ sở một đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ với cùng một đối tượng được nộp sớm hơn tại
một nước khác hoặc trên cơ sở trưng bày đối tượng nêu trên tại một triển lãm quốc tế chính thức " (Điều 17).
5
Ngày trưng bày đối tượng tại triển lãm được coi như là ngày nộp đơn đầu tiên. Quy định này nhằm bảo vệ việc
sao chép nhất là đối với Sáng chế, KDCN khi chúng được giới thiệu công khai tới công chúng. Tuy nhiên trong
Luật sở hữu trí tuệ, quy định về việc hưởng quyền yêu tiên trên cơ sở trưng bày tại triển lãm đã được loại bỏ.
Về mặt thực tế, quyền ưu tiên là một lợi thế không thể phủ nhận của những người đã có đơn nộp sớm hơn,
nhưng nó sẽ đồng nghĩa với việc người nộp đơn sẽ sớm phải bộc lộ nội dung đơn của mình (vì thời hạn nộp
đơn sau tính từ ngày nộp đơn đầu tiên) dẫn đến việc các đối thủ cạnh tranh có thể dễ dàng tiếp cận đến đối
tượng. Vì vậy, Khoản 6, Điều 17 NĐ 63/ ND - CP có quy định: "Người nộp đơn có thể rút yêu cầu quyền yêu
tiên để trì hoãn việc công bố đơn cấp Văn bằng bảo hộ".
Nếu so sánh các quy định của pháp luật của nước ta với các điều ước quốc tế trong lĩnh vực này ta thấy: về
cơ bản các quy định của pháp luật Việt Nam là phù hợp với luật quốc tế nhưng vẫn còn một số những vấn đề mà
chúng ta chưa quy định thật cụ thể như: việc xin hưởng quyền ưu tiên trong trường hợp tách đơn, nhập đơn, quyền
ưu tiên từ nhiều đơn hay các trường hợp không được hưởng quyền ưu tiên chưa thật cụ thể và rõ ràng. Vì vậy, khi
ban hành văn bản dưới luật hướng dẫn Bộ luật dân sự cũng như Luật sở hữu trí tuệ mới được thông qua, chúng ta
cần quy định cụ thể và chi tiết hoá những vấn đề này./
.
3. Thỏa ước Madrid về đăng kí quốc tế nhãn hiệu hàng hóa năm 1891:
* Thỏa ước Madrid và Nghị định thư Madrid có sự khác nhau:
- Nghị định thư cho phéo đăng ký quốc gia dựa trên đơn quốc gia chứ ko chỉ dựa trên việc đ.ký quốc gia.
- Nghị định thư quy định thời hạn 18 tháng thay cho thời hạn 1 năm dành cho các bên tham gia để từ chối
bảo hộ.
- Nghị định thư Madrid là một hiệp định về thủ tục lập hồ sơ chứ không phải là hiệp định điều chỉnh về mặt
nội dung. Nghị định thư giúp những người sở hữu nhãn hiệu - các cá nhân và doanh nghiệp - bảo vệ được nhãn
hiệu của họ một cách hiệu quả cùng một lúc ở nhiều quốc gia thông qua việc lập hồ sơ xin cấp bằng phát minh
sáng chế tới một cơ quan duy nhất với một ngôn ngữ, một khoản chi phí và một loại tiền tệ. Hơn nữa, không cần
phải lập hồ sơ qua trung gian. Đơn xin cấp bằng phát minh, sáng chế có thể được lập bằng tiếng Anh, tiếng Pháp
hoặc Tây Ban Nha.
VN đã tham gia thỏa ước nhưng chưa tham gia nghị định thư.
* Mục đích: Tạo đkiện thuận lợi cho việc đký nhãn hiệu hàng hóa tại các nc thành viên.
* Nội dung:
- Nộp đơn đăng ký quốc tế:
+ Việc bảo hộ quốc tế đối với nhãn hiệu hàng hóa xuất phát từ yêu cầu bảo hộ của chủ nhãn hiệu hàng hóa
thông qua việc nộp đơn yêu cầu bảo hộ, đơn này gọi là “đơn đký quốc tế”.
+ Đơn đc nộp bởi 1 thể nhân hoặc pháp nhân có sở kinh doanh hoặc cư trú tại một nước tham gia thỏa ước.
+ trg đơn quốc tế phải xác định một hoặc nhiều nước nơi nhãn hiệu đc bảo hộ. Nước đc chỉ định trg đơn và
nước xuất xử đều là thành viên của TƯ.
+ Đơn quốc tế đc nộp tới văn phòng quốc tế của tổ chức SHTT thế giới thông qua có quan trung gian là cơ
quan có thẩm quyền của nước xuất xứ. Kèm theo đơn là lệ phí: lệ phí đký, lệ phí quốc gia.
- Hiệu lực của đơn đăng ký:
+ Đăng ký tại văn phòng quốc tế có hiệu lực trg vòng 20 năm kể từ ngày đăng ký và có quyền gia hạn thêm
20 năm kể từ ngày hết hạn thời hạn trước đó.
6
+ Ngày đăng ký quốc tế là ngày nộp đơn đăng ký quốc tế tại nước xuất xứ nếu văn phòng quốc tế nhận đc
đơn đó trg vòng 2 tháng kể từ ngày nhận đc đơn.
+ Kể từ ngày đăng ký quốc tế thực hiện tại văn phòng quốc tế việc bảo hộ đối với nhãn hiệu hàng hóa tại tất
cả các nước thành viên được thực hiện như đối với nhãn hiệu đc nộp trực tiếp tại nước đó.
- Từ chối bảo hộ: Tất cả các nước thành viên của TƯ được chỉ định trg đơn quốc tế có quyền từ chối bảo
hộ trên phạm vi lãnh thổ nước mình.
4. Hiệp định hợp tác về bằng phát minh sáng chế (PCT)
Hiệp định PTC của WIPO đã được ký kết tại Washington, D.C. năm 1970 và có hiệu lực năm 1978. Hiệp
định đã được sửa đổi năm 1979, 1984, 2001 và 2004. Tính đến ngày 15/9/2005 đã có 128 bên tham gia ký kết PCT.
Nhờ đơn giản hóa quá trình lập hồ sơ đăng ký bằng phát minh sáng chế nên PCT đã giúp những nhà phát
minh được bảo hộ bằng phát minh của họ trên toàn thế giới. Hiệp định này cũng khuyến khích các doanh nghiệp
nhỏ và các cá nhân tìm cách bảo hộ bằng phát minh sáng chế của họ ở nước ngoài.
