Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Ảnh hưởng của phật giáo đối với đời sống tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân miền tây nam bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.89 KB, 20 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phật giáo với cái đích là cứu con người thốt khỏi nỗi khổ mn
đời, cứu cánh là giải thốt. Nhìn bề ngồi nó chỉ bàn về nhân sinh, nhưng để
cho những quan niệm nhân sinh này tồn tại một cách vững chãi, trãi dài hơn
2500 năm thì chúng ta phải dựa trên một cơ sở triết học, một nền tảng lý luận
vô cùng sâu sắc.
Phật giáo đã đến với người Việt Nam từ rất lâu đời, vào khoảng nửa
cuối thế kỷ thứ I. Do bản chất từ bi, đạo Phật đã nhanh chóng tìm được chỗ
đứng và bám rễ vững chắc trên mảnh đất này.
Từ khi vào Việt Nam, đạo Phật đã có ảnh hưởng sâu sắc đến đời
sống tinh thần của người Việt nói chung, quần chúng nhân dân ở Miền tây
Nam bộ nói riêng. Bởi vì các triết lý nhà Phật xuất phát từ tâm tư và nguyện
vọng của người dân lao động, nên số người theo đạo Phật tăng lên rất nhanh
theo thời gian. Trong thời đại ngày nay, Phật giáo cũng như nhiều tơn giáo
khác đang có nhiều vấn đề đặt ra trong mối quan hệ nội sinh, các quan hệ đối
ngoại giữa các tôn giáo cũng như mối quan hệ giữa tôn giáo với Nhà nước.
Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách về tơn giáo, tín ngưỡng tôn giáo,
nhằm thực hiện phương châm “tốt đời đẹp đạo”.
Ở mảnh đất Miền tây Nam bộ, từ thế kỷ XVII, các cư dân ở nhiều
nơi đã hội tụ về đây sinh sống. Cũng từ đây, Phật giáo hình thành, phát triển,
và có vai trị quan trọng đến đời sống tinh thần của một bộ phận quần chúng
nhân dân ở Miền tây Nam bộ. Đề tài: “Ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời
sống tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân Miền tây Nam bộ”
giúp người viết hiểu hơn về một trường phái triết học lớn và tìm hiểu truyền
thống văn hóa, tín ngưỡng của tổ tiên để lại.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tư tưởng cơ bản của triết học
Phật giáo, ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần.


Phạm vi nghiên cứu: chỉ nghiên cứu những tư tưởng triết học Phật
giáo cơ bản và sự ảnh hưởng của Phật giáo trong một lĩnh vực (đời sống tinh
thần), trong phạm vi một vùng (Miền tây Nam bộ).
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tiểu luận là phương pháp tổng hợp các
phương pháp của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Đặc biệt là sử dụng phương pháp logic, phân tích và tổng hợp gắn với lý luận
thực tiễn để thực hiện đề tài.
4. Cấu trúc
Phần mở đầu
Phần nội dung
Chương 1: Sự ra đời của Phật giáo và những tưởng của triết học Phật giáo.


2

1.1. Sự ra đời của Phật giáo
1.2. Những tư tưởng triết học cơ bản của phật giáo
Chương 2: Ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần của một bộ
phận dân cư ở Miền Tây Nam bộ.
2.1. Sinh hoạt Phật giáo ở Nam bộ
2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần của một bộ
phận dân cư ở Miền tây Nam bộ
2.2.1. Ảnh hưởng của Phật giáo về mặt tư tưởng và đạo lý
2.2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo qua phong tục, tập quán
2.2.3. Ảnh hưởng của Phật giáo qua các loại hình văn hố, nghệ thuật.
Phần kết luận
Tài liệu tham khảo

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1: Sự ra đời của Phật giáo và những tư tưởng của triết học Phật
giáo
1.1. Sự ra đời của Phật giáo
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời của Phật giáo
Điều kiện thiên nhiên Ấn Độ rất phức tạp. Địa hình vừa có
nhiều núi non, vừa có nhiều sơng ngịi với nhiều đồng bằng trù phú, có vùng
nóng ẩm mưa nhiều, có vùng lạnh giá quanh năm tuyết phủ, lại có những
vùng sa mạc khơ cằn, nóng nực. Tính đa dạng và khắc nghiệt của điều kiện tự
nhiên và khí hậu là những thế lực tự nhiên đè nặng lên đời sống và ghi dấu ấn
đậm nét lên tâm trí người dân Ấn Độ cổ.
Xã hội Ấn Độ cổ đại là một xã hội rất sớm, khoảng thế kỷ thứ
XXV TCN đã xuất hiện nền văn minh đầu tiên là văn minh sông Ấn . Đến thế
kỷ XV TCN, có sự xâm nhập của người Arya vào khu vực của người bản địa
(người Dravida) hình thành nên các quốc gia Ấn Độ tạo nên nền văn hóa mới
gọi là văn hóa Véda.
Đặc điểm nỗi bậc của nền kinh tế - xã hội Ấn Độ cổ là sự tồn
tại rất sớm và kéo dài của kết cấu kinh tế - xã hội theo mơ hình “Công xã
nông thôn” mà đặc trưng của kết cấu này là ruộng đất thuộc quyền sở hữu của
Nhà nước của các Đế Vương , mà gắn liền với nó là sự bần cùng hóa của
người dân trong cơng xã. Xã hội thời kỳ này được phân chia thành 4 đẳng cấp
lớn là : Tăng lữ, Quý tộc, Bình dân tự do, Nơ lệ cung đình. Sự phân chia đẳng
cấp đó làm cho xã hội xuất hiện những mâu thuẫn gay gắt dẫn đến cuộc đấu
tranh giai cấp giữa các đẳng cấp trong xã hội. Trong cuộc đấu tranh ấy , nhiều
tôn giáo và trường phái triết học đã ra đời, trong đó có Phật giáo.
Sự xuất hiện của Phật giáo vào thế kỷ VI trước CN không tách
rời cuộc đấu tranh ấy, cũng như không tách rời sự phát triển của xã hội Ấn Độ
lúc bấy giờ. Phật giáo ra đời trong làn sóng phản đối sự ngự trị của đạo Bà-lamôn và chế độ đẳng cấp. Phật giáo lý giải căn ngun nỗi khổ và tìm đường
giải thốt cho con người khỏi nỗi khổ triền miên, đè nặng trong xã hội nô lệ



3

Ấn Độ. Vì chống lại sự ngự trị của đạo Bà-la-môn, đặc biệt là chống lại quan
điểm của kinh Vêđa, nên Phật giáo được xem là dịng triết học khơng chính
thống. Phật giáo ra đời trước bối cảnh lịch sử của Ấn Độ có một nền triết học
chịu ảnh hưởng lớn của tư tưởng tơn giáo và ít có cuộc cách mạng lớn trong
triết học. Trong triết học Ấn Độ, quan điểm duy vật và quan điểm duy tâm
thường đan xen với nhau trong một hệ thống triết học cũng như trong tư
tưởng của một nhà triết học.
Ở một phương diện khác, xã hội đã xuất hiện tư tưởng hoài
nghi, phủ nhận tất cả những giá trị tôn giáo, nhân quả, đạo đức. Các phong
trào tư tưởng đó hoặc dung hòa, hoặc xung đột lẫn nhau làm cho nền học
thuyết triết học Ấn Độ lâm vào một tình trạng rối ren. Sống dưới một xã hội
có thể chế giai cấp đầy bất công, tư tưởng tôn giáo lại rối ren, con người
khơng biết tin tưởng, bám víu vào đâu. Giữa hoàn cảnh bế tắc ấy, Đức phật
xuất hiện như một mặt trời sưởi ấm buổi ban mai, làm tan đi bóng tối đen dày
đặc đã từ lâu che phủ cuộc đời. Ngài không chỉ là vị cứu tinh cho xứ Ấn Độ
thời bấy giờ, mà còn là người vạch ra hướng đi mới cho nhân loại.
1.1.2. Thân thế và sự nghiệp của Đức phật Thích ca
Người sáng lập ra Phật giáo là Thích ca Mâu Ni, tên thật là Tất
Đạt Đa (Siddhattha), họ là Cù Đàm (Goutama), thuộc bộ tộc Sakya. Tất Đạt
Đa sinh ngày 15 tháng 4 năm 563 trước CN, là thái tử của vua Tịnh Phạn, một
nước nhỏ nằm ở Bắc Ấn Độ (nay thuộc vùng đất Nepan).
Mặc dù sống trong cảnh cao sang quyền quý, dòng dõi Đế
Vương, vợ đẹp con ngoan. Nhưng trước bối cảnh xã hội phân chia đẳng cấp
khắc nghiệt, với sự bất lực của con người trước khó khăn của cuộc đời. Năm
29 tuổi, ông quyết định từ bỏ con đường Vương giả xuất gia tu đạo. Sau 6
năm tu hành, năm 35 tuổi, Tất Đạt Đa đã giác ngộ tìm ra chân lý “Tứ diệu đế”
và “Thập nhị nhân duyên”, tìm ra con đường giải thoát nỗi khổ cho chúng
sinh. Từ đó Người đã đi khắp nơi để truyền bá tư tưởng của mình và ơng đã

