Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp trên địa bàn huyện gia lộc- hải dương trong thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (561.26 KB, 116 trang )

PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Hợp tác xã (HTX) là một hình thức liên kết kinh tế xuất hiện cách đây khoảng
gần 200 năm. Nó đã, đang và tiếp tục tồn tại phát triển ở hầu hết các quốc gia trên thế
giới. HTX có vai trò quan trọng trong việc đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá- hiện
đại hoá (CNH- HĐH) đất nước, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp và khu vực nông
thôn. Ngày nay, hình thức này phát triển và hoạt động trên nhiều lĩnh vực, ngành
nghề. Hiện nay, ở mọi quốc gia, kể cả các nước công nghiệp như Mỹ, Nhật, Anh,
Đức, loại hình này còn tồn tại khá phổ biến, góp phần không nhỏ vào thúc đẩy phát
triển kinh tế của các quốc gia.
Sau 20 năm đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã coi CNH- HĐH nông
nghiệp nông thôn là trọng tâm hàng đầu của quá trình CNH- HĐH đất nước. Nông
nghiệp nông thôn nước ta trong thời kỳ vừa qua đã đạt được thành tựu to lớn và có
bước phát triển tương đối toàn diện, tăng trưởng với tốc độ cao bình quân 5%/năm
(1996- 2002). Đạt đuợc thành tựu đó là do chính sách đổi mới trong nông nghiệp,
trong đó có sự đóng góp của HTX- thành phần kinh tế cơ bản trong nông nghiệp
(cục HTX và PTNT). Thực hiện đường lối đổi mới HTX nông nghiệp và thực hiện
Luật HTX, việc chuyển đổi HTX đã diễn ra hết sức đa dạng và phong phú. Sau
chuyển đổi, bên cạnh một số mô hình HTX làm ăn có hiệu quả vẫn còn có những
mô hình hoạt động chưa hiệu quả (HSK- tạp chí khoa học công nghệ số tháng
1/2001).
Gia Lộc nằm gần trung tâm của tỉnh Hải Dương, là một trong các huyện thực
hiện khá sớm công cuộc chuyển đổi HTX. Công cuộc CNH- HĐH nông nghiệp
nông thôn đang chuẩn bị bước vào giai đoạn đầu trong định hướng phát triển kinh
tế- xã hội của huyện. Đến nay, toàn huyện đã có 35 HTXDVNN kiểu mới. Các
HTX này vừa hoạt động theo Luật HTX 2003 vừa hoạt động theo Luật doanh
nghiệp. Trong quá trình hoạt động từ khi chuyển đổi đến nay, các HTX hoạt động
chưa mang lại hiệu quả cao. (Nguyễn Văn Sáng- Trưởng phòng Phòng Nông nghiệp
huyện).
1


Một số câu hỏi đặt ra là: Hợp tác xã trên địa bàn huyện chuyển đổi từ khi
nào? Sau khi chuyển đổi hoạt động của nó như thế nào, các lĩnh vực hoạt động
chủ yếu là gì? Những hoạt động đó mang lại hiệu quả không? Tại sao? Trong thời
kỳ CNH- HĐH, để đạt được mục tiêu: đến năm 2010 kinh tế hợp tác, hợp tác xã
thoát khỏi tình trạng yếu kém, có đóng góp ngày càng lớn vào GDP của nền kinh
tế và nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX cần có những giải pháp gì?
Để góp phần trả lời thỏa đáng các câu hỏi trên, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài: “Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của
các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp trên địa bàn huyện Gia Lộc- Hải Dương
trong thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Tìm hiểu thực trạng hoạt động của các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp
trên địa bàn huyện; từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp trong thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại
hoá đất nước.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về hợp tác xã, hợp tác xã
dịch vụ nông nghiệp (HTXDVNN), công nghiệp hoá- hiện đại hoá;
- Thực trạng hoạt động của các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp trên địa
bàn huyện Gia Lộc- Hải Dương;
- Đánh giá hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp
trên địa bàn huyện;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp
tác xã dịch vụ nông nghiệp trong thời kỳ CNH- HĐH.
2
1.3 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm: các hợp tác xã dịch vụ nông
nghiệp trên địa bàn huyện Gia Lộc- Hải Dương và các hộ nông dân tham gia hoặc
không tham gia vào hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp.

1.4 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: thực trạng hoạt động của các hợp tác xã dịch vụ nông
nghiệp và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã dịch
vụ trên địa bàn huyện trong thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
- Phạm vi không gian: đề tài tiến hành nghiên cứu trên địa bàn huyện Gia
Lộc- Hải Dương.
- Phạm vi thời gian:
+ Thời gian thực hiện nghiên cứu đề tài: từ ngày 23/12/2009- 26/05/2010
+ Thời gian thu thập: tình hình trên địa bàn huyện trong 3 năm (2007- 2009); tình
hình hoạt động của hợp tác xã được nghiên cứu trong 3 năm 2007- 2009.
3
PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.1 Cơ sở lý luận của đề tài
2.1.1 Lý luận về hợp tác xã
2.1.1.1 Một số khái niệm
* Hợp tác xã
Hợp tác xã là một hình thức thực hiện trong quá trình hợp tác trong kinh tế.
Hợp tác xã là một tổ chức vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội và nhân văn
sâu sắc. Trên thế giới, hợp tác xã đã hình thành và phát triển từ lâu; nó là một công
cụ thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế ở nhiều quốc gia. Ở mỗi quốc gia,
trong Luật hợp tác xã, loại hình kinh tế này đều có định nghĩa riêng nhưng chúng
đều có nét cơ bản.
Theo định nghĩa của Tổ chức lao động quốc tế (ILO- International Labour
Organization), hợp tác xã là sự liên kết của những người đang gặp phải những khó
khăn kinh tế giống nhau, tự nguyện liên kết nhau lại trên cơ sở bình đẳng quyền lợi và
nghĩa vụ, sử dụng tài sản mà họ đã chuyển giao vào hợp tác xã phù hợp với các nhu
cầu chung và giải quyết các khó khăn đó chủ yếu bằng sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm
và bằng cách sử dụng các chức năng kinh doanh trong tổ chức hợp tác phục vụ cho lợi
ích vật chất và tinh thần chung. [19]

Theo định nghĩa của Liên minh hợp tác xã quốc tế (ICA- International
Cooperative Alliance), hợp tác xã là một tổ chức tự trị của những người tự nguyện liên
hiệp lại để đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung của họ về kinh tế xã hội và văn
hoá thông qua một xí nghiệp cùng sở hữu và quản lý dân chủ. [19]
Theo Luật hợp tác xã (2003), hợp tác xã là một tổ chức kinh tế tập thể do
các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện
góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh của tập
thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các
hoạt động kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất tinh thần, góp phần phát triển
kinh tế- xã hội của đất nước.
4
Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân,
tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn
tích luỹ và nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật. [2]
Quan điểm của Lê- nin về hợp tác xã: ngay từ khi chính quyền xô viết non
trẻ được thành lập, Lê- nin đã có sự quan tâm tới chế độ hợp tác xã trong sự nghiệp
xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Người cho rằng: bản chất của hợp tác xã là hợp
tác, chế độ hợp tác xã là một tất yếu khách quan, là bước quá độ sang chế độ mới
bằng con đường đơn giản nhất dễ tiếp thu nhất đối với nông dân. Chế độ hợp tác xã
góp phần kết hợp được các lợi ích khác nhau: lợi ích tư nhân, lợi ích thương nghiệp
tư nhân, đi đôi với kiểm soát kiểm tra lợi ích đó. Người chỉ rõ hợp tác xã phải dựa
trên cơ sở tự nguyện, tham gia, tự giác của quần chúng nhân dân chân chính và dựa
trên cơ sở lợi ích thiết thực. [14]
Quan điểm của Hồ Chí Minh về hợp tác xã: Hợp tác xã là thể chế hợp tác các
thành viên đơn lẻ thành số đông, từ đó tạo thành sức mạnh mà nhu cầu và lợi ích
chung, trước hết là lợi ích kinh tế là sợi dây gắn kết xã viên; xã viên tham gia HTX
càng động lợi ích đem lại cho xã viên càng lớn, tạo mục đích kép: từng xã viên khá
hơn và cộng đồng đoàn kết hơn.
Nếu chúng ta đứng riêng ra, thì sức nhỏ, mà làm không nên việc. Thí dụ mỗi
người mang một cái cột, một tấm tranh ở riêng mỗi người một nơi, thì lều chẳng ra

