Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần ở xã hội Nhật Bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (455.79 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN THỊ THÚY ANH


ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI
ĐỜI SỐNG TINH THẦN Ở XÃ HỘI NHẬT BẢN


Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số: 62.22.80.05



TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC




HÀ NỘI - 2009
Công trình được hoàn thành tại:
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Đại học Quốc gia Hà Nội


Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS Nguyễn Hữu Vui


TS Hoàng Thị Thơ


Phản biện:
GS.TS Nguyễn Tài Thư
PGS.TS Nguyễn Thế Kiệt
TS Nguyễn Thúy Vân



Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng cấp nhà nước chấm
luận án tiến sĩ họp t
ại:
……………………………………………………………
Vào hồi giờ ngày tháng năm



Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội




2
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài luận án
Phật giáo là một tôn giáo lớn, đồng thời cũng là một học thuyết mang
đậm tính triết học sâu sắc, được truyền bá rộng rãi ở cả Nhật Bản, Việt

Nam và nhiều nơi trên thế giới. Trong những năm gần đây, với chủ trương
cùng xây dựng quan hệ hợp tác hai nước lên tầm đối tác chiến lược, Nhật
Bản và Việt Nam đều dựa vào những nét tương đồng của mỗi quốc gia để
tìm nguồn lực tinh thần hợp tác, trong đó Phật giáo đã có một vị trí đóng
góp đáng kể. Việc nghiên cứu Phật giáo Nhật Bản với chủ đề “Ảnh hưởng
của Phật giáo đối với đời sống tinh thần ở xã hội Nhật Bản” vì lẽ đó, có ý
nghĩa thiết th
ực, không chỉ mặt thực tiễn mà cả về lý luận văn hóa, chính
trị và tôn giáo.
Với tính cách là một bộ phận của đời sống tinh thần của xã hội, Phật
giáo có ảnh hưởng, cả tích cực và tiêu cực, không chỉ đến đời sống tinh
thần, mà đến đời sống xã hội nói chung. Những tác động tích cực và tiêu
cực của Phật giáo nói riêng và các hiện tượng tôn giáo nói chung, đan xen
và diễn biến phức tạ
p, trong lịch sử và trong hiện tại. Có lẽ do tính phức
tạp này, mà phương pháp tiếp cận các luận điểm về Phật giáo và về tôn
giáo nói chung thường không thống nhất, thậm chí dẫn đến những tranh
luận không nhỏ về triết học và cả về chính trị. Việc nghiên cứu ảnh hưởng
của Phật giáo trong đời sống tinh thần của xã hội Nhật Bản, do đó, sẽ góp
phần làm rõ hơ
n phương pháp tiếp cận và một số luận điểm liên quan đến
Phật giáo Nhật Bản.
Trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay, Nhật Bản cũng như Việt
Nam, đều phải dựa vào các nguồn lực tinh thần của xã hội để "ứng vạn
biến", trong đó có Phật giáo. Phát huy các giá trị tinh thần của Phật giáo,
trở thành một phần không thể thiếu, để bảo tồn và phát triển mỗi dân tộ
c
một cách độc lập, tự chủ. Là một quốc gia đã đạt được trình độ phát triển
kinh tế - xã hội cao nhưng lại có nhiều nét tương đồng với Việt Nam về
đời sống tinh thần. Việt Nam có thể tham chiếu nhiều kinh nghiệm thành

công của Nhật Bản trong việc phát huy giá trị Phật giáo, góp phần thúc

3
đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm sớm thoát khỏi tình
trạng kém phát triển và có thể trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại vào năm 2020. Đề tài này có thể góp phần cung cấp một số luận
điểm về vai trò của Phật giáo trong xu hướng phát triển chung của đất
nước hiện nay, đồng thời góp phần thúc đẩy mối quan hệ hợp tác giữa hai
nước lên tầm chiến lược.