trở thành người sáng lập ra tôn giáo mới là đạo Phật. Về sau ông được suy tôn
với nhiều danh hiệu khác nha: đức Phật, Thích ca Mâu Ni, thánh Thích ca…
Qua hơn 40 năm hoằng pháp và truyền đạt giáo lý khắp nước
Ấn Độ, năm ơng 80 tuổi thì qua đời và để lại cho nhân loại những tư tưởng
triết học Phật giáo vô cùng quý báu.
1.1.3. Sự truyền bá đạo Phật vào Việt Nam và Miền tây Nam bộ
Việc xác định niên đại Phật giáo du nhập vào Việt Nam cho
đến nay vẫn chưa có đủ tư liệu để biết chính xác. Sử liệu chỉ nói đến tình hình
Phật giáo nước ta từ thế kỷ thứ II SCN, lúc bấy giờ trung tâm Phật giáo ở Luy
Lâu (vùng Dâu - Thuận Thành – Hà Bắc) đã khá thịnh đạt. Điều đó khiến ta
có thể suy đốn rằng Phật giáo từ phía Nam Ấn Độ qua đường bieån vào Việt
Nam khoảng thế kỷ thứ I SCN. Các vị sư đầu tiên là người Ấn Độ, nhưng về
sau lại thấy xuất hiện tên nhiều vị sư Trung Á và Trung Hoa. Có thể nói rằng,
ngay từ thời rất xưa, Việt Nam đã được cao tăng Ấn Độ đi đến truyền giáo


4

trực tiếp. Trải qua các Triều đại từ Đinh, Lê, Lý, Trần… đặc biệt là dưới hai
triều đại Lý, Trần, Phật giáo đã để lại dấu ấn một thời vàng son.
Thế kỷ thứ VI, với sự phân chia Đàng trong - Đàng ngồi, đã
là một mốc quan trọng có ảnh hưởng đến lịch sử Phật giáo. Một phần nào đó
sự ảnh hưởng của phía Bắc đã được xem như khơng cịn tác dụng đối với
vùng đất Đàng trong. Đây cũng là một trong những dấu ấn tạo điều kiện cho
Phật giáo Đàng trong mang những nét đặc trưng mới trong quá trình phát
triển sau này.
Người Việt đã di dân vào khai phá vùng đất phía nam Tổ Quốc, vùng đất đạo
phật có mặt từ rất sớm. Mặc dù theo chân đồn di dân, đạo Phật có mặt trên
vùng đất mới tại mỗi khu vực thời gian có khác nhau, nhưng có thể tìm thấy 4
hướng chủ yếu :

− Hướng thứ nhất, từ miền Thuận - Quảng, đều do các nhà sư từ miền
Trung vào thế kỷ thứ XVII, XVIII và XIX.
− Hướng thứ hai, theo đường thủy từ Trung Quốc, Đạo Phật đã được
các nhà sư đến taän vùng Đồng Nai, Gia Định, Mỹ Tho truyền đạo (năm
1697). Những ngơi chùa ở Mỹ Tho, Cai Lậy và các Phật đường sau này xuất
phát từ các nhà sư Trung Quốc này.
− Hướng thứ ba, đầu thế kỷ XVIII, Mạc Cửu người Quảng Đơng, tự
Chân Lạp sang vùng đất mới đặt tên là Hà Tiên, dựng chùa Tam Bảo.
− Hướng thứ tư, năm 1938, Hộ Tông truyền bá Phật giáo Nam tông từ
Campuchia vào Nam Bộ.
Từ 4 hướng chính, Phật giáo đã vaøo Nam Bộ vào các thế kỷ
XVII, XVIII, XIX và nửa đầu thế kỷ XX.
Miền tây Nam bộ là vùng đất mới đối với lịch sử lâu đời của
đất nước. Đây là vùng hoang vu, nhiều thú dữ, với hệ thống kênh rạch chằng
chịt, nhiều cá sấu, lắm rắn rít và ngay cả những con vật nhỏ như muỗi, đĩa
cũng gây nhiều phiền hà, khó khăn cho cuộc sống. Tuy nhiên, bên cạnh mặt
hoang vu, thú dữ và sự khắc nghiệt của thiên nhiên, Miền tây Nam bộ là vùng
đất “cị bay thẳng cánh”, bát ngát ruộng đồng phì nhiêu màu mỡ. Cảnh vật
vừa thơ mộng lại vừa mang vẻ kỳ bí, hấp dẫn, lơi cuốn tâm hồn con người
muốn khai phá, tìm tịi, “mời gọi” cư dân từ các nơi khác đến sinh sống.
Từ thế kỷ XVII, Miền tây Nam bộ đã tiếp nhận nhiều thành
phaàn cư dân từ khắp nơi đến sinh sống. Họ mang theo nhiều nguồn “hành
trang” tơn giáo – tín ngưỡng. Vì thế các hình thức tơn giáo – tín ngưỡng ở khu
vực này cũng phong phú, nhưng Phật giáo vẫn là tôn giáo chủ đạo của người
Việt, người Hoa, người Khơ-me ở Miền tây Nam bộ.
1.2. Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo
Tư tưởng triết học Phật giáo ban đầu chỉ truyền miệng, sau đó được
viết thành văn thể hiện trong một khối kinh điển rất lớn, gọi là “Tam Tạng”,



5

gồm 3 Tạng kinh điển là: Tạng kinh, Tạng Luật, và Tạng Luận. Trong đó thể
hiện các quan điểm về thế giới và con người.
1.2.1. Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan
Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo được thể hiện tập
trung ở nội dung của ba cặp phạm trù: Vô ngã, Vô thường, và Duyên.
a. Vô ngã: Cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con người
không phải do một vị thần nào sáng tạo ra, mà được cấu thành bởi sự kết hợp
giữa hai yếu tố: “Sắc” và “Danh”.
• Sắc: là yếu tố vật chất, là cái có thể cảm giác được.
• Danh: là yếu tố tinh thần, khơng có hình chất mà chỉ có tên
gọi.
Chính cái “Danh” và “Sắc” đó hợp lại với nhau tạo thành “Ngũ uẩn”: Sắc (vật
chất), Thụ (cảm giác), Tưởng (ấn tượng), Hành (suy lý) và Thức (ý thức).
“Danh” và “Sắc” tác động qua lại tạo nên vạn vật và con người. Nhưng sự tồn
tại của vật chất chỉ là tạm thời, khơng có sự vật riêng biệt nào tồn tại mãi mãi.
Do đó cũng khơng có cái gọi là “Tôi”.
b. Vô thường: Nghĩa là vạn vật biến đổi vơ cùng theo chu trình
bất tận: sinh-trụ-dị-diệt. Vậy thì “có có”-“khơng khơng” ln hồi bất tận,
“thống có”-“thống khơng”, cái còn mà chẳng còn, cái mất mà chẳng mất.
Đức Phật dạy: “ Tất cả những cái gì trong thế gian đó là biến
đổi, hư hoại, đều là vơ thường”. Vì vậy vô thường nghĩa là không thường,
không mãi ở yên trong một trạng thái nhất định, luôn luôn thay đổi hình dạng,
đi từ trạng thái hình thành đến biến dị rồi tan rã.
Có người sai lầm cho rằng: Đạo phật nói vơ thường, phải
chăng gieo vào lịng mọi người những quan niệm chán đời, thối chí? Vì vậy,
sự vật đã vơ thường thì khơng làm gì cả, có siêng năng hoạt động kinh doanh
đến đâu sự nghiệp rồi cũng không đi đến đâu cả.
Vô thường của đạo phật là một phương pháp chỉ rõ mặt trái

của đời, để bài trừ những sự mê lầm, ngăn chặn người chạy theo vật dục, nó
chưa phải là thuyết tuyệt đối. Vơ thường là một định luật chi phối tất cả sự vật
từ thân tâm cho đến hồn cảnh. Hiểu lý vơ thường, con người dễ giữ được
bình tĩnh, thản nhiên trước cảnh đổi thay bất ngờ.
c. Duyên: Là điều kiện giúp cho nguyên nhân trở thành kết quả.
Phật giáo cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ từ cái nhỏ nhất đến cái
lớn nhất đều chịu sự chi phối của luật nhân duyên. Trong đó duyên là điều
kiện giúp cho nguyên nhân trở thành kết quả. Kết quả ấy lại nhờ có duyên mà
trở thành nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà trở thành kết quả mới.
Cứ như vậy mà tạo nên sự biến đổi không ngừng của các sự
vật, tuân theo quy luật nhân – quả.
Nhân là cái mầm, quả là cái hạt, cái trái do mầm ấy phát sinh.
Nhân và quả là hai trạng thái nối tiếp nhau, nương vào nhau mà có. Nếu
khơng có nhân thì khơng thể có quả, nếu khơng có quả thì khơng thể có nhân.