lều, nhà chẳng ra nhà. Nhóm những cột ấy, tranh ấy, sức ấy, làm ra một cái nhà
rộng rãi bề thế rồi anh em ở chung với nhau. Ấy là hợp tác. Lại thí dụ 10 người
muốn ǎn cơm, mỗi người riêng một nồi, nấu riêng một bếp, nấu rồi ǎn riêng; ǎn rồi
ai nấy dọn dẹp riêng của người nấy, thế thì mất biết bao nhiêu củi, nước, công phu
và thì giờ. Hợp tác xã là "góp gạo thổi cơm chung cho khỏi hao của, tốn công, lại có
nhiều phần vui vẻ."
Bác nhấn mạnh: HTX phải mang lại lợi ích thiết thực cho xã viên, người
không tham gia HTX không được hưởng lợi, có như vậy mới tạo sự hấp dẫn của
HTX đối với nhân dân. Mặt khác, Bác đề cao tính bình đẳng của xã viên HTX khi
đã là xã viên hợp tác xã: “Hợp tác xã chỉ có hội viên mới được hưởng lợi, chì có hội
viên mới có quyền, nhưng những việc kỹ thuật như tính toán, xem hàng hoá, cầm
máy thì có phép mướn người ngoài. Đã vào hội thì bất kỳ góp nhiều góp ít, vào
5
trước vào sau, ai cũng bình đẳng như nhau”.
HTX là con đường giúp nông dân và người lao động nghèo tiến lên giải
phóng chính mình tạo nên sức mạnh lớn hơn để hỗ trợ lẫn nhau chiến thắng mọi kẻ
thù. Hợp tác xã là hợp vốn, hợp sức với nhau, vốn nhiều có sức mạnh thì khó nhọc
ít mà lợi ích nhiều. Sản xuất cũng phải hợp tác thì mới có sức mạnh khắc phục được
mọi khó khăn để phát triển.
Người nói khi chúng ta xác định rõ mục đích của tổ chức hợp tác xã là để
làm gì thì chúng ta mới có thể làm cho HTX đó hoạt động có hiệu quả. Mục đích
của tổ chức HTX không phải vì lợi nhuận cũng không phải vì từ thiện mà nhằm cải
thiện đời sống nông dân, làm cho họ được ấm no hạnh phúc, mạnh khỏe, làm cho
dân giàu nước mạnh.
Để làm được như vậy, trong quản lý HTX, vấn đề dân chủ cần phải được
đảm bảo, làm sao để mọi người dân đều cảm thấy mình là người làm chủ tập thể, có
quyền bàn bạc quyết định những công việc quan trọng của HTX. Khi mọi người đã
tự nguyện và có trách nhiệm thì họ mới đoàn kết chặt chẽ khi tham gia sản xuất.
Mọi quyết định của HTX phải có sự đồng tình nhất trí, ủng hộ của cả ban quản trị
và các xã viên thì mới được làm và mới đạt được hiệu quả cao.

Trong phân phối cũng phải đảm bảo sự công bằng, bình đẳng giữa các xã
viên mặc dù họ có góp ít hay nhiều. Mỗi HTX đều phải có phương hướng sản xuất
đúng đắn phù hợp với điều kiện tình hình kinh tế của HTX và yêu cầu chung của
nền kinh tế.
Nói tóm lại, HTX là một loại hình kinh tế hợp tác, là tổ chức kinh tế tự chủ,
có vốn quỹ chung có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có tư cách pháp nhân. Các HTX đều
được thành lập trên sự tự giúp, tự chịu trách nhiệm, dân chủ, bình đẳng, công bằng,
tự nguyện và đoàn kết. HTX là đơn vị kinh doanh nhưng mục tiêu cơ bản của các xã
viên khi thành lập HTX là để thực hiện những hoạt động mà từng cá nhân riêng lẻ
không thể thực hiện hoặc thực hiện kém hiệu quả nhằm nâng cao điều kiện kinh tế
xã hội của họ thông qua việc cùng hành động vì quyền lợi của tất cả các xã viên.
6
* Hợp tác xã nông nghiệp
Theo điều 1 Nghị định số 43/CP ngày 29/04/1997, hợp tác xã nông nghiệp là
tổ chức kinh tế tự chủ, do nông dân và những người lao động có nhu cầu, lợi ích
chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát
huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả
hơn các hoạt động dịch vụ hỗ trợ cho kinh tế hộ gia đình của các xã viên kinh
doanh trong lĩnh vực sản xuất chế biến, tiêu thụ nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ
sản và các ngành nghề ở nông thôn, phục vụ sản xuất nông nghiệp. [19]
HTXNN là tổ chức kinh tế do những người nông dân tự nguyện thành lập
nhằm mục đích trợ giúp các hoạt động sản xuất nông nghiệp của họ thông qua việc
cung cấp các dịch vụ giá rẻ do lợi thế về quy mô và chuyên môn hóa hoạt động.
HTXNN ra đời dựa trên nền tảng kinh tế hộ.
Hợp tác xã nông nghiệp được phân loại dựa vào hình thức tổ chức và chức
năng của hợp tác xã. Vì vậy, hợp tác xã bao gồm hợp tác xã dịch vụ, hợp tác xã sản
xuất và hợp tác xã sản xuất kết hợp với dịch vụ.
Các HTX hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau đều có một số đặc điểm
chung như sau: các xã viên liên kết với nhau vì họ có ít nhất một mục tiêu chung;
họ luôn theo đuổi mục tiêu cải thiện điều kiện kinh tế bằng phương pháp phối kết

hợp trong sản xuất kinh doanh; xã viên cùng sở hữu, vận hành 1 đơn vị cung cấp
hàng hóa dịch vụ cho họ; mục đích của HTX là sử dụng tối đa các nguồn lực chung
để phát triển sản xuất, có đủ dịch vụ cung ứng cho xã viên.
Ngoài ra, HTXNN còn có một số đặc điểm riêng như:
HTXNN là tổ chức kinh tế tập hợp đông đảo nông dân ở nông thôn- lực lượng
lao động chiếm tỷ lệ lớn nhất trong xã hội ở các nước đang phát triển. Khi lực lượng
lao động này được bồi dưỡng, tập huấn và đào tạo về khoa học, kỹ thuật, công nghệ sẽ
là yếu tố cơ bản cho sự phát triển sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn.
HTXNN là tổ chức kinh tế của những người yếu thế nhất trong xã hội về
trình độ, vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật so với các loại hình doanh nghiệp khác. Vai
trò của NHà nước đối với HTXNN là tất yếu trên các mặt: quản lý Nhà nước, giúp
đỡ hỗ trợ và tham gia quản lý HTX.
7
Đối tượng sản xuất nông nghiệp chủ yếu là sinh vật (cây trồng, vật nuôi) nên
trong quá trình hoạt động kinh doanh, HTX chịu chi phối bởi cả quy luật kinh tế và
quy luật tự nhiên. Điều này làm cho các HTX chịu nhiều rủi ro, hiệu quả kinh tế
thấp, tích lũy vốn ít. Những HTX nào năng động, sáng tạo trong kinh doanh có lợi
thế trong thị trường với những sản phẩm hàng hóa đặc sản có chất lượng cao, thực
hiện được chiến lược chuyên môn hóa và đa dạng hóa sản phẩm.
* Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp
HTXDVNN là tổ chức kinh tế nông nghiệp được tách hẳn để làm chức năng
dịch vụ nông nghiệp, nó hoạt động theo hình Luật hợp tác xã, là một loại hình HTX
kiểu mới. Hoạt động của HTXDVNN bao gồm: dịch vụ các yếu tố đầu vào, dịch vụ
các khâu cho sản xuất nông nghiệp, dịch vụ các quá trình tiếp theo của sản xuất
nông nghiệp. Về thực chất, các HTXDVNN được tổ chức với mục đích phục vụ cho
khâu sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân, nó không hoạt động nhằm mục
đích lợi nhuận. Mô hình HTXDVNN ở nước ta chủ yếu được phân thành hai hình
thức: dịch vụ chuyên khâu và dịch vụ tổng hợp.
HTXDV chuyên khâu có nội dung hoạt động tập trung ở từng lĩnh vực trong
quá trình tái sản xuất hoặc từng khâu công việc trong quá trình sản xuất và phục vụ