Tình hình nghiên cứu đề tài luận án
Ngay từ giữa những năm 1960, tại Việt Nam, nhất là khu vực phía
Nam, đã bắt đầu xuất hiện các công trình nghiên cứu có đề cập đến Phật giáo
Nhật Bản. Các công trình này có dành một dung lượng khá lớn cho việc phân
tích quá trình phát triển, những đặc điểm của Phật giáo Nhật Bản. Điển hình
phải kể đến tác phẩm Lịch sử tư tưởng Nhật B
ản của Thiền sư Thích Thiên
Ân do Nhà xuất bản Phương Đông xuất bản tại Sài Gòn năm 1965, hay như
tác phẩm hai tập Nhật Bản tư tưởng sử của tác giả Ishida Kazuyoshi do Tủ
sách Kim văn Sài Gòn ấn hành năm 1972… Tuy nhiên, những nội dung về
ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần của Nhật Bản mới chỉ là
những nét chấm phá, sơ lược và phầ
n lớn dừng lại ở những phân tích dưới
góc độ lịch sử tư tưởng.
Sau khi Việt Nam thống nhất (1975), nhất là từ sau năm 1990, trong
bối cảnh quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản phát triển với nhịp độ nhanh
dẫn tới nhu cầu tìm hiểu văn hoá Nhật Bản ngày một đòi hỏi cao hơn, tại
Việt Nam đã xuất hiện các công trình nghiên cứu về văn hoá, tư
tưởng, tôn
giáo Nhật Bản, trong số đó có rất nhiều chuyên khảo do các học giả Việt

Nam thực hiện hoặc được dịch sang tiếng Việt có đề cập nghiên cứu Phật
giáo Nhật Bản. Trước hết phải kể đến tác phẩm Những con đường tâm linh
phương Đông gồm 2 tập do Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin ấn hành năm
2000, Nghiên cứu Tôn giáo Nhật Bản của Joseph M.Kitagawa do Nhà xuấ
t
bản Khoa học xã hội xuất bản năm 2002; Đời sống tôn giáo Nhật Bản hiện
nay do Phạm Hồng Thái (chủ biên), Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản
năm 2005;… Nhìn chung những công trình này đều tiến sâu hơn một bước
trong viện nghiên cứu đời sống tôn giáo Nhật Bản và ảnh hưởng của các

4
tôn giáo, trong đó có Phật giáo đối với đời sống xã hội Nhật Bản. Tuy
nhiên, nếu nhìn một cách hệ thống thì ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời
sống tinh thần xã hội Nhật Bản đã diễn ra như thế nào? Hiện nay, Phật
giáo đóng vai trò gì đối với sự phát triển văn hoá và xã hội của xã hội Nhật
Bản? Nhất là từ việc xem xét những ảnh hưởng c
ủa Phật giáo đối với văn
hoá xã hội Nhật Bản có thể rút ra những gợi ý gì cho công cuộc xây dựng
nền văn hoá mới đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam? vẫn còn là những
vấn đề tiếp tục cần được làm sáng tỏ

Luận án này sẽ góp phần trả lời câu hỏi đó từ góc độ nghiên cứu
“Ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống tinh thầ
n ở xã hội Nhật Bản”.
Thêm nữa, đề tài này được vận dụng lý luận về chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử là một hướng tiếp cận khác so với các
công trình đã có, và đề tài này còn góp phần cùng nghiên cứu vai trò của
Phật giáo trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, hội nhập quốc tế
của Việt Nam, đặc biệt trong đối tác chiến lượ
c với Nhật Bản hiện nay.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở khái quát các giai đoạn phát triển, các đặc trưng nhận diện
của Phật giáo Nhật Bản, luận án tập trung đánh giá các nhân tố và ảnh
hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần xã hội Nhật Bản, nêu lên
một số so sánh với Phật giáo Việt Nam và rút ra một số bài họ
c cần thiết.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án
Đề tài tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời
sống tinh thần trong phạm vi đạo đức, văn hoá, lối sống ở xã hội Nhật Bản
theo hai thời kỳ cơ bản: trước hiện đại và trong quá trình hiện đại hoá ngày
nay từ góc độ triết học-tôn giáo.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên c
ứu của luận án
Vận dụng lý luận triết học DVBC&DVLS; tư tưởng Hồ Chí Minh;
đường lối, luật pháp, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về tôn
giáo nói chung; đồng thời vận dụng kết hợp các PPNC chung của khoa học
xã hội như phân tích, so sánh, hệ thống, khái quát và kết hợp với các