Theo hiệp định này, các công dân của một quốc gia tham gia ký kết chỉ cần lập một hồ sơ đăng ký cấp bằng
phát minh duy nhất - thường được gọi là hồ sơ “quốc tế” – và gửi tới Cơ quan cấp bằng phát minh của nước họ
hoặc tới WIPO với tư cách là cơ quan tiếp nhận hồ sơ. Như vậy, đơn xin cấp bằng phát minh sáng chế của họ sẽ tự
động được gửi tới tất cả 127 quốc gia tham gia PCT.
Hiệp định cho phép những người nộp đơn có thời gian dài hơn – 30 tháng – để cam kết trang trải mọi chi
phí dịch thuật, lệ phí hồ sơ trong nước và thực thi ở tất cả mọi quốc gia nơi họ muốn được bảo hộ. Nhờ cho phép
người nộp đơn có nhiều thời gian và thông tin hơn để đánh giá thế mạnh trong bằng phát minh sáng chế tương lai
của họ và quyết định kế hoạch tiếp thị của mình, thời hạn 30 tháng giúp các ứng viên lựa chọn tốt hơn những quốc
gia nơi họ muốn nộp hồ sơ. Đây là một bước tiến quan trọng so với thời hạn ưu tiên 12 tháng đã được quy định
trong Công ước Paris đối với những người nộp đơn xin cấp bằng phát minh sáng chế.
Trong khuôn khổ PCT, WIPO đã ấn hành “áp dụng tính quốc tế” cùng với hướng dẫn về việc công nhận
phát minh sáng chế. Việc hướng dẫn như vậy có nghĩa là tiến hành nghiên cứu sơ bộ và/hoặc kiểm tra thông qua
một “cơ quan quốc tế” - một trong 11 cơ quan cấp bằng phát minh sáng chế hiện đáp ứng tiêu chuẩn tối thiểu về
nhân lực và các yêu cầu xử lý hồ sơ khác được WIPO ủy quyền. Việc chỉ dẫn như vậy giúp người nộp đơn quyết
định xem có nên tiếp tục nộp hồ sơ xin cấp bằng phát minh, sáng chế tới các cơ quan cấp bằng phát minh, sáng chế
ở trong nước hay trong khu vực hay không. Các cơ quan cấp bằng phát minh cũng được hưởng lợi từ quá trình chỉ
dẫn này khi quyết định có nên cấp bằng phát minh sáng chế quốc gia hay khu vực dựa theo hồ sơ đăng ký trong
khuôn khổ của PCT hay không. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài đã xác định những văn bản liên quan cần
thiết giúp các cơ quan cấp bằng phát minh, sáng chế đảm bảo nguồn lực trong quá trình điều tra và nâng cao chất
lượng kiểm tra của họ.
Các nước thành viên của hiệp ước PCT sẽ từ chối ko cấp văn bằng bảo hộ đối với sáng chế được nêu trg
đơn quốc tế khi:
- Việc bảo hộ sáng chế đó là trái với PL của nước thành viên đc yêu cầu bảo hộ
- Việc bảo hộ sáng chế có ảnh hưởng tới an ninh quốc gia hoặc các quyền lợi kinh tế của nước
thành viên đc chỉ định.
5. Hiệp định TRIPS
7
Hiệp định TRIPs của WTO (được ký kết năm 1994 và chính thức có hiệu lực vào tháng 1/1995) đã ra đời
nhằm giải quyết một cách toàn diện vấn đề bảo hộ quyền SHTT. Với Hiệp định này, lần đầu tiên những quy định
về quyền SHTT được đưa vào hệ thống thương mại đa biên và người ta kỳ vọng rằng Hiệp định sẽ "góp phần thúc
đẩy việc cải tiến, chuyển giao và phổ biến công nghệ, mang lại lợi ích cho cả người sáng tạo và người sử dụng
công nghệ cũng như lợi ích kinh tế - xã hội nói chung và đảm bảo sự cân bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ" (Điều
7, Hiệp định TRIPs).
Tầm quan trọng của Hiệp định TRIPS được thể hiện ở ba điểm:
1. Đây là hiệp định duy nhất đầu tiên thực sự mang tính quốc tế đã đưa ra các chuẩn mực tối
thiểu về bảo hộ nhiều hình thức của sở hữu trí tuệ;
2. Đây là hiệp định quốc tế đầu tiên về sở hữu trí tuệ có những quy định cụ thể về trách nhiệm
dân sự, hình sự và bảo vệ biên giới; và
3. Đây là hiệp định quốc tế đầu tiên về sở hữu trí tuệ được áp dụng để giải quyết tranh chấp.
Trên thực tế, TRIPS đặt nền tảng cho một hạ tầng cơ sở vững chắc và hiện đại trong lĩnh vực quyền sở hữu
trí tuệ cho cộng đồng quốc tế.
Ý nghĩa của hiệp định
+ Hiệp định TRIPS có vị thế độc nhất trong số các điều ước quốc tế về IPR bởi lẽ việc trở thành thành viên
của WTO đồng nghĩa với việc tham gia “trọn gói” các hiệp ước. Nói cách khác, các quốc gia thành viên của WTO
không được phép lựa chọn các hiệp ước mà phải tuân thủ tất cả các hiệp ước đa phương của WTO, bao gồm cả
TRIPS.
+ Các quy định mới điều chỉnh những vấn đề liên quan đến thương mại của quyền SHTT thông qua Hiệp
định TRIPs đã trở thành một phương tiện giúp củng cố trật tự, cũng như giải quyết tranh chấp một cách có hệ
thống hơn trên phạm vi toàn cầu.
+ Hiệp định nêu ra các nguyên tắc và ấn định mức độ bảo hộ tối thiểu mà mỗi quốc gia thành viên phải bảo
đảm cho quyền SHTT của các quốc gia thành viên khác. Trên cơ sở đó, Hiệp định tạo ra sự cân bằng giữa lợi ích
lâu dài và chi phí ngắn hạn đối với xã hội.
- HĐ Trips là sự tổng hợp, kế thừa và phát triển của 2 CƯ Berne và Pari:
+ Bern chỉ bao gồm quyền tác giả, Pari chỉ gồm quyền SHCN.
+ Trip: bao gồm cả quyền tác giả + quyền SHCN + một số quyền khác ( VD thông tin bí mật trg thương
mại, bảo hộ quyền phát song trên vệ tinh…)
Mục đích:
Quy định những điều kiện thuận lợi cho việc cấp văn bằng bảo hộ cho các công dân của các nước thành
viên.