6

Nhân thế nào thì quả thế ấy, nếu ta muốn có quả cam thì ta phải ươm hạt
giống cam, nếu ta muốn có quả xồi thì ta phải ươm hạt giống xồi. Khơng
bao giờ ta trồng cam mà được xồi, hay trồng xồi mà được cam.Người học
vẽ thì biết vẽ, bác sĩ thì chữa bệnh, thầy giáo thì dạy học. Nói cách khác nhân
với quả bao giờ cũng đồng một loại với nhau, hễ nhân đổi thì quả đổi.
Một nhân không sinh ra quả, sự vật trong vũ trụ này đều là sự
tổ hợp của nhiều nhân duyên. Cho nên khơng có nhân nào tự tạo thành quả
được nếu khơng có sự giúp đở của nhiều nhân khác. Nói rằng hạt đậu sinh ra
cây đậu là một cách nói giản dị, dễ hiểu. Chứ thực ra hạt đậu không thể sinh
ra gì được nếu để nó một mình giữa trống khơng, thiếu khơng khí, ánh sáng,
đất, nước,… Trong nhân có quả, trong quả có nhân, chính trong hiện tại đã
hàm chứa cái quả vị lai, cũng chính trong cái quả hiện tại đã có hình bóng của

nhân q khứ. Một sự vật mà ta gọi là nhân, là khi nó chưa biến chuyển hình
thành ra cái quả mà ta mong muốn chờ đợi. Một sự vật mà ta gọi là quả, là khi
nó biến chuyển hình thành ra trạng thái mà ta mong đợi, ước muốn. Mỗi vật
vì thế đếu có thể gọi là nhân hay là quả đều được cả. Đối với q khứ thì nó là
quả, đối với tương lai thì nó là nhân.
Sự biến chuyển từ nhân đến quả có khi nhanh khi chậm, chứ
khơng phải bao giờ cũng diễn tiến trong một thời gian đồng nhất. Vì lý do đó,
chúng ta khơng nên nóng nảy, hấp tấp mà cho rằng cái luật nhân- quả khơng
hồn tồn đúng, khi thấy có những cái nhân chưa phát sinh ra quả ngay.
Tóm lại: Triết học Phật giáo bát bỏ quan niệm duy tâm cho
rằng thần thánh sáng tạo ra con người và vũ trụ. Phật giáo thừa nhận con
người và sự vật được cấu thành từ các yếu tố vật chất và tinh thần, các sự vật
của thế giới trong sự biến đổi khơng ngừng. Đó là quan điểm duy vật biện
chứng về thế giới, mặc dù còn chất phác, mộc mạc nhưng rất đang trân trọng.
1.2.2. Tư tưởng Phật giáo về nhân sinh quan
a. Quan điểm triết học Phật giáo về “nghiệp”:
“Nghiệp” theo sát văn từ có nghĩa là hành động hay việc làm.
Tư tưởng, lời nói hay việc làm thường do ý muốn làm động cơ khởi xướng.
Phật giáo gọi ý muốn hay ý chí ấy là tác ý.
“Nghiệp báo” là một định luật nhân quả trong lĩnh vực luân lý,
hay như người phương Tây thường nói là “Ảnh hưởng của hành động”. Phật
giáo khơng nhìn nhận có một linh hồn trường cửu được tạo nên một cách
ngẫu nhiên và độc đốn. Phật giáo tin có định luật và công lý thiên nhiên,
không phải do một đấng thượng đế đế toàn năng hay một đức Phật đại từ đại
bi tạo nên.
Có một vài người theo nhận thức riêng của mình, cho rằng
thuyết “nghiệp báo” trong Phật giáo là một loại nha phiến xoa dịu và ru ngủ
con người xấu số. Đức phật không hề dạy như vậy, thuyết “nghiệp báo” trong
Phật giáo cũng không bao giờ chấp nhận một cuộc sống phán xử sau kiếp
sống.



7

Theo lý “nghiệp báo”, chúng ta không nhất định bị trói buộc
trong một hồn cảnh nào vì “nghiệp báo” khơng phải là số mạng cũng không
phải là tiền định do một oai lực quyền bí nào đã định đoạt cho ta một cách bất
khả kháng. Chúng ta có đủ năng lực để chuyển phần nào cái “nghiệp” của ta
theo ý muốn.
“Nghiệp” không nhất thiết phải là hành động trong quá khứ mà
thôi. “Nghiệp” bao trùm quá khứ và hiện tại, là nơi trong quá khứ chúng ta
hành động như thế nào, và trong tương lai chúng ta sẽ làm như thế nào cũng
tùy nơi hành động chúng ta trong hiện tại. Hiểu một cách khác nữa, ta phải
thêm rằng, trong hiện tại chúng ta như thế nào khơng hồn tồn bởi vì trong
quá khứ chúng ta đã như thế nào. Và trong tương lai chúng ta sẽ như thế nào
cũng không tùy thuộc nơi chúng ta như thế nào trong hiện tại. Hiện tại chắc
chắn là con đẻ của quá khứ và là mẹ của tương lai. “Nghiệp” trong sự báo
ứng vơ cùng phức tạp, ta khơng thể nhìn hiện tại mà quả quyết quá khứ và
tương lai.
Tóm lại, tất cả nghiệp lực đều tùy thuộc nơi sự biến đổi của
tâm lực và luôn luôn sẵn sàng phát hiện trong mn ngàn hiện tượng mỗi khi
có cơ hội. “Nghiệp” là một năng lực cá biệt được chuyển từ kiếp này sang
kiếp khác. “Nghiệp” thủ một vai trò quan trọng trong việc cấu tạo tâm tính
con người. “Nghiệp” giải thích những hiện tượng mà ta gọi là vĩ nhân, thiên
tài, thần đồng.
b. Quan điểm của phật giáo về thuyết “Tứ Diệu Đế” :
Nội dung triết lý nhân sinh của phật giáo đều thể hiện trong
thuyết “Tứ Diệu Đế”, được phật giáo coi là 4 chân lý vĩ đại. Thông điệp Tứ
Diệu Đế bao gồm cả hai mặt nhận thức và hành động. Do đó con đường tu tập
tứ đế khơng thể xét qua goác độ nhận thức mà vấn đề là mơ thức biện chứng

của nó.
Đức phật trong suốt q trình đi tìm con đường giải thốt,
những kinh nghiệm khổ đau của bản thân đã trải qua là những kinh nghiệm
sâu sắc. Do đó thuyết Tứ Diệu Đế được xem như là một quá trình biện chứng
thực tại ngay trong đời sống của Người và cái đỉnh cao tận cùng ấy được đức
Phật giảng giải qua dạng thức của tứ đế trên cơ sở tương quan nhân quả sinh
vật, và đây chính là bằng chứng thực tại mà đức Phật đã di qua. Vì thế nó
khơng phải là mẫu thức lý tưởng, cũng không phải là bản sao chép từ những ý
niệm.
Tứ Diệu Đế được Đức phật giải minh thông qua 4 tiền đề triết
học cơ bản:
• Tri ân thực tại (khổ thánh đế)
• Sự chuyển hướng tư duy (tập thánh đế)
• Sự chuyển hướng hai chiều (diệt thánh đế)
• Giai trình tư duy (đạo thánh đế)