5
PPNC của văn hóa học, sử học, tôn giáo học,… trên cơ sở tiếp thu thành
tựu có liên quan và từ những tài liệu sẵn có.
Đóng góp mới về khoa học của luận án
Trên cơ sở phân tích một cách có hệ thống ảnh hưởng của Phật giáo
đến một số mặt trong đời sống tinh thần của xã hội Nhật Bản trước hiện
đại và hiện đại, góp phần hiểu sâu hơn v
ề Phật giáo của Nhật bản.
Chỉ ra một số điểm tương đồng và khác biệt cơ bản để khai thác trong
quan hệ hợp tác giữa hai nền văn hoá hiện nay.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Góp phần cung cấp một số luận cứ khoa học cho việc hoạch định

chủ trương, đường lối của Đảng và nhà nướ
c đối với tôn giáo; giữ gìn và
phát huy bản sắc dân tộc cũng như phát triển đời sống văn hoá tinh thần
của dân tộc.
Làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy chuyên
ngành Tôn giáo học và Triết học tôn giáo; hỗ trợ cho công tác quản lý tôn
giáo.
Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, các công trình đã công bố của tác giả, danh mục
tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của luận án g
ồm 3 chương, 7 tiết.

NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬN ÁN

Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO NHẬT BẢN
1.1. Sự hình thành và phát triển của Phật giáo ở Nhật Bản
1.1.1. Sự du nhập của Phật giáo vào Nhật Bản
- Điều kiện tự nhiên và xã hội của Nhật Bản
Điều kiện tự nhiên của Nhật Bản khá đa dạng, khí hậu ôn đới, đã

nh hưởng đến tính cách, tâm lý người Nhật, như rèn luyện tinh thần dũng
cảm, tính tiến thủ. Ngoài ra, người Nhật cũng khá cởi mở, nặng tính thực
dụng với một bản lĩnh thép được hun đúc qua quá trình phát triển của đất

6
nước. Ý thức về tinh thần liên kết trong thị tộc và niềm tin vào tầm quan
trọng của các quyền lợi và uy quyền cha truyền con nối, là sức mạnh luôn
chiếm ưu thế trong suốt lịch sử của Nhật Bản và vẫn còn rất sống động
trong nước Nhật hiện đại. Tính thống nhất cao về chủng tộc (người Nhật

chiếm 99,5% dân số) và điều kiện tự nhiên - l
ịch sử có tính độc lập của
một quần đảo, đã tạo nên sự thống nhất dân tộc cao độ, từ đó là sự thống
nhất tôn giáo trên cơ sở tôn giáo bản địa (Thần Đạo); và cũng có thể nói,
Phật giáo từ một tôn giáo ngoại nhập, đã trở thành tôn giáo bản địa trên
nhiều phương diện khác nhau.
- Cách thức tổ chức xã hội
Xã hội Nhật Bản truyề
n thống tồn tại trên những nguyên tắc của một
nền quân chủ. Chính quyền Trung ương của Thiên hoàng có quyền lực cai
quản các tộc người khác, Thiên hoàng thường đại diện cho một tộc người
lớn mạnh nhất và được coi là sứ giả, đại diện cho thần dân trong mối quan
hệ với thần thánh. Những tộc người khác mặc dù thần phục Thiên hoàng
nhưng vẫn có quyền lực độc lậ
p, vẫn có khả năng kiểm soát đất đai và cư
dân của mình. Vì vậy, Quyền lực của Thiên hoàng mang tính tôn giáo
nhiều hơn là tính chính trị. Các đại thần, thường là những người đứng đầu
các dòng họ quý tộc, họ là các chúa đất có quyền lực; quyền lực ấy đươc
duy trì theo kiểu cha truyền con nối về mặt tôn giáo. Tùy theo tương quan
lực lượng giữa các dòng họ mà quy định dòng họ nào được đảm nhiệm
ch
ức năng gì.
- Sự tác động của tín ngưỡng dân tộc
Phật giáo du nhập vào Nhật Bản trong bối cảnh người Nhật đã có
một truyền thống tín ngưỡng khá vững chắc: tín ngưỡng về Thần (Kami).
Phật giáo vào Nhật Bản trong điều kiện xã hội đang ở giai đoạn xã hội thị
tộc, mỗi thị tộc chỉ thờ Thần của thị tộc mình. B
ởi vậy, việc thờ cúng của
Thần đạo hết sức đa dạng, sự đa dạng của các Thần là sự biểu hiện của lối
tư duy khá phổ biến của người Nhật Bản: niềm tin đa dạng và hỗn tạp dẫn