* Nguyên tắc bảo hộ:
- NT đối xử quốc gia: Mỗi thành viên phải dành cho công dân của các nước thành vieech khác sự đối xử
không kém phần thuận lợi hơn so với sự đối xử của thành viên đó với công dân của mình trg việc bảo hộ quyền
SHTT.
- NT đối xử tối huệ quốc:
+ Bất kỳ một sự thuận lợi, ưu đãi, đặc quyền hoặc miễn trừ nào được một thành viên dành cho công dân bất
kỳ nước nào khác thì lập tức và vô điều kiện phải đc dành cho công dân của tất cả các thành viên khác.
8
+ Bản chất của nguyên tắc MFN là cầm một nước thành viên phân biệt đối xử giữa các thành viên khác
( bình đẳng giữa các bên thứ 3) trg việc bảo hộ quốc tế quyền SHTT.
+ NT MFN là nguyên tắc lần đầu tiên đc quy định trg TRIPS vì:
TRIPS công nhận SHTT là tài sản tư nhân đc lưu thông trog thương mại và các quốc gia trên
thế giới phải có nghĩa vụ bảo hộ, mà để bảo hộ các quốc gia phải thực sự bình đẳng trong một sân chơi, do
đó cần ghi nhận nguyên tắc MFN.
* Đối tượng và tiêu chuẩn bảo hộ
- Quyền tác giả: Điều 9.1 Hiệp định TRIPs quy định các thành viên WTO phải tuân thủ Công ước Bern từ
Điều 1 đến Điều 21 và Phụ lục kèm theo. Quyền tác giả được bảo hộ cho đến 50 năm sau khi tác giả qua đời. Hiệp
định TRIPs quy định các chương trình máy tính và cơ sở dữ liệu cũng được bảo vệ như các tác phẩm văn học theo
đúng Công ước Bern.
- Nhãn hiệu hàng hóa: Điều 15 Hiệp định TRIPs quy định mọi dấu hiệu hoặc sự kết hợp các dấu hiệu có
khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa, dịch vụ của một doanh nghiệp khác đều
có thể được bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. Điều 16 của Hiệp định quy định các thành viên WTO phải tuân thủ Điều 6
bis của Công ước Paris liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Các thành viên WTO có thể quy định các điều
kiện cấp phép và chuyển nhượng nhãn hiệu hàng hóa, trong đó không được quy định việc cấp phép bắt buộc và chủ
sở hữu nhãn hiệu hàng hóa đã đăng ký có quyền chuyển nhượng nhãn hiệu hàng hóa đó có hoặc không kèm theo
việc chuyển nhượng cơ sở kinh doanh mang nhãn hiệu hàng hóa đó. Thời hạn bảo hộ một nhãn hiệu hàng hóa
không dưới 7 năm và có thể được gia hạn với số lần không hạn chế.
-Chỉ dẫn địa lý: là những chỉ dẫn về hàng hóa bắt nguồn từ một nước, khu vực hay địa phương thuộc nước
đó, có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính nhất định do xuất xứ địa lý quyết định (Điều 22). Các thành viên WTO phải
quy định những biện pháp để các bên liên quan ngăn chặn việc mô tả gây nhầm lẫn cho công chúng về xuất xứ địa
lý của hàng hóa hoặc tạo thành "hành vi cạnh tranh không lành mạnh" theo điều 10 bis Công ước Paris.
- Bản vẽ và kiểu dáng công nghiệp: Điều 25 Hiệp định TRIPs quy định các thành viên WTO phải bảo hộ
những kiểu dáng công nghiệp được sáng tạo một cách độc lập, có tính mới hoặc tính sáng tạo ít nhất trong vòng 10
năm. Chủ sở hữu các bản vẽ được bảo hộ có quyền ngăn cấm việc sản xuất, bán hoặc nhập khẩu các sản phẩm
mang hoặc có chứa hình vẽ giống với hình vẽ đã được bảo hộ. Hiệp định TRIPs cho phép các thành viên tùy ý
quyết định bảo hộ kiểu dáng hàng dệt bằng kiểu dáng công nghiệp hoặc bằng quyền tác giả.
- Bằng sáng chế: Hiệp định quy định các sáng chế có thể được bảo hộ thông qua bằng sáng chế trong vòng
ít nhất 20 năm. Trong hầu hết các lĩnh vực công nghệ, cả sản phẩm lẫn phương thức sản xuất đều được bảo hộ.
Chính phủ các nước có thể từ chối cấp bằng sáng chế nếu việc khai thác kinh doanh chúng bị cấm vì vi phạm trật
tự công cộng hoặc đạo đức. Hiệp định đề ra các quyền tối thiểu dành cho người sở hữu bằng sáng chế, tuy nhiên,
cũng quy định một số ngoại lệ để đối phó với trường hợp người sở hữu bằng sáng chế lạm dụng quyền của mình
(như không cung ứng sản phẩm cho thị trường). Trong trường hợp này, theo một số điều kiện nhất định trong Hiệp
định, chính phủ các nước có thể cấp "giấy phép bắt buộc" cho phép các nhà sản xuất khác sản xuất sản phẩm này
hoặc được phép sử dụng quy trình sản xuất đã được bảo hộ. Một số quy định mềm dẻo như vậy đặc biệt có ý nghĩa
trong việc tiếp cận những sản phẩm thiết yếu, nhất là đối với các nước đang phát triển và kém phát triển.
- Thiết kế bố trí mạch tích hợp: Hiệp định TRIPs quy định việc bảo hộ sơ đồ bố trí mạch tích hợp trên cơ
sở Hiệp định Washington về quyền SHTT trong lĩnh vực mạch tích hợp. Theo điều 36, các hành vi nhập khẩu, bán
hoặc phân phối nhằm mục đích thương mại một thiết kế bố trí mạch tích hợp được bảo hộ mà không được phép của
9
chủ sở hữu được coi là bất hợp pháp. Điều 37 quy định, các thành viên sẽ không coi những hành vi liên quan đến
việc vi phạm quyền sở hữu một thiết kế bố trí mạch tích hợp do vô ý là bất hợp pháp nhưng sẽ yêu cầu bồi thường
cho chủ sở hữu thiết kế bố trí mạch tích hợp sau khi có thông báo vi phạm.