8

− Khổ Đế : Là thực trạng đau khổ của con người, triết lý về
cuộc đời mỗi người là một bể khổ, ràng buộc, hệ lụy, khơng có tự do. Có 8 cái
khổ : sinh, lão, bệnh, tử, thụ biệt ly khổ, oán tăng hội khổ, sở cầu bất đắc, thụ
ngũ uẩn. Khổ Đế là một chân lý, một sự thật về bản chất cái khổ, ta có thể
chia làm ba phương diện :
* Phương diện sinh lý: Khổ là một cảm giác khó chịu, bức
xúc, đau đớn. Con người sinh ra đã khốn khổ, lớn lên già yếu, bệnh tật lại
càng thêm khổ, và cuối cùng là cái chết, sự tan rã cuối cùng của thể xác đem
đến khổ thọ lớn lao.
* Phương diện tâm lý: Là sự đau khổ do khơng toại ý, khơng
vừa lịng…, tạo nên đau khổ. Những mất mác thua thiệt trong cuộc đời làm

mình khổ.
* Phương diện Phật học : Khổ là thụ ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng,
hành và thức). Khi ta bám víu vào năm yếu tố trên, coi đó là ta, là của ta, là tự
ngã của ta thì sự khổ đau có mặt. ý niệm về “thân thể tơi”, “tình cảm tơi”, “tư
tưởng tơi”, “nhận thức của tơi”… hình thành một cái tơi ham muốn, vị kỷ, từ
đó mọi đau khổ phát sinh đều gắn liền với ý niệm về cái tơi ấy.
Tóm lại, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự
bức xúc của hoàn cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý về bản chất. Về
phương triết học, khổ đau là một thực tại như thực đối với con người. Khổ đế
là một chân lý khách quan hiện thực, khổ hay hình thái bất an là kết quả hàng
loạt nhân duyên được tạo tác từ tâm thức. Như vậy tri nhân thực tại là một
cách trực tiêp đi vào soi sáng mọi hình thái khổ đau của con người. Để thấu
hiểu triệt để cái căn nguyên của khổ đau, con người không thể dừng lại ở sự
thật của đau khổ, hay quay mặt chạy trốn, mà phải đi vào soi sáng cái bản
chất nội tại của nó.
− Tập Đế : Nhân Đế: Triết lý về nguyên nhân của sự khổ, có
12 nguyên nhân gây ra sự đau khổ (thập nhị nhân dun) :
• Vơ minh: Khơng sáng suốt, khơng nhận thức được chân lý.
• Dun hành: là ý muốn thúc đẩy hành động. Nỗi khổ ý thức do
hành động gây ra, các cấu trúc thuộc hoạt động tác tạo của tâm lý thông qua
thân, miệng, ý.
• Duyên thức: Tri giác hiện hữu, tâm tư trong sáng trở nên u tối.
• Duyên danh sắc: Nổi khổ do sự hội tụ các yếu tố vật chất và tinh
thần, danh thuộc về tâm lý, sắc thuộc về vật lý. Sự hội tụ các yếu tố vật chấ và
tinh thần sinh ra các cơ quan cảm giác.
• Duyên lục nhập: Tiếp xúc thế giới xung quanh thông qua các cơ
quan cảm giác và 6 trần cảnh (hình thể, âm thanh, hương vị, mùi vị, xúc và
pháp).
• Dun xúc: Tiếp xúc thế giới xung quanh sinh ra các cơ quan
cảm giác hay là sự giao thoa căn, trần và thức.



9

thức.

• Duyên thụ: sự kết hợp tất cả các yếu tố tạo nên con người.
• Dun ái: Do u thích, luyến ái nảy sinh ham muốn, dục vọng.
• Duyên thủ: Do ham muốn rồi muốn chiếm thứ ấy của tâm, ý và

• Duyên hữu: Nảy sinh hành động tạo nghiệp chiếm hữu hay tiến
trình tương duyên để hình thành hiện hữu (pháp).
• Dun sinh: Đã có tạo nghiệp, đã có nghiệp nhân ắt có nghiệp
quả là sinh ra ta.
• Dun lão tử: Lão và tử là kết quả cuối cùng của q trình, đồng
thời cũng là ngun nhân của vịng luân hồi mới.
Như thế 12 nhân duyên là hiện hữu của con người, đồng thời
cũng là tiến trình hiện hữu của con người từ sinh thành đến hủy diệt.Thập nhị
nhân duyên là triết lý về nguyên nhân của sự khổ, về nguồn gốc của sự khổ.
Khi nhận thức được bản chất của sự khổ một cách rõ ràng ta mới có thể đi vào
con đường đoạn tận khổ đau. Nguyên nhân của khổ có nguồn gốc sâu xa
trong tâm tưởng của con người. Phật giáo cũng nhìn thấy các nguyên nhân
đau khổ, có cái phát sinh từ vật chất hay hồn cảnh xã hội, nhưng ngun
nhân chính vẫn là tâm thức. Nguyên nhân sâu hơn và căn bản hơn chính là vô
minh, tức là si mê không thấy rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương
vào nhau mà sinh khởi, đều vơ thường và chuyển biến, khơng có cái chủ thể,
cái bền vững độc lập ở trong chúng. Do không thấy rõ nên sinh tâm ham
muốn, ôm giữ lấy các đối tượng lạc thú. Do không thấy rõ mới lầm tưởng
rằng “cái tôi” là quan trọng nhất, là cái có thật cần phải bám víu, củng cố và
thỏa mãn nhu cầu của nó.

Tóm lại, chúng ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay
không là do lịng mình. Hay nói cách khác, tùy theo cách nhìn của mỗi người
đối với cuộc đời mà có khổ hay không. Nếu không bị sự chấp ngã và dục
vọng, vị kyû hay phiền não khuấy động, chi phối, ngự trị trong tâm thì cuộc
đời đầy an lạc hạnh phúc.
− Diệt Đế : Phật giáo cho rằng mỗi nỗi khổ có thể tiêu diệt
được để đạt đến trạng thái Niết bàn có nghĩa là hạnh phúc, an lạc. Đạo Phật
quan niệm rằng, nguyên nhân khổ là do sự vận hành của thập nhị nhân duyên,
trong đó gốc rễ sâu xa là sự vô minh. Vậy muốn diệt khổ phải đi ngược lại sự
vận động của 12 nhân duyên, bắt đầu từ diệt trừ vơ minh. Vơ minh bị diệt, trí
tuệ bừng sáng, hiểu rõ được bản chất tồn tại, thực tướng của vũ trụ và con
người, khơng cịn tham dục và kéo theo những hành động tạo nghiệp nữa, tức
là thoát khỏi vịng ln hồi sinh tử. Nói cách khác, diệt trừ được vơ minh,
tham dục thì hoạt động ngũ uẩn dừng lại, tu đến Niết bàn, tịch diệt, khi ấy
mới hết luân hồi sinh tử.
Phật giáo cho rằng, một khi người ta đã làm lắng dịu lòng
tham ái, chấp thủ, thì những nỗi lo âu, sợ hãi, bất an giảm dần, thâm tâm của


10

bạn trở nên thanh thản, đầu óc tỉnh táo hơn; lúc đó nhìn mọi vấn đề trở nên
đơn giản hơn, rộng lượng hơn. Đó là một hình thức hạnh phúc, cũng nhờ vậy
tâm trí khơng bị chi phối bởi những tư tưởng chấp thủ, nhờ không bị nao núng
bởi các ngọn lửa phiền muộn, lo lắng sợ haõi mà tâm lý của bạn trầm tĩnh và
sáng suốt hơn, khả năng nhận thức sự vật hiện tượng sâu sắc hơn, chính xác
hơn, thâm tâm được chuyển hóa, thái độ ứng xử của bạn với mọi người xung
quanh rộng lượng và bao dung hơn. Trên cơ sở ấy bạn hưởng thụ đời sống có
chất lượng hơn. Tùy vào khả năng giảm thiểu lịng tham, vơ minh đến mức độ
nào thì đời sống của bạn sẽ tăng phần hạnh phúc đến mức độ ấy.

− Đạo Đế : Là con đường phải theo để diệt trừ đau khổ.
Đạo Phật chủ trương vừa lấy trí tuệ diệt trừ vơ minh, phá vịng
ln hồi sinh tử, vừa thực hành tu tập, diệt trừ tham dục để chuyển nghiệp, đạt
đến sự giải thoát. Đây là con đường nhằm để hoàn thiện đạo đức cá nhân, con
đường này là một bằng chứng về kiểu suy luận hợp lý và trí tuệ thực tiễn
thơng qua con đường Bát Chính Đạo:
* Chính kiến: hiểu biết đúng đắn về Tứ Diệu Đế. Hãy rũ bỏ mọi
điều mê tín, tư tưởng vạn vật hữu linh, các nghi thức cổ xưa. Hãy từ bỏ niềm
tin vào các tục lệ gây nên sự không bình đẳng giữa người với người, từ bỏ
niềm tin vào sự hiện hữu của một đấng tối cao. Hãy dựa vào khả năng suy
luận thuần túy của mình. Đây là bước giúp cho con người có một căn bản lý
trí. Nếu khơng có Chính kiến thì mọi quyết định dễ mắc sai lầm.
* Chính tư duy: Hãy suy nghĩ chính chắn, suy nghĩ đúng là nền tảng
để đạt đến những thành tựu to lớn, miễn là dựa trên chính kiến.
* Chính ngữ: Giữ lời nói chân chính, trung thực, trong sáng, khơng
nói lời nóng nảy, thơ tục, chửi bới, vu khống, phỉ bán.
* Chính nghiệp: Hành động chân chính, khơng làm những việc tàn
bạo, giả dối, không sát sinh, trộm cắp, rượu chè nghiện ngập.
* Chính mệnh: Sống chân chính, khơng tham lam, vụ lợi xa rời
nhân nghĩa.
* Chính tinh tiến: Rèn luyện, tu tập không mệt mỏi là sự nỗ lưc cam
go để nâng cao trí tuệ và đạo đức của mình. Con người phải cố gắng nổ lực từ
bỏ các thói hư tật xấu, học tập các đức tính tốt, khơng để mình bị lơi kéo vào
các đức tính xấu xa, hãy nâng cao phẩm chất tốt mà mình có được.
* Chính niệm: Là sự chú ý đến các hoạt động, cùng những chỗ yếu
kém của thân và ý mình, là suy niệm chân chính.
* Chính định: Sự tập trung tâm trí vào con đường chân chính,
khơng để bất cứ điều gì lay chuyển, làm thối chí, phân tâm.
Trong Bát chính đạo thì chính kiến, chính tư duy thuộc về trí
tuệ; chính ngữ, chính nghiệp,chính mệnh thuộc về giới luật; chính tinh tiến,

chính niệm, chính định thuộc về định.
Thế giới hiện nay đang từng bước phát triển, đi vào đa phương
hóa tồn diện. Nhiều học thuyết, lý thuyết triết học, đạo học đang được tái