cho sản xuất. VD: HTX tín dụng, HTX mua bán, HTX dịch vụ đầu vào, HTX dịch
vụ đầu ra, HTX chuyên dịch vụ về tưới tiêu…
HTXDV tổng hợp đảm nhiệm dịch vụ nhiều khâu cho sản xuất nông nghiệp. Tuỳ
thuộc đặc điểm, điều kiện, trình độ sản xuất và tập quán ở từng vùng mà nhu cầu của
nông hộ đối với từng loại hình dịch vụ có khác nhau. Ở những vùng đồng bằng trồng lúa
nước HTX có thể thực hiện các khâu dịch vụ sau: Xây dựng, điều hành, kế hoạch, bố trí
cơ cấu mùa vụ, lịch thời vụ sản xuất, cung ứng vật tư, tưới tiêu theo quy trình kỹ thuật
thâm canh, phòng trừ sâu bệnh, bảo vệ sản phẩm ngoài đồng để tránh hao hụt. Với
những vùng có mức bình quân ruộng đất và mức độ cơ giới hoá cao, nông hộ cần thêm
khâu dịch vụ làm đất, thu hoạch sửa chữa cơ khí, vận chuyển sản phẩm đến nơi tiêu thụ.
HTX chuyên ngành: HTX này được hình thành từ nhu cầu của các hộ
thành viên cùng sản xuất kinh doanh một loại hàng hoá tập trung, hoặc cùng làm
một nghề giống nhau. HTX thực hiện các khâu dịch vụ của kinh tế hộ như chọn
giống, cung ứng vật tư, trao đổi hướng dẫn kỹ thuật, dịch vụ, vận chuyển và tiêu
thụ sản phẩm, đại diện các hộ thành viên quan hệ với cơ sở chế biến nông sản.
8
2.1.1.2 Bản chất, đặc trưng và nguyên tắc của hợp tác xã
* Bản chất của HTX
Những đặc điểm mang tính bản chất của HTX được hình thành và hoàn
thiện dần trong quá trình phát triển của HTX. Nhận thức đúng bản chất của
HTX có ý nghĩa và vai trò quan trọng trong việc hoàn chỉnh văn bản pháp luật,
làm rõ vai trò của HTX trong phát triển kinh tế nông thôn, kinh tế đất nước.
Qua thực tiễn phát triển HTX ở nước ta, hiện tượng phổ biến là vẫn còn
nhiều người chưa nhận thức rõ ràng về bản chất của HTX. Có người hiểu HTX là
một số cá nhân góp vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu
của thị trường.
Bản chất của HTX được thể hiện rõ trong định nghĩa pháp lý về HTX của tổ
chức ILO. Bản chất của HTX được tổng kết dựa trên cơ sở kinh nghiệm của sự phát
triển HTX. Theo đó, bản chất của HTX là sự cùng sở hữu, cùng sử dụng sản phẩm
dịch vụ của HTX hoặc cùng là người lao động trong hợp tác xã. Như vậy có thể nói,

HTX vừa là tổ chức, hiệp hội hợp tác vừa là doanh nghiệp thuộc hợp tác xã tạo ra
sản phẩm dịch vụ cung ứng chung cho tất cả các xã viên trong HTX.
Theo định nghĩa về HTX của Liên minh HTX quốc tế, HTX mang một số
bản chất cụ thể như sau: một là, nó là một tổ chức tập hợp của các cá nhân con
người có cùng hoạt động kinh tế. Hai là, mỗi xã viên trong tổ chức hợp tác cần phải
có nhu cầu chung trong hoạt động kinh tế thì hợp tác mới có thể thực hiện trong
HTX. Ba là, HTX là một tổ chức kinh tế thúc đẩy hợp tác trong cộng đồng xã viên
một cách có hiệu quả nhu cầu chung trong mọi hoạt động. Bốn là, vốn góp của xã
viên và tài sản thuộc sở hữu tập thể không thể chia của HTX- đề cao tính cộng đồng
và sở hữu chung của HTX.
* Đặc trưng của HTX
Từ những quy định trong Luật HTX năm 1996, sửa đổi Luật HTX 2003 và
các Nghị định dưới Luật hướng dẫn triển khai Luật HTX có thể rút ra một số đặc
trưng cơ bản về HTX kiểu mới như sau:
Thứ nhất, HTX kiểu mới là tổ chức kinh tế tự chủ của những người lao động
có nhu cầu, lợi ích chung tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của
pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên, nhằm giúp nhau
thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và cải thiện
9
đời sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước. HTX có tư cách pháp
nhân, có tổ chức chặt chẽ, hạch toán độc lập, tự chịu trách nhiệm về các hoạt động
của mình và được đối xử bình đẳng như các thành phần kinh tế khác.
Thứ hai, về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTX kiểu mới. Khi hoạt
động, các HTX kiểu mới phải tuân thủ 5 nguyên tắc cơ bản: tự nguyện gia nhập và
rút khỏi HTX theo quy định của điều lệ HTX; quản lý dân chủ và bình đẳng; mỗi xã
viên có quyền ngang nhau trong biểu quyết; tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi; chia
lãi bảo đảm kết hợp lợi ích của xã viên với sự phát triển của HTX, của cộng đồng và
do đại hội xã viên quyết định. Luật HTX 2003 đã khẳng định: HTX hoạt động như
một loại hình doanh nghiệp.
Thứ ba, quan hệ sở hữu và phân phối trong HTX. Khi gia nhập HTX mỗi xã

viên buộc phải góp vốn theo quy định của điều lệ, vốn góp có thể nhiều hơn mức tối
thiểu, nhưng không được vượt quá 30% tổng số vốn điều lệ của HTX. Cùng với vốn
góp của xã viên, vốn hoạt động của HTX còn bao gồm vốn được tích luỹ trong quá
trình hoạt động và các nguồn khác như: giá trị tài sản được cho, biếu, tặng. Phần
vốn góp của xã viên thuộc sở hữu của từng thành viên. Các nguồn vốn khác thuộc
sở hữu chung của HTX, quyền sử dụng toàn bộ tài sản thuộc về HTX. Sau khi làm
xong nghĩa vụ nộp thuế, lãi của HTX được phân phối như sau: thanh toán các khoản
bù lỗ trích lập các quỹ của HTX, chia lãi theo vốn góp và công sức đóng góp của xã
viên có tính đến mức độ sử dụng dịch vụ của HTX.
Thứ tư, xã viên HTX. Xã viên HTX có thể là cá nhân hoặc hộ gia đình hoặc
pháp nhân, mỗi xã viên có thể đồng thời là thành viên của nhiều HTX, không phân
biệt ngành nghề, địa giới, hành chính. Mỗi xã viên đều bình đẳng về quyền lợi và
nghĩa vụ bao gồm: quyền làm việc, hưởng lãi, tiếp nhận thông tin, đào tạo bồi
dưỡng, hưởng phúc lợi của HTX được phép chuyển các quyền lợi, nghĩa vụ của
mình cho người khác và xin ra khỏi HTX, được trả lại vốn góp và các quyền lợi
khác khi ra khỏi HTX. Mỗi xã viên có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ theo quy định
của điều lệ như: góp vốn vào HTX và chia sẻ mọi rủi ro của HTX theo mức vốn
đóng góp thực hiện cam kết kinh tế với HTX.
Thứ năm, quan hệ giữa HTX và xã viên. Quan hệ giữa các xã viên được xây
dựng chủ yếu trên cơ sở quan hệ kinh tế. Nó được xác lập từ nhu cầu phát triển sản
xuất, tăng thu nhập của các thành viên HTX. HTX tôn trọng quyền độc lập tự chủ
kinh tế của xã viên. Trong HTX nông nghiệp, xã viên là hộ, trang trại gia đình, hoặc
10
đại diện hộ, đó là những đơn vị kinh tế tự chủ tham gia vào HTX với trách nhiệm,
nghĩa vụ và lợi ích theo điều lệ quy định. Sự hình thành và phát triển HTX nông
nghiệp không phá vỡ tính độc lập tự chủ của kinh tế hộ trang trại gia đình, nó có tác
dụng tạo điều kiện phát triển tăng thu nhập cho kinh tế của hộ xã viên. Trên cơ sở
đó thúc đẩy sự phát triển của kinh tế HTX.
Thứ sáu, điều kiện thành lập, hoạt động và giải thể HTX. Khi thành lập HTX
phải có điều lệ, phương án sản xuất kinh doanh cụ thể có tính khả thi, được đại hội