- Bảo hộ thông tin bí mật: Hiệp định TRIPs không yêu cầu các thành viên phải bảo hộ thông tin bí mật như
một dạng sở hữu mà chỉ dành cho người có quyền kiểm soát thông tin đó khả năng ngăn chặn việc người khác làm
tiết lộ, chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép thông tin này trái với hành vi thương mại trung thực. Điều 39 quy định
các thành viên không được phép tiết lộ những dữ liệu mật được nộp cho các cơ quan chính phủ để xin phép lưu
hành dược phẩm hoặc nông hóa phẩm (trừ trường hợp cần thiết nhằm bảo vệ công chúng hoặc khi đã tiến hành các
biện pháp cần thiết để đảm bảo các dữ liệu đó không bị tiết lộ) nhằm mục tiêu thương mại không lành mạnh.
- Kiểm soát hành vi chống cạnh tranh trong hợp đồng chuyển giao quyền SHTT (Hợp đồng lixăng): Chủ
sở hữu quyền SHTT có thể cho phép người khác sản xuất hay sao chép nhãn hiệu hàng hóa hoặc thương hiệu, tác
phẩm, sáng chế, bản vẽ hoặc các mẫu mã được bảo hộ. Hiệp định TRIPs thừa nhận trong số các điều kiện của hợp
đồng chuyển giao, người chủ sở hữu có thể hạn chế cạnh tranh hoặc cản trở việc chuyển giao công nghệ. Hiệp định
quy định chính phủ các nước, trong một số điều kiện nhất định, có quyền áp dụng các biện pháp nhằm ngăn ngừa
hành vi phản cạnh tranh và lạm dụng quyền SHTT trong lĩnh vực nhượng bản quyền, và phải sẵn sàng tham khảo
lẫn nhau nhằm chống lại các hành vi này.
* Thực thi quyền sở hữu trí tuệ
Điều 41 quy định các thành viên WTO phải đảm bảo khả năng khiếu kiện có hiệu quả đối với mọi hành vi
xâm phạm các loại quyền SHTT được đề cập trong Hiệp định, trong đó có những chế tài khẩn cấp nhằm ngăn chặn
các hành vi xâm phạm cũng như không để các hành vi xâm phạm tiếp diễn.
Mặt khác, những thủ tục này phải được áp dụng theo cách thức tránh tạo ra các hàng rào cản trở hoạt động
thương mại hợp pháp.
Theo Hiệp định, tòa án quốc gia cần phải có những biện pháp hữu hiệu, kịp thời để bảo vệ các chứng cứ
của hành vi vi phạm quyền SHTT; sau khi đã xác định rõ chứng cứ vi phạm, tòa án phải ra phán quyết yêu cầu
người vi phạm bồi thường thiệt hại cho người nắm giữ quyền SHTT.
Hiệp định cũng kêu gọi các quốc gia cần lưu ý, trong trường hợp trên thị trường xuất hiện hành vi ăn cắp
bản quyền với quy mô lớn, theo khung hình phạt, người có hành vi vi phạm bản quyền sẽ bị khởi tố, có thể bị phạt
tù, hoặc chịu các hình phạt khác. Các thủ tục và biện pháp chế tài theo quy định của Hiệp định TRIPs gồm 2 nhóm
cơ bản: các biện pháp chế tài dân sự, hành chính và hình sự.
* Giải quyết tranh chấp
Tranh chấp phát sinh liên quan đến Hiệp định TRIPs là quy định quan trọng nhất trong lĩnh vực này và sẽ
được giải quyết theo quy định của Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO (DSB). Điều 63 yêu cầu các thành viên
WTO phải công bố, hoặc ít nhất cho công chúng tiếp cận bằng ngôn ngữ quốc gia, tất cả các luật, quy định, quyết
định xét xử cuối cùng và quyết định hành chính giải quyết vụ việc liên quan đến việc đăng ký, bảo hộ, thực thi,
ngăn chặn lạm dụng quyền SHTT. Ngoài ra, các thành viên phải công bố mọi thỏa thuận đã ký với các thành viên
WTO khác trong lĩnh vực quyền SHTT.
Hạn chế của HĐ TRIPS:
10
+ Hiệp định TRIPS không thể bao hàm được một số diễn biến mới, như các vấn đề về Internet và tác quyền
kỹ thuật số, công nghệ sinh học tiên tiến, và quá trình nhất thể hóa những chuẩn mực toàn cầu về luật pháp hoặc
thông lệ. Hiệp định này mới chỉ đặt nền tảng cho việc bảo hộ IPR ở mức tối thiểu chứ chưa phải tối đa.
+ Hiệp định đã không xem xét một cách thích đáng sự khác biệt giữa hai khối quốc gia phát triển và đang
phát triển trong quá trình phát triển khoa học - công nghệ
+ Không có các biện pháp cụ thể nhằm rút ngắn khoảng cách này.
+ Hiệp định lại chỉ chú trọng đến quyền SHTT, không đề cập đến trách nhiệm xã hội của quyền sở hữu này
và như vậy vô hình chung sẽ làm tăng thêm khoảng cách giữa hai khối quốc gia này.
+ Các nước đang phát triển đã không thể khai thác triệt để các biện pháp ưu tiên mà CƯ dành cho, do tính
chất không bắt buộc của các biện pháp ưu tiên đó.
* Những thách thức đối với các nước đang phát triển khi thực hiện Hiệp định TRIPs
- Việc bảo hộ quyền SHTT là một phần thưởng cho hoạt động sáng tạo và đổi mới sản phẩm trí tuệ. Do
vậy, hệ thống bảo hộ quyền SHTT theo Hiệp định TRIPs được đánh giá tương đối tích cực ở các nước phát triển.
- Một số khó khăn khác mà Hiệp định TRIPs có thể gây ra cho các nước đang phát triển thể hiện ở những
khía cạnh sau
+ Cơ chế bảo hộ quyền SHTT khắt khe tạo ra sự bất bình đẳng giữa các nền kinh tế tiên tiến với các nền
kinh tế nhỏ, lạc hậu và giữa các doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ. + Khi xảy ra tranh chấp về xâm phạm
quyền SHTT của các nước đang phát triển ở nước ngoài, thủ tục tư pháp phức tạp, chi phí thuê luật sư cao, đã
khiến cho nhiều doanh nghiệp không đủ sức theo đuổi các vụ kiện tụng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.
+ Một vấn đề gây khó khăn nữa cho các nước đang phát triển là việc các nước công nghiệp tiên tiến ngày
càng lạm dụng quyền SHTT để trừng phạt thương mại hay trả đũa trong hoạt động thương mại. Biểu hiện mới này
đang là yếu tố gây nhiều bất lợi cho các nước kém và đang phát triển, bởi các nước đó chưa thể hoàn thiện hệ
thống bảo hộ quyền SHTT ngang bằng với trình độ chung của thế giới.