11

thẩm định để tìm ra những giá trị ứng dụng cho nền văn minh hiện đại. Nếu
phải tìm ra những phạm trù đạo đức chung để xây dựng và góp phần ổn định
mọi rối loạn trong cuộc sông nhân sinh thì Bát chính đạo là định hướng cho
đời sống cá nhân, gia đình và xã hội. Chừng nào con người cịn đau khổ thì
Bát Chính Đạo vẫn cịn là kim chỉ nam hướng dẫn mọi hành vi, lời nói và tư
tưởng. Chừng nào mọi Quốc gia trên thế giới còn mong muốn đem lại an lạc
cho nhân loại chừng đó Bát Chính Đạo vẫn là đóng góp của Phật giáo vào
tiếng nói chung của nhân loại trên tiến trình hịa bình thế giới. Có thể khẳng
định giá trị của Bát Chính Đạo như một bản đồ tu tập cho mọi người ở mọi
thời đại.
c. Quan điểm của triết học Phật giáo về ngũ giới :
Phật giáo còn đưa ra năm điều răn để mọi người chủ động thực
hiện nhằm đem lại lợi ích cho mình và cho mọi người, gọi là ngũ giới. Ngũ
giới là năm điều cấm mà đức Phật đưa ra nhằm để ngăn cản những tưởng
niệm ác, nói năng chẳng lành, hành động bất chính. Năm điều răn ấy là:
không sát sinh, không trộm cướp, không được tà dâm, khơng được nói dối,
khơng được uống rượu.
Năm điều răn này y như cứ dựa trên tâm từ bi, bát ái, bình
đẳng trên phương diện dứt trừ tội lỗi cá nhân và đem lại trật tự, an vui cho xã
hội mà thành lập. Đức Phật không bắt buộc chúng tam phải triệt để tuân theo,
và cũng không hăm dọa nếu khơng tn theo thì phải bị trừng phạt, sự giữ ngũ
giới hay khơng là hồn tồn do chúng ta tự liệu lấy.
− Bất sát: Không được giết hại

Đây là điều răn thứ nhất mà Đức phật khuyên chúng ta khơng
được giết hại sinh mạng từ lồi người cho đến lồi vật. Sinh mạng có một giá
trị q báu, nhất là sinh mạng người, giết hại sinh mạng kia để tô điểm cho
sinh mạng này là một điều ác, không hợp đạo lý.
− Bất dâm: Không tà dâm.
Nếu giữ giới khơng tà dâm thì gia đình được hịa thuận, an vui,
hạnh phúc, mọi người nể trọng kính mến.
− Bất vọng ngữ: Khơng nói dối.
Nếu giữ giới khơng nói dối sẽ được mọi người kính trọng, quý
mến, tin cậy, dễ được gần gũi, việc làm thuận lợi, uy tín được nâng cao .
− Bất ẩm tửu: Không uống rượu.
Nếu giữ được giới khơng uống rượu thì sẽ bảo tồn hạt giống
trí tuệ, ngăn ngừa những nguyên nhân phát sinh tội ác trong xã hội.
− Bất đạo: Không trộm cướp
Nếu giữ được giới khơng trộm cướp là góp phần đưa xã hội về
bình đẳng, văn minh.
Có năm việc mà trong hiện tại mọi người không thể làm cho
của cải vật chất và sinh mạng được tăng trưởng. Năm điều ấy là: Sát sinh,
trộm cướp, tà dâm, ưa nói vọng và uống rượu. Trong năm giới trên có bốn


12

điều thuộc về vơ tính giới, một điều uống rượu thuộc về tưởng giới. Nói tính
giới là vì những giới này có liên quan đến tâm tính của con người trong xã
hội. Cho nên về giới tính dù con người có thọ giới hay khơng, nếu phạm giới
thì đều bị sa đọa. Cịn tưởng giới là giới thuộc về hình thức để ngăn ngừa sự
phạm lỗi. Nếu có thọ mà phạm giới thì đắc tội, khơng thọ thì khơng đắc tội.
Ngũ giới là hạ phẩm giới, là nền tảng của các giới. Chúng ta
thấy công cụ thiết thực và lợi ích của năm giới đối với cá nhân và đoàn thể.

Nhưng năm giới nói trên khơng có gì là cao siêu, huyền bí. Đó là một bài học
cơng dân thơng thường mà bất cứ Quốc gia nào, xã hội nào muốn phồn vinh,
hưng thịnh cũng khơng thể bỏ sót được. Một xã hội mà mọi phần tử đều thực
hiện được năm giới ấy thì đó là một xã hội gương mẫu và văn minh nhất thế
giới.
Cho nên năm điều luật ấy không phải chỉ để áp dụng riêng cho
giới Phật tử, mà còn dùng chung cho tất cả những ai muốn sống một cuộc
sống lành mạnh, an vui, có lễ nghĩa, tiến bộ.
Chương 2: Ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần của một
bộ phận dân cư ở Miền tây Nam bộ
2.1. Sinh hoạt Phật giáo ở Nam bộ
Từ buổi đầu đến định cư, lập chùa, lập đình hầu hết các chùa ở
Đồng Nai, Gia Định, Tiền Giang là những am làm bằng tranh, ngày ngày các
tu sĩ vào rừng chặt cây, bện lá tự dựng nhà, đóng bàn ghế sử dụng và thờ tự.
Điều này cho thấy trong hồn cảnh khó khăn buổi ban đầu thiếu thốn về vật
chất và tinh thần, nhưng sinh hoạt Phật giáo đã thực sự trở thành một nhu cầu
của người dân lúc bấy giờ. Theo tâm trạng của họ lúc xa quê cách tổ, được
ngày ngày rảnh rang nằm để suy nghĩ, ai ai cũng hồi tưởng đến quê nhà, nhớ
về mồ mã cha ơng, nhớ bạn bè, làng xóm. Vì Vậy họ thường đến chùa để
nghe sư tổ giảng kinh, nói pháp hầu vơi đi nỗi buồn xa quê và tìm sự thanh
thản ở tâm hồn.
Vào thời kỳ Nhà Nguyễn, sinh hoạt Phật giáo đã trở nên khởi sắc,
một số chùa được tiếp tục xây dựng và trùng tu. Người dân đến với đạo Phật
vì đạo Phật cứu khổ, cứu nạn, giúp họ an tâm sản xuất, khai phá vùng đất
mới, khuyên họ làm điều lành, điều thiện, tránh xa điều ác, cái dữ.
Có thể nói, ứng phú là hình thức sinh hoạt Phật giáo chủ yếu của
người dân Nam bộ. Ứng phú là môn kinh hành sự trong chùa, là môn âm nhạc
riêng khi hành lễ, chư tăng tụng kinh, tán xướng. Ứng phú thường sử dụng
“tán”, với mục đích khen ngợi, với giọng đọc kéo dài, thang âm cẩn thận,
nhịp rất phức tạp.