xã viên thông qua và cơ quan có trách nhiệm phê duyệt. Trong trường hợp giải thể
tự nguyện theo nghị quyết đại hội xã viên hoặc bị buộc phải giải thể theo quyết định
của pháp luật. HTX phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với cơ quan có thẩm quyền. Đại
hội xã viên hoặc đại hội đại biểu xã viên có quyền quyết định cao nhất đối với mọi
hoạt động của HTX. HTX có quyền thiết lập quan hệ hợp tác với các HTX khác ở
trong nước và ngoài nước, tham gia tổ chức liên minh HTX Việt Nam theo quy định
của pháp luật.
Thứ bảy, HTX là một tổ chức kinh tế do các thành viên có nhu cầu tự nguyện
lập ra, nó không phải là một tổ chức xã hội. HTX hoạt động theo luật pháp quy định
trước hết vì mục tiêu kinh tế. HTX chỉ chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ xã hội đối
với các xã viên của chính HTX, không thể biến HTX thành tổ chức xã hội hoặc bắt
buộc HTX làm nhiệm vụ như một tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị của
địa phương.
Chính phủ thống nhất thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với HTX
trong phạm vi cả nước theo các nội dung sau: xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển HTX, ban hành điều lệ mẫu cho các loại hình
HTX, ban hành chính sách ưu đãi, hỗ trợ tạo điều kiện hoạt động cho HTX, liên
minh các HTX quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ ngành, các cấp
chính quyền, hội đồng nhân dân đối với HTX thực hiện chức năng thanh tra, kiểm
soát HTX theo quy định của pháp luật.
* Nguyên tắc hoạt động của HTX
Nguyên tắc của HTX được quy định bởi bản chất của HTX và nó cũng được
hình thành với lịch sử phát triển của HTX. Các quốc gia khác nhau vận dụng và cải
biến nguyên tắc HTX khác nhau sao cho phù hợp nhất đối với điều kiện, hoàn cảnh
của nước mình.
11
Năm 1995, Liên minh HTX quốc tế đã đưa ra khuyến cáo cho các thành viên
và các nước trên thế giới về định nghĩa, các giá trị và nguyên tắc của HTX. Các
nguyên tắc của HTX bao gồm:
Một là, tham gia tự nguyện và mở: theo nguyên tắc này các cá nhân, tổ chức

có thể tự do đưa ra quyết định của mình về vấn đề gia nhập cũng như rút khỏi HTX.
Việc gia nhập hay rút khỏi không bị cá nhân hay tổ chức nào ép buộc. Nguyên tắc
“mở”- hợp tác xã mở cho những người có cùng nhu cầu về kinh tế, văn hoá, xã hội,
thường sống trên cùng một lãnh thổ và không có sự phân biệt về dân tộc, sắc tộc
giới tính. Nguyên tắc mở ngày càng làm tăng số lượng người tham gia tự nguyện
vào HTX và tính tích cực của các HTX trên phạm vi ngày càng rộng.
Hai là, kiểm soát một cách dân chủ bởi các thành viên: hợp tác xã và các doanh
nghiệp trong hợp tác xã được quản lý dân chủ bởi tất cả các xã viên; mỗi xã viên là một
lá phiếu biểu quyết có quyền như nhau ngay cả trong quản lý cũng như lựa chọn
phương án hoạt động của HTX. Xã viên dù góp vốn ít hay nhiều đều được hưởng lợi
khi sản phẩm dịch vụ được tiêu thụ. Như vậy, lợi ích của HTX đều thuộc về xã viên,
lợi ích này được phân phối công bằng theo nhiều sự đóng góp khác nhau.
Ba là, tham gia kinh tế của các thành viên HTX- các xã viên khi tham gia
vào HTX đều phải góp vốn và bình đẳng trong việc kiểm soát dân chủ đối với vốn
của HTX. Các thành viên phân phối lãi của HTX cho một số mục đích sau: phát
triển HTX, xác lập dự trữ tài sản không chia, chia cho xã viên theo mức độ sử dụng
dịch vụ.
Bốn là, tự chủ độc lập. HTX là một tổ chức tự chủ, tụ giúp đỡ và được kiểm
soát bởi các thành viên. Khi ký hợp đồng hoặc huy động vốn từ bên ngoài, HTX
phải thực hiện các quy định đảm bảo thực hiện kiểm soát một cách dân chủ với các
xã viên và duy trì tính độc lập, tự chủ, tự quản, tự quyết định của HTX.
Năm là, giáo dục huấn luyện và thông tin. HTX có trách nhiệm giáo dục
huấn luyện và thông tin cần thiết cho cộng đồng thành viên của mình và cho đối tác
hợp tác. Khi thực hiện giáo dục, huấn luyện và thông tin sẽ làm cho thành viên ngày
càng đóng góp có hiệu quả hơn, nâng cao nhận thức của họ về phát triển HTX. Nền
nông nghiệp ở nước ta còn lạc hậu, sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún nên cần phải
đưa nguyên tắc này vào để góp phần phát triển đất nước.
12
Sáu là, hợp tác giữa các hợp tác. Các HTX trên cùng một địa phương, một
vùng, quốc gia cần phải có sự hợp tác với nhau để tăng sức cạnh tranh trên thị

trường, đáp ứng hiệu quả nhu cầu của các thành viên.
Bảy là, chăm lo cho cộng đồng. HTX đảm bảo cho sự phát triển của cộng
đồng thông qua các chính sách do chính thành viên của HTX quyết định bao gồm
các hoạt động phúc lợi, xã hội văn hoá nhằm cải thiện nâng cao đời sống cho cộng
đồng xã viên HTX. Nguyên tắc này góp phần phát triển đời sống cộng đồng dân cư
tại đại bàn, rút ngắn khoảng cách chệnh lệch giàu nghèo, giải quyết mâu thuẫn trong
cộng đồng xã viên.
Căn cứ vào đặc điểm, điều kiện kinh tế của nước ta, HTX ở nước ta đang
thực hiện 4 nguyên tắc đầu tiên. Các nguyên tắc tiếp theo đang dần được củng cố
trong quá trình hoạt động của nó.
2.1.1.3 Vai trò của hợp tác xã
Ở những nước tư bản, kinh tế HTX chỉ là kinh tế phụ song có vai trò đặc biệt
đối với nông dân. HTX giúp đỡ các chủ trang trại nông dân tồn tại trước những tác
động của kinh tế thị trường và ảnh hưởng của các tổ chức độc quyền lớn. Do vậy ngoài
mục tiêu kinh tế, HTX còn là loại hình kinh tế mang tính chất xã hội nhân đạo.
Thông qua hoạt động dịch vụ vai trò điều tiết của HTX nông nghiệp được thực
hiện, sản xuất của hộ nông dân được thực hiện theo hướng tập trung, tạo điều kiện
hình thành các vùng sản xuất tập trung chuyên môn hoá. Ví dụ dịch vụ làm đất, dịch
vụ tưới nước, dịch vụ bảo vệ thực vật, v.v đòi hỏi sản xuất của hộ nông dân phải
được thực hiện thống nhất trên từng cánh đồng và chủng loại giống, về thời vụ gieo
trồng và chăm sóc.
HTX là nơi tiếp nhận những trợ giúp của Nhà nước tới hộ nông dân. Vì vậy,
hoạt động của HTX làm cầu nối giữa Nhà nước với hộ nông dân một cách có hiệu
quả trong một số trường hợp. Khi có nhiều tổ chức tham gia hoạt động dịch vụ cho
hộ nông dân thì hoạt động của HTX là đối trọng buộc các đối tượng phải phục vụ
tốt cho nông dân.
HTXNN là hình thức kinh tế tập thể của nông dân, hoạt động của nó có tác
động to lớn tích cực đến hoạt động sản xuất của hộ nông dân. Nhờ có hoạt động của
HTX các yếu tố đầu vào và các khâu dịch vụ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp
13