+ Ở một mức độ nhất định, Hiệp định TRIPs đã có tác động xấu đến mục tiêu phát triển của các nước
nghèo. Hiệp định chủ yếu thiên về những người nắm giữ bản quyền (phần lớn từ các nước phát triển), trong khi
làm tổn hại đến người tiêu dùng ở các quốc gia đang phát triển
+ Hơn nữa, bảo hộ nghiêm ngặt quyền SHTT về công nghệ sẽ ngăn cản và hạn chế quá trình truyền bá và
phổ biến công nghệ - một quá trình rất cần thiết trong chính sách phát triển, nhất là đối với các nước đang phát
triển có trình độ công nghệ thấp. Do vậy, tình trạng bảo hộ cứng rắn theo Hiệp định TRIPs đối với các quyền
SHTT có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng: tạo thế độc quyền cho người nắm giữ quyền SHTT, gây nguy cơ nâng
giá bán sản phẩm và khống chế giá bất hợp lý, từ đó tạo ra sự khan hiếm hàng hóa, làm nảy sinh tình trạng khó tiếp
cận đối với hàng hóa, sản phẩm. Tình trạng này ngày càng trở nên rõ rệt đối với các nước có trình độ phát triển
công nghệ và mức sống thấp như Việt Nam.
+ Thời gian bảo hộ quyền SHTT theo Hiệp định TRIPs quá lâu sẽ tăng cường quyền lực cho giới chủ của
các nước giàu trong khi hạn chế doanh nhân nước nghèo tiếp nhận những tri thức thậm chí đã trở thành công cộng.
+ Tác động xấu đến đời sống của người nông dân: Việc thực thi quyền SHTT thông qua bảo hộ các loại giống cây
trồng có thể dẫn đến việc người nông dân phải mua giống cây từ các nhà sản xuất giống ở các quốc gia phát triển
với mức giá cắt cổ. Điều này sẽ ảnh hưởng tới ngành sản xuất giống cây và làm gia tăng chi phí sản xuất nông
nghiệp cũng như giá thành của các loại nông sản.
11
+ Chi phí lớn cho việc thực hiện Hiệp định TRIPs: Việc bảo hộ quyền SHTT của Hiệp định TRIPs theo
những điều kiện ngặt nghèo của các nước phát triển đòi hỏi các nước đang phát triển phải dành ra những nguồn lực
không nhỏ trong tổng nguồn lực vốn đã hạn chế của mình.
Như vậy, tại các nước đang phát triển, việc tăng cường bảo hộ quyền SHTT có nguy cơ làm phương hại
đến các mục tiêu phát triển chung của họ. Với việc thực hiện các cam kết nhằm thúc đẩy sự bảo hộ mạnh mẽ hơn
đối với các tài sản trí tuệ, các nước đang phát triển sẽ bị lâm vào tình thế hết sức bất lợi để duy trì sức cạnh tranh
của nền kinh tế ngay trên sân nhà cũng như trên thị trường toàn cầu. Nhìn toàn cục quá trình hình thành và nội
dung đã có hiệu lực của Hiệp định TRIPs, có thể thấy rằng các nước công nghiệp tiên tiến sẽ có lợi hơn trong quá
trình thực thi Hiệp định TRIPs và các nước đang phát triển trước mắt có thể chịu một phần thua thiệt.
Tại sao nói hiệp định TRIPS 93 là hiệp định liên quan đến khía cạnh thương mại trong SHTT? Vì:
+ Quy định về quyền SHTT được đưa vào hệ thống thương mại đa biên và người ta kỳ vọng rằng Hiệp định
sẽ "góp phần thúc đẩy việc cải tiến, chuyển giao và phổ biến công nghệ, mang lại lợi ích cho cả người sáng tạo và
người sử dụng công nghệ cũng như lợi ích kinh tế - xã hội nói chung và đảm bảo sự cân bằng giữa quyền lợi và
nghĩa vụ.
+ Mục đích của hiệp định là giảm bớt những lệch lạc và những trở ngại trg hoạt động thương mại quốc tế.
+ Các quy định của hiệp định đều quy định về những quyền SHTT, thực thi quyền SHTT liên quan đến
thương mại
* SO SÁNH HIỆP ĐỊNH TRIPS VỚI CÔNG ƯỚC PARI:
- GIỐNG:
+ Đều là những ĐƯQT về bảo vệ quyền SHTT.
+ Đều có đối tượng bảo hộ là quyền SHCN.
+ Đều thừa nhận nguyên tắc đối xử quốc gia.
- KHÁC:
TRIPS PARI
Mục
đích
Quy định những điều kiện thuận lợi
cho việc cấp văn bằng bảo hộ cho các công
dân của các nước thành viên.
Xây dựng các đkiện có lợi cho việc cấp văn
bằn bảo hộ cho chủ sở hữu CN là công dân, pháp
nhân của nước này ở nước khác thuộc thành viên
công ước trên cơ sở tôn trọng luật SHTT của nước
thành viên.
NT
bảo hộ
Ko có nt đối xử tối huệ quốc Đối xử tối huệ quốc
Đối
tượng bảo hộ
QSHCN, Q tác giả, một số quyền #
như: quyền đối với giống cây trồng, bố trí
thiết kế mạch tích hợp
QSHCN
Thực
thi
Ko quy định các biện pháp, chế tài
đảm bảo việc thực hiện quyền SHTT.
Quy định các biện pháp để thực thi quyền sở
hữu trí tuệ, gồm: BP dân sự, hành chính, kiểm soát
biện giới,
12
6. Hiệp định thương mại VN – Hoa Kỳ:
Tại sao lại nói Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ là một bước quan trọng để tiến tới gia
nhập WTO? Vì:Hoa Kỳ là một nền kinh tế lớn nhất thế giới. Hoa Kỳ cũng là nước có ảnh hưởng tại WTO và
nhiều diễn đàn kinh tế. Mặt khác, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ cũng được soạn thảo dựa trên những
quy tắc và điều khoản của WTO. Vì vậy, việc ký một hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ cho thấy Việt
Nam có thể từng bước chấp nhận các quy định của WTO và tham gia thị trường toàn cầu.
• Nguyên tắc.
• Đối tượng.
• Biện pháp thực thi có hiệu quả.
• Trợ giúp kỹ thuật.
tr 30.