đến đối tượng thờ cúng cũng đa dạng, hỗn tạp. Thực trạng này phản ánh
thực tế phân biệt tín ng
ưỡng giữa các thị tộc trên quần đảo Nhật Bản, nó

7
không tạo cơ sở tinh thần cho sự thống nhất của quốc gia Nhật Bản. Vì
những lẽ trên, nên từ buổi đầu du nhập, Phật giáo luôn góp phần bổ sung,
bù đắp cho những điều mà Thần đạo không thể có. Do đó xuất hiện xu
hướng hỗn dung, vay mượn lẫn nhau giữa Thần và Phật, trong đó yếu tố
trội là Thần.
- Giao lưu văn hóa
Do sự biệt lập và thi
ếu những mối giao lưu văn hóa mà so với Triều
Tiên, Trung Hoa, trình độ văn minh của Nhật Bản lúc đó thấp hơn, đến
gần cuối thế kỷ VII mới có sự gia tăng đột ngột trong quá trình du nhập
các yếu tố của văn hóa Trung Hoa vào Nhật Bản. Những tiếp xúc, giao lưu
văn hóa giữa Nhật Bản và Trung Hoa lúc đầu thông qua vai trò của các
thương gia, thợ thủ công hay tù binh hay qua những vật phẩm hữu hình có
được trong các cuộc trao đổi. Dần dần những kiểu tiếp xúc đó trở nên thứ
yếu và thay bằng cuộc tiếp xúc tôn giáo. Điều cần thấy ở đây là, Phật giáo
lúc đó đã phát triển cực thịnh ở Trung Hoa và trở thành công cụ chuyển tải
văn hóa quan trọng nhất từ Đại Lục sang Nhật Bản. Quá trình giao lưu,
tiếp biến Phật giáo nói riêng và văn hóa nói chung ở Nhật Bản trả
i qua hai
giai đoạn: tiếp nhận cái mới và kết hợp với bản sắc văn hóa truyền thống,
và giao lưu, tiếp biến văn hóa cũng là nhân tố tác động vào quá trình du
nhập, phát triển của Phật giáo ở Nhật Bản.
1.1.2. Quá trình tiếp biến của Phật giáo Nhật Bản
Kể từ khi du nhập đến nay, Phật giáo Nhật Bản đã có lịch sử tồn tại
khoảng 1500 năm. Trong kho

ảng thời gian đó, Phật giáo trải qua nhiều
biến cố, liên quan chặt chẽ với sự phát triển của xã hội Nhật Bản. Có thể
điểm qua các thời kỳ sau:
Phật giáo thời kỳ Asuka (538 - 710)
Hai tông phái được truyền vào Nhật thời kỳ này là Tam luận tông
(Sanron shu) và Pháp Tướng tông (Hosso shu ). Hai tông này truyền vào
Nhật Bản hầu như nguyên bản, ngoài việc đạo, họ còn làm việc thiện là
giúp dân đào giếng, đóng thuyền, bắ
c cầu…
Phật giáo thời kỳ Nara - Nại Lương (710 - 794)

8
Trong thời kỳ Nara, Phật giáo phát triển mạnh mẽ và khá đa dạng.
Lúc này ở Nhật các tông phái Phật giáo chủ yếu: Thành thực tông (Jojisu
shù); Câu xá tông (Kusha shù); Luật tông (Ritsu shù); Hoa Nghiêm tông
(Kegon shù); Tam luận tông (Sanron shù); Pháp tướng tông (Hosso shù).
Mặc dù có những dị biệt, song các tông phái đó đều phản ánh sự khao khát
hướng tìm bản chất của vũ trụ; và để hướng đến nhận thức bản chất đó
phải giải phóng tư duy khỏi mê chướng bởi ảo ảnh c
ủa giác quan. Thêm
vào đó, chúng đều hướng con người tới những hoàn thiện mà trước hết là
đạo lý làm người.
Phật giáo thời kỳ Heian - Bình An (794 - 1185)
Kết thúc thời kỳ Nara, Nhật Bản diễn ra tình trạng rối loạn về xã hội,
đồi bại về chính trị do sự tranh giành quyền lực trong tầng lớp cầm quyền.
Nhưng vẫn xuất hiện thêm ba tông phái Phật giáo: Thiên Thai tông; Chân
Ngôn tông; Tịnh Độ tông.
Như vậy, trong thời Heian, Phậ
t giáo ở Nhật Bản có sự phát triển.
Ngoài 6 tông phái đã có từ thời Nara, nay xuất hiện thêm nhiều tông phái