được cung cấp kịp thời đầy đủ và đảm bảo chất lượng, các khâu sản xuất tiếp theo
được đảm bảo làm cho hiệu quả sản xuất của hộ nông dân được nâng lên.
2.1.1.4 Sự cần thiết của hợp tác xã trong nền kinh tế và trong quá trình CNH- HĐH
nông nghiệp nông thôn
Khi nền kinh tế thị trường được hình thành và ngày càng hiện đại thì kinh tế
hợp tác và hình thức hợp tác xã có còn cần thiết không? Con người có cần phải
tham gia vào hợp tác xã nữa hay không?
Để trả lời câu hỏi này, Bác Hồ đã đưa ra một ví dụ cụ thể chứng minh rằng
càng phát triển thì kinh tế hợp tác và hình thức hợp tác xã rất cần thiết. Đó là: người
sản xuất, nhất là nông dân được chia sẻ lợi ích phát sinh cả trong quá trình trao đổi,
tiêu thụ sản phẩm, tạo tiết kiệm cho xã hội thông qua giảm chi phí trung gian, tạo
lợi ích cho người tiêu dùng cuối cùng thông qua giá rẻ.
Công cuộc CNH- HĐH đất nước là mục tiêu phấn đấu để nhân dân ta thoát
khỏi cảnh đói nghèo. Trong sự nghiệp CNH- HĐH đất nước, CNH- HĐH nông
nghiệp nông thôn được xác định là nhiệm vụ trọng tâm để đạt được mục tiêu mà
Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Muốn CNH- HĐH nông nghiệp nông thôn, phát triển
tổ hợp tác, HTX là một nhu cầu tất yếu. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản
phẩm nông nghiệp, chúng ta phải phát triển HTXDVNN.
CNH- HĐH nông nghiệp nông thôn phấn đấu để nước ta trở thành nước công
nghiệp, cần tập trung hướng dẫn, vận động và có những chính sách, giải pháp
khuyến khích các hộ gia đình nông dân đi vào chuyển đổi, quy hoạch theo hướng
chuyên môn hóa sản xuất. Hiện nay, các hộ gia đình nông dân đang đi theo hướng
liên kết với nhau để làm ra nhiều loại sản phẩm. Thông qua mối liên kết này để thực
hiện chuyên môn hóa gia đình, tạo điều kiện tích tụ nguồn vốn, tăng thêm sức lao
động sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao công nghệ tạo điều kiện
tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, có thể nói cơ sở của CNH- HĐH nông nghiệp nông thôn
là chuyên môn hóa sản xuất dựa trên HTX.
Kinh tế hợp tác và hợp tác xã là đòi hỏi khách quan của sản xuất hàng hoá. Khi
sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, sự cạnh tranh trong kinh tế thị trường ngày càng
gay gắt. Những người lao động riêng lẻ, các hộ sản xuất cá thể ngày càng có yêu cầu liên

kết lại, hợp tác với nhau để đạt được nhu cầu chung về kinh tế- xã hội trong sản xuất
14
kinh doanh. Phát triển hinh tế hợp tác và hợp tác xã cũng là một phương thức để giải
quyết mâu thuẫn giữa sản xuất nhỏ, manh mún với sản xuất hàng hoá lớn nhằm đáp ứng
yêu cầu của quá trình CNH- HĐH.
Kinh tế hợp tác và HTX là nhân tố quan trọng để xây dựng và thiết lập quan
hệ sản xuất mới theo định hướng XHCN trong thời kỳ CNH- HĐH. HTX ngày càng
khẳng định vai trò quan trọng của nó trong phát triển kinh tế ở nông thôn. Thông
qua HTX, các xã viên, hộ nông dân nhận sự hỗ trợ của Nhà nước để phát triển kinh
tế. Vì vậy, phát triển HTX là cần thiết và phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị
trường, CNH- HĐH nông nghiệp nông thôn ở nước ta.
2.1.1.5 Một số yếu tố tác động đến phát triển HTX trong thời kỳ CNH- HĐH nông
nghiệp nông thôn
* Nhân tố pháp lý: năm 1996, Luật HTX ra đời và trở thành văn kiện có tính
chất cơ bản, quan trọng của Nhà nước. Luật HTX và các văn bản có liên quan, văn
bản hướng dẫn thực hiện Luật đã tạo điều kiện hành lang pháp lý để HTX hình
thành, hoạt động và phát triển. Các văn bản liên quan đến HTX nhằm mục đích hỗ
trợ, hướng dẫn và quản lý HTX theo Luật có hiệu quả. Mẫu và điều lệ HTX được
ban hành theo quy định của Luật với những điều khoản cụ thể nhưng các HTX được
phép điều chỉnh sao cho phù hợp với điều kiện của mình. Năm 2003, cùng với sự
phát triển kinh tế, Luật HTX năm 1996 có một số nội dung không còn phù hợp nữa.
Quốc hội nước ta đã họp và tiến hành sửa đổi Luật HTX. Luật HTX được sửa đổi
và hoàn thành năm 2003 và có hiệu lực năm 2004. Theo đó, các HTX thực hiện
chuyển đổi HTX kiểu cũ sang HTX kiểu mới.
* Nhân tố kinh tế: bao gồm các nhân tố về trình độ phát triển và năng lực kinh
tế hộ, trình độ phát triển sản xuất hàng hóa nông nghiệp, cơ chế vận hành kinh tế
HTX phải kịp thời nắm bắt thông tin, dự báo tình hình cung cầu nông sản để lựa chọn
sản phẩm mà thị trường cần. Các HTX đã lựa chọn các ngành kinh doanh được Nhà
nước ưu đãi về thuế, linh hoạt tránh những nhân tố bất lợi để nâng cao hiệu quả và thu
nhập cho xã viên. Ngoài ra, cán bộ HTX cần nắm chắc lợi thế của mình, khả năng kinh

doanh của các đối thủ nhằm tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. HTX cần tiến hành
15
liên kết với nhau, với các doanh nghiệp trên cơ sở cùng có lợi để phát triển kinh tế
nông thôn.
* Nhân tố khoa học công nghệ: khoa học công nghệ là điều kiện quyết định
trình độ về năng lực quản lý, sản xuất để nâng cao năng suất và chất lượng nông
sản, tăng cường sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
* Nhân tố văn hóa: là cơ sở để nhận thức và vận dụng các nhân tố tác động
đến HTX và cuộc sống của xã viên. Văn hóa HTX là văn hóa cộng đồng, cùng chia
sẻ lợi ích và trách nhiệm một cách tự nguyện, bình đẳng.
Ngoài ra, quá trình phát triển HTX còn ảnh hưởng bởi một số nhân tố khác
như tâm lý xã hội, mức sống và đời sống của người dân trên địa bàn.
2.1.2 Lý luận về CNH- HĐH
2.1.2.1 Quan niệm về công nghiệp hoá- hiên đại hoá
Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới năm 1986, cùng với việc từng bước phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, giải phóng các lực lượng sản xuất,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, Đảng và Nhà nước đã xác định ngày càng rõ quan điểm mới về công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Cuối thế kỷ 20, Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra công nghiệp hoá, hiện đại
hoá là một quá trình gắn bó chặt chẽ, thống nhất với nhau. Nó là hai quá trình nhỏ
có phần lồng vào nhau không phải là hai quá trình tuy có phần lồng vào nhau
nhưng về cơ bản vẫn tách biệt và nối tiếp nhau, mà là một quá trình thống nhất, có
thể tóm tắt là công nghiệp hoá theo hướng hiện đại.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 Khoá VII của Đảng ta (1994) chỉ rõ:
CNH- HĐH là quá trình chuyển đổi toàn diện trên tất cả các ngành kinh tế, chuyển
từ thủ công sang hiện đại hóa phù hợp với điều kiện kinh tế, hoàn cảnh của mỗi địa
phương, nâng cao đời sống của người dân.
Coi sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta trong thời kỳ đổi mới là một cuộc cách
mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế- xã hội, tại Đại hội

Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996), khi thông qua đường lối đẩy mạnh CNH,
HĐH, Đảng ta nhấn mạnh: Mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng nước ta thành một
16
nước công nghiệp có cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật
chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh. Tại Đại hội này, Đảng ta cũng xác định rõ mục tiêu “phấn đấu
đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”. Cùng với những
thành tựu phát triển quan trọng đạt được sau 10 năm đổi mới, sự xác định rõ ràng hơn
về chủ trương đã tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta đẩy mạnh CNH, HĐH.
Đảng ta đề ra mục tiêu “phấn đấu trong giai đoạn 2001-2010 đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại”. Điều này hứa hẹn mở ra những bước đột phá trong
nhiều lĩnh vực kinh tế- xã hội, góp phần thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
2.1.2.2 Quan niệm về công nghiệp hoá- hiên đại hoá nông nghiệp nông thôn
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề CNH- HĐH nông
nghiệp, nông thôn. Người cho đó là con đường tất yếu phải đi để xây dựng đất nước
giàu mạnh. Vận dụng sáng tạo những điều Bác dạy, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
đã từng bước thực hiện thành công sự nghiệp vĩ đại này.
Trong bài “Con đường phía trước” với bút danh C.K đăng trên Báo Nhân
dân số 2143 ngày 20/1/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:
Nước ta vốn là nước nông nghiệp lạc hậu, đó là chỗ bắt đầu đi của chúng ta
Đời sống nhân dân chỉ có thể dồi dào khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất một
cách rộng rãi: dùng máy móc cả trong công nghiệp và nông nghiệp, máy sẽ chắp
thêm tay cho người, làm cho sức người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người
làm việc phi thường , đó là con đường phải đi của chúng ta.
* Sự cần thiết phải tiến hành CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta
Nước ta đang trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đặc điểm to

nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Do đó,
chúng ta phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, mới tạo tiền
17
đề vững chắc để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Bởi nông nghiệp, nông thôn là khu vực đông dân cư nhất, lại có trình độ phát
triển nhìn chung là thấp nhất so với các khu vực khác của nền kinh tế. Nông dân
chiếm hơn 70% dân số và hơn 76% lực lượng lao động cả nước, đóng góp từ 24,6%
GDP của cả nước (2007). Đảng ta coi đây là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, còn
vì nông dân, nông thôn Việt Nam có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp cách mạng
của đất nước trước đây và trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
* Nội dung của CNH- HĐH nông nghiệp nông thôn
Ngay từ Đại hội Đảng lần thứ VIII, Đảng ta đã quyết định và chỉ đạo phải
luôn luôn coi trọng và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn. Đặc biệt, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa IX chỉ rõ nội dung tổng quát của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn ở nước ta giai đoạn 2001 - 2020 là:
- Là quá trình chuyển dịch kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng
hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hóa, hiện đại
hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu khoa học đưa vào sản xuất nhằm nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên
thị trường.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản
phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm
và lao động nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch và
phát triển nông thôn, tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp;
xây dựng nông thôn dân chủ, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
văn hóa của nông dân nông thôn.
Tới Đại hội X, Đảng ta xác định: "Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề
nông nghiệp, nông dân và nông thôn vẫn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng.

Phải luôn luôn coi trọng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn, đưa kinh tế hợp tác, hợp tác xã ra khỏi tình trạng yếu kém và có đóng
góp ngày càng lớn trong GDP của nền kinh tế".
18
Tóm lại, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
chính là từng bước để phát triển nông thôn Việt Nam theo hướng hiện đại, xóa dần
khoảng cách giữa thành thị với nông thôn. [33]
2.1.3 Mối quan hệ giữa hợp tác xã và quá trình CNH- HĐH nông nghiệp nông thôn
Trong thời kỳ CNH- HĐH đất nước, ưu tiên đẩy mạnh CNH- HĐH nông
nghiệp nông thôn, HTXNN vẫn là một thành phần kinh tế có hiệu quả, nó là tiền đề
của CNH- HĐH. Như vậy, CNH- HĐH và HTX có mối quan hệ qua lại với nhau.
Mối quan hệ này được thể hiện ở một số nét sau:
Phát triển HTX nông nghiệp tạo ra sự phân công lao động và hình thành các
tổ chức lao động mới. Nó vừa làm tăng năng suất lao động, năng suất nông nghiệp;
vừa tạo điều kiện để chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang hoạt động ở các
ngành công nghiệp và dịch vụ. Từ đó, nó thúc đẩy phát triển công nghiệp và dịch vụ
ngay tại khu vực nông thôn. Đây cũng là một nội dung quan trọng của quá trình
CNH- HĐH nông nghiệp nông thôn.
HTX nông nghiệp phát triển cùng với vốn góp của các xã viên đã làm tăng
khả năng hoạt động kinh doanh của các HTX, đồng thời tạo điều kiện cho các HTX
có vốn đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất- kỹ thuật, áp dụng các tiến
bộ khoa học kỹ thuật công nghệ mới phù hợp.
Phát triển HTX ngày càng nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm nông
nghiệp, sản phẩm nông nghiệp sản xuất ra ngày càng có chất lượng tốt hơn, đáp ứng
được nhu cầu của thị trường. Nền nông nghiệp chuyển dần từ nhỏ lẻ, manh mún
phân tán, mang nặng tính tự cấp tự túc sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá có
quy mô ngày càng lớn.
HTX là tổ chức kinh tế của người nông dân, đây là nơi mà người nông dân
có thể nâng cao trình độ của mình, nơi rèn luyện và đào tạo nên những người cán bộ
quản trị kinh doanh đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế thị trường và hội nhập

kinh tế trong thời kỳ CNH- HĐH.
Quá trình hội nhập kinh tế và CNH- HĐH ngày càng đòi hỏi phải có sự hợp
tác ở nhiều khâu khác nhau. Hội nhập kinh tế và CNH- HĐH cũng tạo điều kiện để
thúc đẩy và hỗ trợ HTX phát triển, đây là nguồn trang bị phương tiện kỹ thuật và
19
công nghệ phù hợp cho HTX để nó có thể hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng
có hiệu quả hơn.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Một số mô hình hợp tác xã nông nghiệp ở một số nước trên thế giới
2.2.1.1 Hợp tác xã ở Hàn Quốc
Liên đoàn Hợp tác xã nông nghiệp Hàn Quốc (NACF) thành lập vào năm
1961, trên cơ sở 2 tổ chức là Ngân hàng nông nghiệp và tổ chức hợp tác xã cũ. Liên
đoàn hợp tác xã hoạt động trên 4 lĩnh vực chính là: cung cấp tín dụng, cung cấp
phân bón, cung cấp hoá chất nông nghiệp và cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, hoạt
động xúc tiến thương mại, thông tin thị trường.
Từ năm 1980, Liên đoàn HTX Nông nghiệp Quốc gia trở thành cơ quan
đứng đầu hệ thống HTX. Chủ nhiệm HTX do xã viên bầu ra; Chủ tịch và Kiểm toán
viên chính của NACF do chủ nhiệm các HTX bầu ra. Năm 1998, số lượng cán bộ
làm việc trong Liên đoàn đã có 17.000 người, làm việc tại 4 quốc gia khác nhau, 17
trụ sở vùng, 156 trụ sở tại các thành phố, 701 trụ sở trên toàn quốc, 10 trung tâm
đào tạo và 22 trung tâm tiếp thị thương mại. Liên đoàn có 1200 HTX thành viên và
hơn 10.000 trung tâm kinh doanh về nông sản, vận tải, hoá chất, máy móc công cụ
và 51.000 cán bộ làm việc cho các hợp tác xã thành viên.
Hoạt động của Liên đoàn đa dạng và phong phú, phục vụ cho hơn 5 triệu
nông dân và cộng đồng nông thôn.
Như vậy, từ một tổ chức áp đặt, bắt buộc, hiện nay toàn bộ người nông dân
Hàn Quốc đã tự nguyện tham gia vào hợp tác xã. Họ tự giác trở thành xã viên của
HTX. Liên đoàn HTX có vai trò ngày càng quan trọng và không thể thiếu trong quá
trình phát triển sản xuất và cạnh tranh thắng lợi của nông dân Hàn Quốc trong nền
kinh tế toàn cầu hoá. [11]