III. Bảo hộ quyền SHCN có yếu tố nước ngoài ở VN:
1. Nguyên tắc bảo hộ: Đ 775 BLDS:
- Có đối tượng SHCN đc cqnn có thẩm quyền VN cấp văn bằng bảo hộ
- Có đối tượng SHCN đc cqnn có thẩm quyền VN công nhận bảo hộ
Việc bảo hộ quyền SHCN của người nc ngoài và PN nc ngoài tại VN sẽ đc bảo hộ trên cơ sở quy định của
pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên. Nếu ĐƯ và PVVN khác nhau thì áp dụng ĐƯ.
2. Đối tượng được bảo hộ:
- Sáng chế.
- Kiểu dáng CN.
- Mạng tích hợp bán dẫn.
- Thiết kế, bố trí mạch tích hợp bán dẫn.
- Nhãn hiệu.
- Nhãn hiệu tập thể.
- Nhãn hiệu chứng nhận.
- Nhãn hiệu liên kết.
- Nhãn hiệu nổi tiếng.
- Tên thương mại.
- Chỉ dẫn địa lý.
- Bí mật kinh doanh.
- Các đối tượng SHCN ko đc PLVN bảo hộ bao gồm:
+ Các đối tượng trái với lợi ích xã hội,trật tự công cộng, nguyên tắc nhân đạo.
+ Các đối tượng khác mà PLVN quy định là không bảo hộ.
3. Xác lập và bảo hộ quyền SHCN cho cá nhân, pháp nhân nc ngoài tại VN:
* Nộp đơn đăng ký xác lập quyền:
- Tổ chức cá nhân nước ngoài có cơ sở sản xuất kinh doanh ở VN thì nộp đơn trực tiếp hoặc thông qua đại
diện hợp pháp tại VN.
13
- Tổ chức cá nhân nước ngoài không có cơ sở sản xuất kinh doanh ở VN thì nộp đơn thông qua đại diện
hợp pháp tại VN.
- Đơn quốc tế và việc xử lý đơn quốc tế phải tuân thủ ĐƯQT có liên quan.
- Người nộp đơn có quyền yêu cầu hưởng quyền ưu tiên trên cơ sở đơn đầu tiên theo PLVN và ĐƯQT mà
VN là thành viên.
* Xác lập quyền:Tr 32 ĐC phô tô
* Văn bằng bảo hộ: Tr 32
* Bảo hộ quyền SHCN cho người nước ngoài và PN nước ngoài. Tr33.
IV. Quyền đối với giống cây trồng trong TPQT:
1. Khái niệm: Là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện
và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu.
2. Đặc điểm:
- Phát sinh ở lãnh thổ nước nào thì có hiệu lực trên lãnh thổ của quốc gia đó.
- Muốn đc bảo hộ ở nước ngoài phải được thực hiện thông qua các phương thức bảo hộ quốc tế.
3. Công ước quốc tế về bảo hộ giống cây trồng mới ( CƯ UPOV) – ký kết năm 1961, sửa đổi mới đây nhất
là năm 1991 – hiệu lực 1998. Tính đến ngày 29/6/2005, đã có 59 quốc gia tham gia Công ước UPOV. Dự kiến
trong vài năm tới sẽ có thêm nhiều quốc gia tham gia ký kết UPOV.
Ý nghĩa:
+ Các quốc gia đã nhanh chóng nhận ra rằng, hoạt động sáng tạo giống cây trồng mới có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng không chỉ trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn cả đối với việc bảo vệ môi trường.
+ CƯ góp phần chống lại các khả năng vi phạm tiềm tàng đối với giống cây trồng mới, đảm bảo cho nhà
tạo giống cây trồng có đủ thời gian cần thiết để khai thác lợi nhuận và tái đầu tư cho các hoạt động sáng tạo của
mình.
+ Công ước quốc tế về bảo hộ các giống cây mới (UPOV) đã thiết lập một hệ thống tài sản trí tuệ đã được
quốc tế công nhận nhằm bảo vệ các giống cây mới. Công ước UPOV khuyến khích và dành phần thưởng cho
những người nhân giống cây mới một cách khéo léo và sáng tạo. Bất cứ ai đưa ra giống cây mới có thể kháng
bệnh, kháng hạn, kháng rét hoặc đơn giản đẹp hơn về mặt thẩm mỹ cũng đều là một nhà phát minh tương tự như ai
đó đã cải thiện máy móc của xe hơi hoặc tìm ra loại thuốc mới. Sự khác biệt duy nhất là những người nhân giống
cây làm việc với những sinh thể chứ không phải các chất vô tri vô giác.
+ Quá trình tạo ra một loại cây mới thường rất lâu và tốn kém. Tuy nhiên, việc tái tạo lại một giống cây đã
có lại có thể nhanh và tương đối dễ dàng. Do đó, hệ thống bảo hộ tài sản trí tuệ hữu hiệu cần phải khuyến khích
cho những đổi mới, sáng tạo bằng cách cho phép các nhà đầu tư hoàn vốn đầu tư và đồng thời truyền bá những
kiến thức về phát minh đó cho những người khác để họ có thể hoàn thiện tốt hơn. Hệ thống UPOV đề ra ba nguyên
tắc pháp lý cơ bản về bảo hộ nhằm khuyến khích những người nhân giống tăng cường óc sáng tạo của họ bằng
cách trao cho họ độc quyền sở hữu phát minh về loại cây của họ trong khi vẫn khuyến khích tìm ra các loài cây
mới.
* Đối tượng đc bảo hộ:
* Nguyên tắc bảo hộ.
* Xác lập quyền.
14
* Thời hạn bảo hộ.
* Phạm vi quyền của nhà tạo giống. ĐC tr 29
Trong khuôn khổ hệ thống UPOV thiết lập năm 1991 – một trong những hiệp định được ký kết gần đây
nhất – những đặc quyền dành cho nhà phát minh (thường được gọi là “quyền của nhà gây giống ”) đòi hỏi một bên
khác ngoài chủ sở hữu các đặc quyền đó được ủy quyền:
• tạo ra hoặc tái tạo một sản phẩm đã được bảo hộ;
• sử dụng sản phẩm đó để nhân rộng, và
• bán hoặc tiếp thị, xuất khẩu, nhập khẩu hoặc dự trữ sản phẩm đã được bảo hộ.