Nhìn chung lối ứng phú này rất gần gũi với âm nhạc cổ truyền Việt
Nam. Mặc dù ở những giai đoạn tiếp theo sau, do điều kiện xã hội và mơi
trường sống có thay đổi. Khoa “ứng phú đạo tràng” khơng cịn chiếm vị trí
chủ đạo, nhưng nó đã trở thành một hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian
trong Phật giáo ở Nam Bộ. Ứng phú tồn tại và phát triển được, một phần


13

chính là nhờ từ trong âm hưởng của tiếng tụng kinh, khi trầm, khi bổng, khi
âm u, khi trầm lặng, gợi nhớ gợi thương như thiết tha cầu nguyện… Điều đó
đã giải tỏa được phần lớn nhưng nỗi niềm thương nhớ quê cha, đất tổ của lưu
dân. Và một phần lớn hơn ứng phú đã đi vào âm điệu của tình tự dân tộc. Cho
nên, có thể nói ứng phú đã góp phần thể hiện đặc trưng của người Việt có tín
ngưỡng trên vùng đất mới, vùng đất Miền tây Nam bộ.
Ở Miền tây Nam bộ cịn có hát bộ. Sau buổi lễ cúng các thầy cúng
thường xuống giàn hát bộ. Những buổi kinh đàn và hát bộ này đã góp phần
tạo điều kiện cho sự truyền bá Phật giáo rộng rãi ở Nam Bộ nói chung và ở
Miền tây Nam bộ nói riêng.
Một trong những hình thức sinh hoạt Phật giáo trong thời kỳ này là
các lễ Trường hương và Trường kỳ. Trường hương hay còn gọi là An cư kiết
hạ hay Trường hạ được mở nhiều nơi ở Miền tây Nam bộ với nhiều người
tham dự. Nói đến Trường hương ở Miền tây Nam bộ là nói đến sự quy mô to
lớn của lễ An cư, tinh thần lạc hịa. Đó là một trong những nhân tố quan trọng
góp phần vào việc truyền bá kiến thức, duy trì và phát triển tinh thần Phật
giáo tại vùng đất mới.
Song song với việc sinh hoạt Phật giáo, hoạt động kháng Pháp,
chống Mỹ tại các chùa trong giai đoạn này có nhiều mặt hạn chế do tình hình
xã hội có nhiều biến động, sinh hoạt giáo lý không được nâng cao.
Sinh hoạt Phật giáo trước ngày thống nhất đất nước cũng có sự biến

đổi. Đặc biệt là hầu hết các tín ngưỡng dân gian và các dạng mê tín dị đoan đã
tồn tại và phát triển qua các giai đoạn lịch sử phát triển của Phật giáo thì ngày
nay càng được ñaåy mạnh hơn dưới chiêu bài “Bảo tồn truyền thống văn hóa”
và được giai cấp thống trị lợi dụng triệt để. Tín ngưỡng dân gian và mê tín dị
đoan cũng đã hội nhập vào Phật giáo. Khi nghiên cứu bản sắc văn hóa dân tộc
dân gian ở Việt Nam trên các lĩnh vực như kiến trúc, điêu khắc, hội họa, văn
học, nghệ thuật sân khấu, nhiều người thừa nhận rằng có dấu ấn của Phật
giáo. Phật giáo được xem như một yếu tố quan trọng, bao trùm, đã góp phần
làm cho văn hóa dân gian Việt Nam mang những đặc điểm dân tộc và tính địa
phương sâu sắc.
Trên lĩnh vực thờ cúng, sự hịa nhập của tín ngưỡng vào các chùa
Phật giáo nhiều đến mức có ý kiến cho rằng: “Văn hóa dân gian Việt Nam đã
bị Phật hóa” . Chẳng hạn như chùa Thiên Phước, chùa Cửu Long, chùa Bửu
Lâm (Tiền Giang) thờ bà Cửu Thiên Huyền Nữ, thờ Thần Nông, Phục Hy . . .
bên cạnh việc thờ Phật. Tính khoan dung của người Việt Nam cũng như tính
“Khế lý, Khế cơ” trong bản thân Phật giáo đã thể hiện sự thích ứng, mềm dẻo
qua việc lưu giữ, đặt để các gian thờ thần linh thuộc tín ngưỡng bản địa, để
“chung sống” với các vị Phật và Bồ tát.
Phong tục tập quán, tín ngưỡng dân gian xâm nhập vào các chùa
Phật giáo. Ở Miền tây Nam bộ còn được thể hiện qua việc cúng cô hồn, cúng


14

sao hạn, cúng tam tai… Trên phương diện thờ cúng, Phật giáo cũng gây ra mê
tín dị đoan vào tín ngưỡng dân gian bản địa.
Những biểu hiện và nguyên nhân của sự xâm nhập trên phải được
xét đến ở nhiều khía cạnh. Song hai trong số những điều kiện quan trọng là
bản thân nền Phật giáo khi theo chân những người di dân vào vùng đất mới và
những điều kiện về kinh tế - xã hội, nói chung là bối cảnh xã hội của vùng đất

Miền tây Nam bộ. Xét từ yếu tố nội sinh, Phật giáo ngay từ Ấn Độ đã mang
tính chất “Khế lý, Khế cơ”. Khi truyền vào một địa phương nào đó, một đất
nước nào đó, cũng bắt buột phải thích ứng với phong tục, tập quán bản địa
của địa phương ấy, đất nước ấy, kể cả những tín ngưỡng bản địa.
2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần của một bộ
phận dân cư ở Miền tây Nam bộ
2.2.1. Ảnh hưởng của Phật giáo về mặt tư tưởng và đạo lý
2.2.1.1. Ảnh hưởng của Phật giáo về mặt tư tưởng
Tư tưởng hay đạo lý căn bản của Phật Giáo là đạo lý
Duyên Khởi, Tứ Diệu Đế và Bát chánh Đạo. Ba đạo lý này là nền tảng cho tất
cả các tông phái Phật giáo, nguyên thủy cũng như Đại Thừa đã ăn sâu vào
lòng của người dân Việt. Về giáo lý nghiệp báo hay nghiệp nhân quả báo của
Đạo Phật đã được truyền vào nước ta rất sớm. Giáo lý này đương nhiên đã trở
thành nếp sống tín ngưỡng hết sức sáng tỏ đối với người Việt Nam có hiểu
biết, có suy nghĩ.
Người ta biết lựa chọn ăn ở hiền lành, dù tối thiểu thì đó
cũng là kết quả tự nhiên âm thầm của lý nghiệp báo, nó chẳng những thích
hợp với giới bình dân mà cịn ảnh huởng đến giới trí thức. Có thể nói mọi
người dân Việt điều ảnh hưởng ít nhiều qua giáo lý này. Vì thế, lý nghiệp báo
luân hồi đã in dấu đậm nét trong văn chương bình dân, trong văn học chữ
Nơm, chữ Hán, từ xưa cho đến nay để dẫn dắt từng thế hệ con người biết soi
sáng tâm trí mình vào lý nhân quả nghiệp báo mà hành động sao cho tốt đẹp
đem lại hịa bình an vui cho con người. Mỗi người dân Miền tây Nam bộ đều
tự nhiên biết câu "ác giả ác báo". Họ phát biểu câu rất đúng hoàn cảnh sự việc
xảy ra cho đối phương, hay "chạy trời không khỏi nắng". Mặt khác họ hiểu
rằng nghiệp nhân không phải là định nghiệp mà có thể làm thay đổi, do đó họ
tự biết sửa chữa, tu tập cải ác tùng thiện. Ta không nên ngồi một chỗ tưởng
tượng đến những kết quả tốt đẹp sẽ đến với mình. Từ những hành nghiệp
thiện, giảm bớt điều ác, dần dần ta sẽ chuyển hóa và tạo cho ta có một cuộc
sống yên vui cho hiện tại và mai sau.

2.2.1.2. Ảnh hưởng của Phật giáo về mặt đạo lý
Đạo lý ảnh hưởng nhất là giáo lý từ bi, tinh thần hiếu hòa,
hiếu sinh của Phật giáo đã ảnh hưởng và thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn
của người Việt ở Nam Bộ. Tinh thần thương người như thể thương thân này
đã biến thành ca dao tục ngữ rất phổ biến trong quần chúng Việt Nam như "lá
lành đùm lá rách", hay:


15

“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”
Đó là những câu ca dao, tục ngữ mà bất cứ người Việt Nam nào cũng điều
thấm nhuần và thuộc nằm lịng, nói lên lịng nhân ái vị tha của dân tộc Việt
Nam.
Ngoài đạo lý Từ Bi, người Việt còn chịu ảnh hưởng sâu
sắc một đạo lý khác của đạo phật là đạo lý Tứ Ân, gồm ân cha mẹ, ân sư
trưởng, ân quốc gia và ân chúng sanh. Đạo lý này được xây dựng theo một
trình tự phù hợp với bước phát triển của tâm lý về tình cảm của dân tộc Việt.
Tình thương ở mọi người bắt đầu từ gần đến xa, từ tình thương cha mẹ, họ
hàng lan dần đến tình thương trong các mối quan hệ xã hội với thầy, bạn,
đồng bào và mở rộng đến quê hương cao cả đối với cuộc sống của nhân loại
trên vũ trụ này. Đặc biệt trong đạo lý tứ ân, ta thấy ân cha mẹ là nổi bật và
ảnh hưởng rất sâu đậm trong tình cảm và đạo lý của người Việt. Bởi Phật giáo
đặc biệt chú trọng chữ hiếu như thế nên thích hợp với nếp sống đạo lý truyền
thống của dân tộc Việt.
Nhìn chung, đạo lý hiếu ân trong ý nghĩa mở rộng có
cùng một đối tượng thực hiện là nhắm vào người thân, cha mẹ, đất nước, nhân
dân , chúng sanh, vũ trụ, đó là môi trường sống của chúng sanh gồm cả mặt
tâm linh nữa. Đạo lý Tứ Ân cịn có chung cái động cơ thúc đẩy là từ bi khiến

cho ta sống hài hòa với xã hội, với thiên nhiên để tiến đến hạnh phúc chân
thực và miên trường. Từ cơ sở tư tưởng triết học và đạo lý trên đã giúp cho
Phật giáo Việt Nam hình thành được một bản sắc đặc thù rất riêng biệt của nó
tại Việt Nam, ở khu vực Miền tây Nam bộ, góp phần làm phong phú và đa
dạng hóa nền văn hóa tinh thần của dân tộc Việt.
2.2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo qua phong tục, tập quán
2.2.2.1. Ảnh hưởng của Phật giáo qua tập tục ăn chay,
phóng sanh, bố thí
Về ăn chay, hầu như tất cả người Việt Nam đều chịu ảnh
hưởng nếp sống văn hóa này. Ăn chay hay ăn lạt xuất phát từ quan niệm từ bi
của Phật giáo. Đạo Phật không muốn sát sinh hại vật, mà trái lại phải thương
yêu mọi lồi. Khơng chỉ người dân ở Nam Bộ mà khắp cả nước cũng theo tục
lệ này.
Số ngày họ ăn chay tuy có khác nhau trong từng tháng,
nhưng cùng giống nhau ở quan điểm từ bi của Đạo Phật. Do hiệu quả của việc
ăn chay giúp cho cơ thể tăng cường sức khỏe, chống lại bệnh tật, nên người
Việt Nam dù là Phật tử hay không là Phật tử, dù sinh sống ở đâu cũng đều
thích ăn chay. Và tập tục đặc biệt này ảnh hưởng sâu rộng trong bộ phận quần
chúng lao động ở Miền tây Nam bộ từ xưa đến nay.
Ăn chay và thờ phật là việc đi đôi với nhau của người
Việt Nam. Ở Miền tây Nam bộ, người mộ đạo thờ Phật đã đành, nhiều người
không phải là Phật tử cũng dùng tượng Phật hay tranh ảnh có yếu tố Phật giáo


16

để chiêm ngưỡng và trang trí cho cảnh nhà thêm đẹp và trang nghiêm. Theo
quan niệm của nhóm người này, Phật giáo là một thành tựu về tư tưởng văn
hóa của dân tộc và nhân loại.
Cùng với tục thờ Phật, tục thờ cúng tổ tiên của dân tộc

Việt Nam có từ lâu đời. Tục này xuất phát từ lòng hiếu kính đối với ơng bà,
cha mẹ, tổ tiên và được xem là một dạng tín ngưỡng quan trọng nhất của dân
tộc. Tính ngưỡng này được một số bình dân Nam Bộ nhập làm một với đạo
Phật, vì trong Phật giáo có nhiều kinh đề cập đén vấn đề này như kinh Vu
Lan, kinh Báo Phụ Mẫu Ân… Vào những ngày rằm, mồng một, những gia
đình khơng theo đạo phật cũng mua hoa quả, thắp nhang trên bàn thờ tổ tiên.
Cũng xuất phát từ tinh thần từ bi của đạo Phật, tục lệ bố
thí và phóng sanh đã ăn sâu vào đời sống sinh hoạt của quần chúng nhân dân
lao động ở Đồng bằng sông Cửu Long. Đến ngày rằm và mùng một, người
Việt thường hay mua chim, cá, rùa…để đem về chùa cầu nguyện rồi đi phóng
sanh. Người dân Nam Bộ cũng thích làm phước bố thí và sẵn sàng giúp đỡ kẻ
nghèo khó, hoạn nạn vào các ngày lễ hội lớn họ tập trung về chùa. Tuy nhiên,
trong xã hội hiện đại những biểu hiện mang tính chất hình thức trên ngày
càng bị thu hẹp. Thay vào đó mọi người tham gia vào những đợt cứu trợ,
tương tế cho các đồng bào gặp thiên tai, hoạn nạn, hoàn cảnh sống gặp khó
khăn đúng với truyền thống đạo lý của dân tộc lá lành đùm lá rách.
2.2.2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo qua tập tục cúng rằm,
mồng một, lễ chùa
Tập tục đến chùa để tìm sự bình an cho tâm hồn, chiêm
ngưỡng vẻ đẹp thanh thoát của các pho tượng, lắng nghe tiếng chuông ngân
vang,.. đã trở thành một nét phong tục “đi chùa lễ phật” lâu đời của tổ tiên.
Những ngày lễ hội lớn trong năm bắt đầu từ Phật giáo như
lễ Phật Đản, lễ Vu Lan, lễ tắm Phật,…thực sự đã trở thành ngày hội văn hóa
của người dân Nam Bộ. Điều này phù hợp với nếp sinh hoạt cộng đồng, một
sinh hoạt truyền thống ở vùng đất mới.
Đặc biệt đối với đồng bào Khơ-me Nam Bộ, chịu ảnh hưởng
sâu sắc của Phật giáo Nam tơng, cịn có những lễ dân tộc mang đậm nét tưởng
Phật giáo như lễ mừng năm mới (Chol-chơ-nam Thơ-mây ) vào các ngày 13,
14, 15 tháng 4 âm lịch; lễ cúng ông bà tổ tiên ( Donta ) vào ngày 30 tháng 8
dương lịch; lễ cúng trăng (Okcombok ) ngày 15 tháng 10 âm lịch… đã trở

thành những ngày hội vô cùng sôi nổi và đặc sắc của đồng bào Khơ-me.
Những ngày đại lễ Phật giáo vừa nêu trên đã là chất keo gắn
bó những người dân Nam Bộ, nâng cao tình u thương đồng loại và nảy nở
lịng hy sinh, tính vị tha, củng cố lịng hiếu kính với ơng bà, cha mẹ. Ảnh
hưởng đó ngày càng sâu rộng trong quần chúng nhân dân ở Đồng bằng sông
Cửu Long.
Phong tục tập quán tại Việt Nam trong quá trình tồn tại và
phát triển đã chịu nhiều tác động của trào lưu văn hóa khác nhau, nhất là từ


17

Trung Quốc, trong đó Phật giáo đã dự phần quan trọng trong việc định hình
và duy trì khơng ít các tập tục dân gian mà chúng ta thấy vẫn còn tồn tại cho
tới ngày nay. Tuy nhiên, không phải các tập tục có sự ảnh hưởng của Phật
giáo là tốt tất cả, mà trong đó có tập tục cần phải chắc lọc lại như tập tục xin
xăm bói quẻ, tục cúng sao hạn, tục coi ngày giờ, tục đốt vàng mã, để phù hợp
với chánh pháp. Đó là nhiệm vụ nặng nề của các nhà truyền giáo trong thời
hiện đại.
2.2.3. Ảnh hưởng của Phật giáo qua các loại hình văn hoá, nghệ
thuật.
2.2.3.1. Ảnh hưởng của Phật giáo qua ca dao, thơ ca
Tư tưởng đạo lý của Phật giáo cũng thường được ông cha
ta đề cập đến trong ca dao dân ca dưới đề tài này hay khía cạnh khác để nhắc
nhở, khuyên răng dạy bảo, với mục đích xây dựng một cuộc sống an vui, phù
hợp với truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam. Quan niệm đạo Phật là
đạo hiếu, lời dạy của Phật về việc nhớ ơn và báo ơn cha mẹ là những cảm
giác suy tư in đậm trong lòng của người dân Nam Bộ, đã thể hiện linh động
và triền miên ngang qua ca dao, dân ca, mà chúng ta thấy tràn ngập khắp dân
gian Việt Nam:

“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lịng thờ mẹ kính cha
Cho trịn chữ hiếu mới là đạo con”
Hay:
“Núi cao biển rộng mênh mơng
Cù lao chính giữa ghi lịng con ơi”
2.2.3.2. Phật giáo thể hiện qua nghệ thuật sân khấu
Tính triết lý "nhân quả báo ứng" của Phật giáo đóng vai
trị quan trọng trong các bài ca tuồng, vở diễn phù hợp với đạo lý phương
Đông và nếp sống truyền thống của dân tộc. Nghệ thuật sân khấu cải lương ở
Nam Bộ, chính nhờ yếu tố phóng khống, nên nó dễ dàng tiến sâu vào chân lý
của Phật giáo, mở ra cánh cửa đưa sự tích Phật Thích ca và nhiều điển tích
khác của Phật giáo vào gia sản nghệ thuật của mình. Giáo lý "nhân quả báo
ứng, thưởng thiện phạt ác"... được các soạn giả thể hiện trong các vở cải
lương và đã được khán giả say mê thưởng thức và đã đứng vững trên diễn đàn
sân khấu trong suốt mấy chục năm qua. Tiêu biểu như các vở "Thích Ca Đắc
Đạo", "Quan Âm Thị Kính", "Mục Liên Thanh Đề". Đặc biệt gần đây (đầu
thập niên 90) có hai vở đáng chú ý là "Thốt Vịng Tục Lụy" và “Thái Tử A
Xà Thế” của soạn giả Giác Đạo Dương Kinh Thành là hai vở tuồng chuyên
chính đầu tiên của Phật giáo Việt Nam. Ngồi ra cịn có các vở chịu ảnh
hưởng ít nhiều tư tưởng Phật giáo như các vở "Phạm Công Cúc Hoa", "Tấm
Cám", "Kim Vân Kiều"... do sự ảnh hưởng tinh thần từ bi, hỷ xả của Phật
giáo nên luôn luôn các tuồng cải lương ở phần kết thúc đều có hậu.


18

PHẦN KẾT LUẬN
Phật giáo từ lâu đã thâm nhập vào tâm hồn, nếp nghĩ, lối sống của

dân tộc Việt Nam và đã trở thành bản chất và bản sắc của dân tộc Việt Nam
nói chung và của người dân ở C nói riêng. Đạo Phật đã ảnh hưởng đến mọi
sinh hoạt của người Việt từ triết lý, tư tưởng, đạo đức, văn học, nghệ thuật
cho đến phong tục tập quán, nếp sống nếp nghĩ.... Tìm hiểu và nghiên cứu về
sự “Ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần của một bộ phận
quần chúng nhân dân Miền tây Nam bộ ", chúng ta càng thấy rõ nhận định
trên. Từ quan niệm nhân sinh quan, thế giới quan, đạo lý, thẩm mỹ cho đến
lời ăn tiếng nói của quảng đại quần chúng ít nhiều đều chịu ảnh hưởng của
triết lý và tư tưởng Phật giáo. Những câu nói đầu lưỡi "ở hiền gặp lành", "tội
nghiệp", "hằng hà sa số", "ta bà thế giới"... là điều phổ biến trong quan hệ ứng
xử giữa mọi người. Qua quá trình lịch sử, traõi qua bao cuộc biến đổi thăng
trầm của đất nước, Phật giáo đã khẳng định mình và có một chỗ đứng vững
chắc trong lòng của dân tộc, tồn tại và phát triển cùng với dân tộc. Rõ ràng
Phật giáo đã đóng góp cho dân tộc ta nhiều thành tựu đáng kể về kinh tế,
chính trị, văn hóa và xã hội.
Những tác động, ảnh hưởng của Phật giáo lên đời sống cư dân Miền
tây Nam bộ là hệ quả của quá trình giao lưu văn hóa giữa văn hóa dân tộc.
Trong đó những yếu tố mang tính truyền thống, hình thành nhân cách, bản
lĩnh và bản chất của dân tộc là chủ yếun - đã gặp gỡ, hòa quyện trong những
yếu tố tinh thần, tư tưởng từ bi cứu khổ của Phật giáo Việt Nam. Những yếu
tố ngoại sinh đã góp phần lớn vào việc củng cố, duy trì vá phát triển nội hàm
bản sắc dân tộc. Trong đó Phật giáo góp phần vào việc làm phong phú thêm
cá tính, đặc trưng dân tộc người Việt ở Miền tây Nam bộ. Ngược lại, chính
những bản chất dân tộc đã làm giàu hơn nền văn hóa Phật giáo. Một minh
chứng của sự tác động qua lại này chính là sự kết hợp giữa truyền thống yêu
nước chống ngoại xâm của dân tộc với tinh thần tập thể của Phật giáo Việt
Nam, đã đưa đến nét đặc thù của Việt Nam, đem lại hình ảnh sống động của
tăng ni Phật tử qua hai cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc trong gần một
thế kỷ nay.
Miền tây Nam bộ, với vị trí địa lý- văn hóa đặc biệt, dù có muốn

hay khơng cũng tạo ra một sự hội nhập văn hóa, khơng phải là một sự hội
nhập văn hóa bình thường, mà là một sự hội nhập văn hóa của những tinh hoa
đến từ các trung tâm văn hóa tầm cỡ thế giới, như Ấn Độ, Trung Hoa, được
kết tinh trong một tôn giáo lớn- Phật giáo. Đó cũng là một sự hội nhập mà cư
dân Miền tây Nam bộ làm chủ, lợi ích của dân tộc và đất nước là chuẩn mực
cao nhất của sự hội nhập, sự hội nhập đó là thử thách và kiểm nghiệm bằng
một bề dày lịch sử. Qua thực tế cho thấy rằng, Phật giáo sau khi nhập vào nền
văn hóa nước ta đã tạo ra một thế ổn định xã hội kéo dài.
Nhân dân Đồng bằng sông Cửu Long, qua các thế hệ, đã làm cho
các giá trị nhân bản của đạo Phật bén rễ sâu sắc và cắm gốc vững bền trong


19

tâm hồn mình. Một phần là nhờ ở tính uyển chuyển trong giáo lý, tính bao
dung khơng cố chấp của đạo Phật, nhưng một phần không nhỏ là do sức sáng
tạo của người dân Nam Bộ. Tin ở sức mình, tin ở luật Nhân - Quả nghiệp báo,
động viên nhân dân hướng tới Chân - Thiện - Mỹ, đó là cơng lao của văn hóa
Phật giáo, là sự sáng tạo của nhân dân Miền tây Nam bộ.
Trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình để hịa nhập vào trào
lưu phát triển với thế giới, Việt Nam cần phải mở cửa để giao lưu với bạn bè
quốc tế ngỏ hầu tiếp thu và học tập những tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại.
Điều đó sẽ dẫn đến sự du nhập nhiều luồng văn hóa ngoại lai. Trong đó có cái
tốt, có cái xấu, làm sao chúng ta có thể phân biệt và tiếp thu cái tốt và giải trừ
cái xấu? Đây là một câu hỏi lớn cho các nhà giáo dục, đạo đức, xã hội, tơn
giáo... và nó đã trở thành một vấn đề của quốc gia chứ không phải chỉ là
chuyện cá nhân hay riêng tư nữa. Lời giải đáp rõ ràng nhất là nếu chúng ta có
một nền văn hóa lành mạnh; đậm đà bản sắc dân tộc với những tư tưởng
truyền thống tốt đẹp sẽ giúp chúng ta nhận định, chắc lọc và cũng là liều
thuốc tốt nhất giúp chúng ta chống lại những cặn bã văn hóa ngoại nhập hoặc

văn hóa mê tín phát sinh từ bản địa. Những yếu tố tích cực của Phật giáo là
một phần tư tưởng văn hóa Việt sẽ cùng với văn hóa dân tộc Việt làm nhiệm
vụ chọn lọc và phát triển văn hóa Phật giáo và văn hóa dân tộc trong thời
điểm hiện nay là hết sức cần thiết và cấp bách.


20

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và Đào tạo, Giáo trình triết học, NXB Lý luận chính trị,
2006.
2. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia, Các bộ
môn khoa học Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình triết học Mác –
Lênin (dùng cho học viên cao học), NXB Chính trị Quốc gia, 2004.
3. Trương Sĩ Hùng, Mấy tín ngưỡng tơn giáo Đơng Nam Á, NXB
Thanh niên, 2003.
4. Nguyễn Hùng Hậu , Đại Cương Triết học Phật Giáo Việt Nam, NXB
Khoa Học Xã Hội, 2002.
5. Hồ Thượng Thích Thanh Kiểm, Lược sử Phật Giáo Ấn Độ, Thành
hội Phật Giáo TP.HCM ấn hành, 1989.
6. Trần Hồng Liên, Đạo Phật trong cộng đồng người Việt ở Nam Bộ
-Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, 2000.
7. Thượng toạ Thích Thanh Duệ - Tuệ Nhã, Tập tục và nghi lễ dâng
hương, NXB Văn hố dân tộc, 2004.
8. Thích Nguyên Tạng, “Phật Giáo tại Việt Nam”, Website:

9. Thích Nhật Từ, Nghĩ Về Hệ Thống Giáo dục Phật giáo Việt Nam,

10. Trần Quốc Vượng, Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXB Giáo dục, 2001.




×