2.2.1.2 Hợp tác xã nông nghiệp ở Nhật Bản
Trước năm 1945, Nhật Bản đã có tổ chức HTXNN nhưng chỉ tập trung phục
vụ cho chiến tranh. Năm 1947, các HTXNN do nông dân tổ chức ra theo nguyên tắc
tự nhuyện và dân chủ theo Bộ Luật HTX. Đến năm 1967, Chính phủ Nhật Bản ban
hành chính sách về HTX để phát triển nông nghiệp. Gắn với lịch sử, hệ thống HTX
20
Nhật luôn có sự thay đổi để đối phó với khó khăn thách thức mới, thúc đẩy sản
xuất bảo vệ quyền lợi của nông dân và đáp ứng yêu cầu của Chính phủ.
Các hộ xã viên đóng góp cổ phần và thông qua đại hội xã viên bầu ra Ban
quản lý HTX. Các hoạt động kinh tế của hộ xã viên được HTX quản lý theo nguyên
tắc tự nguyện liên kết, hoạt động có tổ chức. Hệ thống HTX nông nghiệp ở Nhật
được phân làm 3 cấp, hoạt động dựa vào sự hợp tác giữa các HTX nông nghiệp cơ
sở, cấp tỉnh và trung ương.
Hầu hết nông dân Nhật hiện nay đều tham gia vào HTX. Tính đến năm 1998,
ở Nhật đã có 9.123 nghìn xã viên với 2.112 HTX nông nghiệp. Trung bình, mỗi
HTX có khoảng 4.106 xã viên bao gồm cả xã viên chính thức và không chính thức.
Theo Luật quy định, mỗi xã viên ở Nhật bản phải có ít nhất 10arce đất canh tác và
làm nông nghiệp ít nhất là 90 ngày/ năm. Mỗi thành viên chính thức phải đóng góp
khoảng 1.380 USD. Mỗi HTX có vốn đầu tư trung bình vào khoảng 5 triệu USD,
tổng vốn đầu tư của các HTX vào khoảng 12,2 tỷ USD.
Ở Nhật Bản, HTX nông nghiệp được chia làm hai loại: HTX nông nghiệp đa
chức năng và HTX đơn chức năng. Tính đến năm 2000, hầu hết các HTX đơn chức
năng hoạt động kém hiệu quả đều bị giải tán hoặc sáp nhập với HTX đa chức năng.
Số lượng HTX đa chức năng cũng chỉ còn 570 HTX, giảm gần 4 lần so với năm
1996 (2.284 HTX đa chức năng). HTX nông nghiệp làm các dịch vụ phục vụ đầu
vào, đầu ra của sản xuất nông nghiệp và đời sống nông dân như: cung ứng phân
bón, hỗ trợ tín dụng cho người nông dân, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, hàng tiêu
dùng. [1]
Nói tóm lại, HTX nông nghiệp Nhật Bản là một tổ chức kinh tế phục vụ đắc lực
cho nhu cầu của người nông dân. Đây là lý do mà hầu hết nông dân trở thành xã viên

HTX. HTX nông nghiệp ở Nhật Bản tiến hành hợp tác trong phân phối mà không hợp
tác trong sản xuất như ở Hàn Quốc và Đài Loan.
2.2.1.3 Hợp tác xã ở Hà Lan
Các HTX dịch vụ phục vụ nông nghiệp ở Hà Lan ra đời từ cuối thế kỷ 19 khi
kinh tế trang trại bắt đầu đi vào sản xuất hàng hoá và liên tục phát triển cho đến nay.
HTX cung ứng đầu tiên ra đời từ năm 1877, HTX sữa từ năm 1886, HTX tiêu thụ
21
rau quả từ năm 1887, năm 1896 HTX tín dụng nông nghiệp đầu tiên được thành lập
cùng với HTX chế biến củ cải đường và bột.
Đến thời kỳ 1939- 1945 mạng lưới HTX dịch vụ nông nghiệp và nghề làm
vườn ra đời HTX chuyên ngành theo từng loại sản phẩm. Hộ nông dân thường tham
gia vào 3- 4 HTX khác nhau.
Trong quá trình phát triển, các HTX trong nửa thế kỷ gần đây giảm nhiều về
số lượng. Cụ thể, HTX tín dụng từ 1.332 cơ sở giảm xuống còn 935 cơ sở; HTX
cung ứng từ 1.160 cơ sở giảm xuống còn 107 cơ sở (1949- 1950). Việc giảm số
lượng HTX để tập trung nguồn vốn và các điều kiện khác tạo năng lực kinh doanh,
hiệu quả dịch vụ của HTX đối với nông dân, tạo ưu thế cạnh tranh của HTX trên thị
trường trong và ngoài nước.
Kim ngạch xuất khẩu nông sản có sự tham giá của các HTX chiếm 25% khối
lượng tham gia kim ngạch xuất khẩu của Hà Lan. Các mặt hàng tham gia xuất khẩu
chủ yếu là thịt bò, gia cầm, sữa, trứng, rau quả, hoa tươi. Riêng hoa tươi Hà Lan
chiếm 60% thị trường thế giới.[28]
2.2.1.4 Hợp tác xã ở Thái Lan
Ở Thái Lan, HTX tín dụng nông thôn được thành lập từ lâu và ngày càng
phát triển rộng khắp trên cả nước. Cùng với sự phát triển của các HTX tiêu dùng,
các loại hình HTX nông nghiệp, công nghiệp cũng được phát triển mạnh và trở
thành một trong những yếu tố quan trọng trong việc phát triển kinh tế của đất nước,
giữ vững ổn định xã hội.
Năm 2001, Thái Lan có 5.611 HTX các loại với hơn 8 triệu xã viên, trong đó có
3.370 HTX nông nghiệp với hơn 4 triệu xã viên; 100 HTX đất đai với hơn 147 nghìn xã

viên; 76 HTX thủy sản với hơn 13 nghìn xã viên; 1.296 HTX tín dụng với hơn 2 triệu xã
viên; 400 HTX dịch vụ với hơn 146 nghìn xã viên.
Liên đoàn HTX Thái Lan (CLT) được thành lập, là tổ chức HTX cấp cao
quốc gia, thực hiện chức năng đại diện, hỗ trợ, giáo dục và bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của các HTX và xã viên theo luật định.
Hiện nay, Thái Lan có một số mô hình HTX tiêu biểu: HTX nông nghiệp và
HTX tín dụng. Hiện nay, số HTX tham gia hoạt động tín dụng chiếm khoảng 39%.
22
Để tạo điều kiện cho khu vực HTX phát triển và khuyến khích xuất khẩu, Chính
phủ Thái Lan đã ban hành nhiều chính sách thiết thực như chính sách giá, tín dụng nhằm
khuyến khích nông dân phát triển sản xuất. Trong giai đoạn 2002- 2004, Chính phủ đã
dành 134 tỷ Bạt để cải thiện và phát triển HTX, bao gồm phát triển sản phẩm mới, giống
công nghệ sinh học, mở rộng tưới tiêu. Ngân hàng các HTX Nông nghiệp và nông thôn
Thái Lan đã dành 2 tỷ Bạt để khuyến khích xã viên các HTX sản xuất- kinh doanh. Ngoài
ra, Chính phủ đã thành lập Bộ Nông nghiệp và HTX, trong đó có 2 vụ chuyên trách về
HTX là Vụ phát triển HTX và Vụ kiểm toán HTX. Vụ phát triển HTX đóng vai trò quan
trọng trong việc giúp đỡ các HTX thực hiện các hoạt động kinh doanh, nhằm đạt được các
mục tiêu do các HTX đề ra. Vụ kiểm toán HTX thực hiện chức năng kiểm toán HTX và
hướng dẫn nghiệp vụ kế toán trong công tác quản lý tài chính, kế toán HTX. Hàng năm,
Liên đoàn HTX Thái Lan tổ chức hội nghị toàn thể với sự tham gia của các đại diện từ các
loại hình HTX trong cả nước và đại diện các cơ quan của Chính phủ liên quan đến tổ chức
HTX. Sự hỗ trợ, giúp đỡ của Chính phủ Thái Lan thực sự có hiệu quả trong việc hoạch
định các chính sách đối với phát triển khu vực HTX. [32]
2.2.1.5 Hợp tác xã ở Malaixia
Ở Malaixia, các tổ chức HTX được thành lập từ những năm đầu của thế kỷ
XX. Hiện nay, tổ chức HTX đang là một trong những động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế của đất nước. Tổ chức HTX Malaixia (ANGKASA) là tổ chức cấp cao
của các HTX Malaixia. ANGKASA có nhiệm vụ hỗ trợ các HTX thành viên về
phương thức điều hành và quản lý các hoạt động của HTX bằng cách tư vấn, giáo
dục hoặc tổ chức những dịch vụ cần thiết. Hiện nay, ANGKASA có 4.049 HTX các