Để hưởng độc quyền, người gây giống phải phát minh ra một loại cây mới hoàn toàn mới, đặc thù, thống
nhất và ổn định. Tuy nhiên, theo Công ước UPOV, một người nhân giống cây nhìn chung không cần có ủy quyền
từ những người nhân giống cây khác khi sử dụng các giống cây đã được bảo hộ để tiến hành các hoạt động không
vì mục đích thương mại hoặc thí nghiệm nhằm tìm ra các loại cây mới. Công ước UPOV cũng cho phép mỗi quốc
gia thành viên hạn chế độc quyền của người nhân giống đối với bất kỳ một loại cây nào có thể cho phép người
nông dân sử dụng một phần thu hoạch của họ để trồng trên mảnh đất của họ sau này. Tuy nhiên, những hạn chế
như vậy cần phải nằm trong giới hạn cho phép và cần phải bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của người nhân giống.
Các quốc gia thành viên tổ chức hội nghị của Hội đồng chấp hành – cơ quan thường trực của công ước - hai
năm một lần. Các cơ quan khác của UPOV bao gồm Ủy ban Hiệp thương, Ủy ban Hành chính và Pháp luật, Ủy
ban Kỹ thuật, gồm nhiều nhóm làm việc kỹ thuật (TWP) trong các lĩnh vực khác nhau của ngành nông nghiệp.
TWP họp định kỳ để chia sẻ và thảo luận những nhận xét và tiến bộ đạt được trong các lĩnh vực của nông nghiệp.
Điều này giúp họ chuẩn hóa các tiêu chuẩn kiểm tra ở các quốc gia thành viên. Các cuộc họp của TWP đem lại lợi
ích cho những người nhân giống vì các tiêu chuẩn càng thống nhất thì càng tăng cường tính nhất quán trong quá
trình lập hồ sơ đăng ký ở nhiều quốc gia khác nhau.
4. Bảo hộ quyền đối với giống cây trồng theo PLVN:
- Cơ sở pháp lý Nghị định số 13/2001/NĐ-CP ngày 20 tháng 4 năm 2001 của CHính Phủ quy định về việc
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với giống cây trồng mới. Theo đó, giống cây trồng mới sẽ được bảo hộ theo một hệ
thống riêng biệt do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trực tiếp quản lý. Hệ thống bảo hộ giống cây trồng
mới sau đó đã tiếp tục hoàn thiện và được quy định mới trong phần IV - Luật sở hữu trí tuệ năm 2005.
- Sự cần thiết cần bảo hộ giống cây trồng theo một hệ thống riêng biệt: Vì quy trình để tạo ra một giống cây
trồng mới thường tiêu tốn rất nhiều thời gian và chi phí tiền bạc. Trong khi đó, việc sao chép giống cây trồng lại có
thể được thực hiện rất nhanh chóng theo nhiều cách thức khác nhau như chiết cây, giâm cây, gieo hạt > cần bảo
hộ.
- Đối tượng Giống cây trồng được bảo hộ theo Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005 là: giống cây được
sáng tạo hoặc được phát triển và phát triển, thuộc danh mục giống cây trồng được bảo hộ do Bộ nông nghiệp và
phát triển nông thôn ban hành, tính ổn định và có tên gọi phù hợp.
- Chủ thể được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với giống cây trồng mới gồm:
+ Người sáng tạo ra giống cây trồng mới. Đây là những chủ thể đã tạo ra giống cây trồng mới, chưa từng
tồn tại trước đó trong thế giới tự nhiên bằng những phương tiện kỹ thuật nhất định. Pháp luật Việt Nam không đặt
ra bất kỳ một giới hạn cụ thể nào đối với hình thức cũng như trình độ kỹ thuật trong việc thực hiện quy trình tạo
15
giống cây trồng được bảo hộ. Đó có thể là thao tác kỹ thuật đơn giản nhất như lựa chọn và lọc giống cây trồng cho
đến những công nghệ phức hiện đại và phức tạp nhất hiện nay như công nghệ chuyển gen, cấy ghép gen
+ Người phát hiện và phát triển giống cây trồng. Đây được coi là điểm khác biệt chủ yếu tạo nên một trong
những đặc trưng cơ bản trong tiêu chuẩn bảo hộ giống cây trồng so với tiêu chuẩn bảo hộ độc quyền sáng chế.
Theo quy định của pháp luật về bảo hộ sáng chế, phát minh (phát hiện) là một trong những đối tượng bị loại trừ
khả năng được bảo hộ. Tuy nhiên, trong hệ thống pháp luật về bảo hộ giống cây trồng, việc phát hiện ra giống cây
trồng mới tồn tại sẵn có trong tự nhiên vẫn có thể được coi là một trong những nguồn căn bản đóng góp phần tạo
nên sự đa dạng sinh học và cần phải được bảo hộ. Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa có văn bản hướng dẫn chính
thức giải thích cụ thể về khái niệm “phát hiện và phát triển giống cây trồng”. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào bản chất
pháp lý nói chung của quyền sở hữu trí tuệ, có thể khẳng định rằng, một người chỉ có công đơn thuần trong việc
phát hiện ra giống cây trồng mới sẽ không được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Do vậy, thuật ngữ “phát triển” được
sử dụng ở đây như là một sự bổ sung cần thiết, là điều kiện đủ để được Nhà nước xem xét bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ đối với giống cây trồng đã được phát hiện. Tuy nhiên, cũng cần phải nhấn mạnh thêm khái niệm “phát triển”
không được dùng để chỉ những hoạt động cải tiến hoặc cải tạo đối với các tính trạng di truyền cơ bản của giống cây
trồng mà chỉ là những tác động tạo nên sự thay đổi nhất định trong quá trình nhân giống của giống cây trồng.
- Điều kiện bảo hộ Đối với giống cây trồng được bảo hộ, theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ 2005:
• Có tính mới: Giống cây trồng được coi là có tính mới nếu vật liệu nhân giống hoặc sản phẩm
thu hoạch của giống cây trồng đó chưa được người có quyền đăng ký hoặc người được phép của người đó
bán hoặc phân phối bằng các cách khác nhau nhằm mục đích khai thác giống cây trồng trên lãnh thổ Việt
Nam trước ngày nộp đơn đăng ký một năm hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam trước ngày nộp đơn đăng ký sáu
năm đối với giống cây trồng thuộc loài thân gỗ và cây nho, bốn năm đối với giống cây trồng khác.
• Có tính khác biệt: Giống cây trồng được coi là có tính khác biệt nếu có khả năng phân biệt
rõ ràng với các giống cây trồng đã được biết đến rộng rãi tại thời điểm nộp đơn hoặc ngày ưu tiên của đơn
nếu đơn được hưởng quyền ưu tiên. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 160, Luật sở hữu trí tuệ năm 2005,
giống cây trồng đã được biết đến rộng rãi bao gồm giống cây trồng đã được sử dụng một cách rộng rãi
trên thị trường ở bất kỳ quốc gia nào, giống cây trồng đã được bảo hộ hoặc được đăng ký trong danh mục
loài cây ở bất kỳ quốc gia nào, giống cây trồng là đối tượng trong đơn đăng ký của bất kỳ quốc gia nào, trừ
khi đơn này bị từ chối và giống cây trồng mà bản mô tả chi tiết của giống đó đã được công bố. Như vậy, đối
tượng có khả năng được sử dụng làm vật liệu đối chứng trong quá trình thẩm định tính phân biệt của giống
cây trồng đăng ký bảo hộ là bất kỳ một quần thể cây trồng nào đã được biết đến một cách rộng rãi. Pháp
luật không đặt ra một giới hạn kỹ thuật nào đối với tính trạng di truyền của nguồn cây trồng được sử dụng
làm vật liệu đối chứng. Tuy nhiên, một vấn đề được đặt ra là, việc xếp đối tượng của đơn đăng ký bảo hộ
giống cây trồng ở bất kỳ quốc gia nào như một nguồn vật liệu đối chứng theo pháp luật Việt Nam, có phần
chưa thuyết phục. Về mặt nguyên tắc, đơn đăng ký bảo hộ giống cây trồng tại một quốc gia chỉ được công
bố sau một thời gian nhất định nào đó. Nếu tại thời điểm nộp đơn hoặc ngày ưu tiên của đơn đăng được
xem xét, giống cây trồng là đối tượng của đơn nộp ở nước ngoài nhưng chưa được công bố, thì không thể
xếp vào quần thể cây trồng đã được biết đến một cách rộng rãi. Do đó, việc coi đối tượng này như một
nguồn vật liệu đối chứng để thẩm định tính phân biệt của giống cây trồng đăng ký là không hợp lý.
• Có tính đồng nhất: Giống cây trồng được coi là có tính đồng nhất nếu có sự biểu hiện như
nhau về các tính trạng liên quan, trừ những sai lệch trong phạm vi cho phép đối với một số tính trạng cụ thể
16
trong quá trình nhân giống. Thuật ngữ “các tính trạng liên quan” được sử dụng ở đây nhằm để chỉ các tính
trạng được yêu cầu bảo hộ của giống cây trồng. Nói một cách khác, tính đồng nhất không được xem xét đối
với các tình trạng không tham gia vào các đặc điểm di truyền của quần thể cây trồng được bảo hộ.
• Có tính ổn định: Giống cây trồng được coi là có tính ổn định nếu các tính trạng liên quan
của giống cây trồng đó vẫn giữ được các biểu hiện như mô tả ban đầu, không bị thay đổi sau mỗi vụ nhân
giống hoặc sau mỗi chu kỳ nhân giống trong trường hợp nhân giống trong trường hợp nhân giống theo chu
kỳ.
• Có tên gọi phù hợp: Tên gọi của giống cây trồng được coi là phù hợp nếu tên đó có khả năng
dễ dàng phân biệt được với tên của giống cây trồng khác đã được biết đến một cách rộng rãi trong cùng một
loài hoặc loài tương tự. người nộp đơn phải đăng ký cùng một tên gọi phù hợp cho giống cây trồng như đã
được đăng ký ở các quốc gia khác, trừ trường hợp tên gọi đã đăng ký ở quốc gia khác phạm vi các điều cấm
quy định tại khoản 3 Điều 163 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005
- Thủ tục xác lập quyền và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với giống cây trồng mới, khoản 1 Điều 164
LSHTT quy định : “Để được bảo hộ quyền đối với giống cây trồng, tổ chức, cá nhân phải thực hiện việc nộp đơn
đăng ký bảo hộ cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với giống cây trồng”. hiện nay, việc đăng ký bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ đối với giống cây trồng đang được Chính phủ trao cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn trực tiếp quản lý.
Theo đó, đơn yêu cầu bảo hộ độc quyền đối với giống cây trồng mới sau khi được nộp sẽ phải trải qua hai
giai đoạn thẩm định:
• Giai đoạn thẩm định hình thức: thời hạn thẩm định hình thức là 15 ngày kề từ ngày nộp
đơn hợp lệ.
• Giai đoạn thẩm định nội dung: trong giai đoạn này cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về
đăng ký bảo hộ giống cây trồng mới tiến hành thẩm định tính mới vai tên gọi phù hợp của giống cây trồng
và thẩm định kết quả khảo nghiệm kỹ thuật, xác định tính khác biệt, tính đồng nhất, tính ổn định của giống
cây trồng.
V. Hợp đồng Li xăng
1. Khái niệm. tr 34
2. Hình thức và nội dung hợp đồng. tr 34
3. HĐ Li xăng ko tự nguyện.
4. HĐ Li xăng theo PLVN. Tr 34
5. Phân biệt HĐ li xăng và HĐ nhượng quyền thương mại.
HĐ Li xăng HĐ nhượng quyền thương mại
( theo mục 8 chương 6 LTM 05)
Khái
niệm
Là viêc chủ SH của đối tượng
SHCN, giống cây trồng cho phép tổ chức
cá nhân khác sử dụng đối tượng SHCN,
giống cây trồng thuộc phạm vi sử dụng của
mình. là sự cho phép đặc quyền sử
dụng một đối tượng nào đó.
Là việc bên nhượng quyền cho phép và yêu
cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện do PL
quy định ( Đ 284 LTM) Là một hoạt động thương
mại.
17
Đối
tượng
Quyền SHCN và giống cây trồng.
Tuy nhiên, ko phải tất cả các đối
tượng của quyền SHCN đều là đối tượng
của HĐ LI xăng, vì ko phải đối tg nào của
quyền SHCN cũng có thể chuyển giao đc
(VD: chỉ dẫn địa lý của hàng hóa…)
Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
Tính tự
nguyện
Có t/h HĐ Li xăng ko tự nguyện,
được ký kết theo quyết định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. (t/h theo D5 CƯ
Pari)
Mang tình tự nguyện, chỉ có hiệu lực khi các
bên tự nguyên ký kết.
Hình
thức
Bằng văn bản và đc đăng ký tại cơ
quan nn có thẩm quyền
Bằng VB hoặc hình thức khác có giá trị
tương đương, ko bắt buộc phải đăng ký tại cqnn có
thẩm quyền.
18