loại với 4,33 triệu xã viên, trong đó, HTX tín dụng và ngân hàng có 442 HTX với
1,32 triệu xã viên; HTX nông nghiệp có 205 HTX với 0,19 triệu xã viên; HTX xây
dựng nhà ở có 103 HTX với 0,07 triệu xã viên; HTX công nghiệp có 51 HTX với
0,01 triệu xã viên; HTX tiêu dùng có 2.359 HTX với 2 triệu xã viên; HTX dịch vụ
có 362 HTX với 0,14 triệu xã viên v.v Sự phát triển vững chắc của các khu vực
kinh tế HTX đã thúc đẩy nền kinh tế Malaixia có bước phát triển mới.
Các nguyên tắc của HTX được ANGKASA nêu cụ thể như sau: quản lý dân
chủ; thành viên tự nguyện; thu nhập bình đẳng; phân phối lợi nhuận kinh doanh
23
theo mức độ sử dụng các dịch vụ của các xã viên và mức đóng góp cổ phần của xã
viên; hoàn trả vốn theo mức đầu tư; xúc tiến công tác đào tạo phổ cập kiến thức
quản lý và khoa học kỹ thuật nông nghiệp cho các xã viên.
Năm 1922, Pháp lệnh đầu tiên về HTX của Nhà nước Malaixia ra đời. Sau
đó, năm 1993, Luật HTX ra đời, là khung khổ pháp lý để các HTX hoạt động, đồng
thời xây dựng kế hoạch phát triển và đào tạo cán bộ quản lý HTX, củng cố quyền
của xã viên cũng như công tác đào tạo xã viên. Luật cũng quy định việc kiểm toán
nội bộ và xây dựng báo cáo toàn diện của Ban chủ nhiệm HTX trong Đại hội xã
viên thường kỳ hàng năm. Đặc biệt, Chính phủ Malaixia đã thành lập Cục Phát triển
HTX với một số hoạt động chính như: Quản lý và giám sát các hoạt động của HTX;
Giúp đỡ tài chính và cơ sở hạ tầng để HTX có thể tồn tại hoạt động; Xây dựng kế
hoạch phát triển HTX, kế hoạch đào tạo cán bộ quản lý. [32]
2.2.1.6 HTX ở Ixaren
Các HTX ở Ixaren hình thành tự phát trong cộng đồng người nhập cư. Năm
2005, Ixaren có khoảng 1.727 HTXNN hoạt động dưới các hình thức: HTXNN đa năng
và HTXNN theo làng.
HTXNN đa năng đầu tiên được thành lập năm 1910. Đến năm 1998 đã có 277
HTXNN đa năng với 117.000 xã viên. HTXNN theo làng (60- 100 hộ gia đình) đầu tiên
được thành lập năm 1921. Năm 2005 có 450 HTX sản xuất 44% sản lượng nông nghiệp,
55% kim ngạch nông sản xuất khẩu; số xã viên chiếm 3,4% dân số Ixaren.
Trong những năm gần đây, các HTX ở Ixaren đang gặp khó khăn do chi phí lớn,

sản phẩm kém sức cạnh tranh. Do vậy, Chính phủ phải hỗ trợ cho các HTX bằng cách
giảm thuế, thành lập các tổ chức tái cơ cấu lại theo hướng kinh doanh có hiệu quả. Tuy
nhiên các HTXNN Ixaren vẫn đeo khoản nợ khá lớn (12 tỷ NIS) và chưa giải quyết được
các vấn đề nảy sinh do sở hữu chung về vốn góp, tài sản, mức tham gia dịch vụ. [30]
2.2.1.7 HTX ở Mỹ
HTXNN được thành lập nhằm phổ biến kiến thức nông nghiệp cho nông dân trên
cơ sở tự nguyện có sự giúp đỡ về mọi mặt của nông nghiệp, là một trong những
tổ chức quan trọng tạo nên một nền nông nghiệp phát triển cao và hiệu quả.
HTX có vai trò đặc biệt quan trọng trong ngành nông nghiệp Mỹ. Năm
2002, có 3.140 HTX nông nghiệp cung cấp cho khoảng 3,1 triệu nông dân (trong
24
đó có nhiều nông dân là xã viên của hơn một HTX). HTXNN ở Mỹ phát triển tốt
3 loại hình hoạt động có hiệu quả là tiếp thị nông sản, cung ứng nguyên vật liệu,
cung cấp dịch vụ cho xã viên.
Các HTX ở Mỹ được liên kết với nhau theo 3 cấp: cơ sở với xã viên là hộ nông
dân, các HTX liên kết theo khu vực, liên kết giữa nông dân và HTX.
Đến nay, HTX đóng vai trò quan trọng trong phân phối lương thực, nâng cao khả
năng tiếp thị cho nông dân và trợ giúp tín dụng cho nông dân gặp khó khăn.[10]
2.2.1.8 Bài học kinh nghiệm rút ra
Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển các hình thức tổ chức và quản
lý HTX của một số quốc gia trên thế giới, có thể rút ra một số nhận xét và bài học
kinh nghiệm vận dụng vào Việt Nam như sau:
* Một số nhận xét:
Thứ nhất, trong quá trình phát triển kinh tế hàng hoá của kinh tế nông hộ và
kinh tế trang trại, phát triển kinh tế hợp tác và HTX là một đòi hỏi tất yếu và cần
thiết. Đây là xu thế chung của các quốc gia trên thế giới. Kinh tế hợp tác và HTX
trong nông nghiệp chỉ đạt được hiệu quả khi có sự hợp tác ở các khâu gián tiếp-
diễn ra trước và sau của quá trình sản xuất. Các nước này lấy hoạt động các khâu
dịch vụ cung cấp giống, vật tư nông nghiệp, nước, khoa học kỹ thuật, chế biến và
tiêu thụ sản phẩm, vốn để tạo điều kiện cho kinh tế hộ và trang trại phát triển.

Thứ hai, các mô hình HTX đều có sự tương đồng về mục tiêu hoạt động.
Biểu hiện cụ thể như việc nâng cao năng lực của các nông hộ và các trang trại, bảo
vệ các hộ có quy mô sản xuất nhỏ nhằm đẩy mạnh quá trình sản xuất hàng hoá và
dịch vụ; bảo vệ lợi ích cho xã viên. Các HTX còn tiến hành cải tiến và nâng cao
trình độ của các cán bộ quản lý thông qua hình thức thi tuyển, đào tạo cán bộ; xây
dựng và tu sửa hệ thống cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng nông thôn; nâng cao trình độ
marketing để tăng khả năng cạnh tranh của nông sản trên thị trường; sử dụng hợp lý
nguồn vốn tài trợ góp phần phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn.
Thứ ba, ở các quốc gia trên thế giới, HTX có nhiều loại hình đa dạng và
phong phú như HTX cung ứng, HTX dịch vụ; HTX tín dụng. Cùng với sự phát triển
kinh tế cao, các loại hình HTX này ngày càng có tính chất chuyên sâu, chuyên môn
hoá hơn. Các HTX không chỉ chú trọng vào hoạt động phục vụ khâu đầu vào cho
25

×