khác và cũng có sự phân hóa giữa Phật giáo quý tộc và Phật giáo dân gian.
Sự phát triển của Phật giáo một mặt, có sự nâng đỡ từ phía các tập đoàn
cầm quyền, do nó đã đáp ứng lợi ích cá nhân của những kẻ quý tộc muốn
tiến thân; mặt khác, tạo dựng được chỗ tựa về tư
tưởng cho chính các
Thiên Hoàng. Cũng thông qua Phật giáo, văn minh của Trung Hoa được
du nhập, dù thời kỳ này quan hệ giữa Nhật Bản và Trung Hoa càng về cuối
càng tỏ ra lạnh nhạt và không thể sánh với thời kỳ Nara. Sự xung đột giữa
các chùa, tu viện Phật giáo đã góp phần đẩy đất nước lâm vào tình trạng
nội chiến.
1.1.3. Phật Giáo Nhật Bản phát triển
Phật giáo thời kỳ Kamakura - Kiếm Thương (1185 - 1333)
Trong thời kỳ này, Ph
ật giáo có hai khuynh hướng mới. Một mặt, quay
trở lại các tông phái của thời Nara; mặt khác là sự xuất hiện các tông phái
mới trong Thiền tông. Do ảnh hưởng của chiến tranh; do sự sa đọa của
tăng lữ; do quan hệ Nhật - Trung bắt đầu được thiết lập. Đồng thời, cũng

9
do nội chiến, tâm trạng con người bất an, … Những tác động trên đã làm
cho tín ngưỡng Phật giáo được phục hồi, các tông phái thời Nara: Hoa
Nghiêm tông; Pháp tướng tông; Luật tông; Tịnh Độ tông; Nhật Liên tông
được phục hưng, ngoài ra Thiền tông được du nhập và phát triển .
Sự phát triển của Thiền tông trong giai đoạn này đã đưa đến một sự
dung hợp mới giữa Nho, Phật và tư tưởng của tầng lớp võ sĩ đạo. Trong
thời kỳ Kamakura, Tịnh Độ tông, Nhật Liên tông và Thiền tông là ba dòng
Phật giáo mới trở thành các tông phái đặc sắc của Nhật Bản. Trong thời kỳ
Kamakura, có thể nói đã hình thành "Phật giáo Nhật Bản" bản xứ. Các vị
đại sư thời kỳ này, bắt đầu viết các tư tưởng của mình bằng tiếng Nhật.
Phật giáo thời Muromachi (1333- 1568) và Azuchi- Momoyama (1568 -

1600)
Đối với Phật giáo thời kỳ này có sự phát triển mạnh mẽ
của Thiền
tông, Nhật Liên tông và Tịnh Độ tông. Cả ba tông phái trên đều có quan hệ
mật thiết với đời sống xã hội, trở thành trung tâm tinh thần - tôn giáo và cả
kinh tế của xã hội. Nhà chùa đã tiến hành hàng loạt hoạt động kinh tế, như
tổ chức các ngân hàng địa phương, kinh doanh dược liệu, quán trọ, phòng
tắm … Vì vậy thế lực kinh tế của các chùa, tu viện rất hùng hậu. Ngoài ra
chùa, tu viện còn trở thành các trung tâm học thuật. Nhà chùa kèm luôn
chức năng của nhà trường. Trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật, dấu ấn của
Phật giáo cực kỳ sâu đậm.
Phật giáo thời kỳ Edo - Giang Hộ (1600 - 1868)
Mặc dù trong thời kỳ Muromachi và Azuchi - Momoyama, Phật giáo
tiếp tục có những bước phát triển mới; nhưng do đấu tranh nội bộ, xung
đột bạo lực giữa các tông phái gia tăng cũng như sự lạm dụng Phật giáo để

ng cường quyền lực thế tục nên vào cuối thời kỳ này, Phật giáo sa sút.
Sự sa sút đó còn do sự lớn mạnh trở lại của tư tưởng Nho giáo, Thần đạo
và sự cạnh tranh của Cơ Đốc giáo (được du nhập vào Nhật năm 1549).
Thêm vào đó, do chính sách mới của giới lãnh chúa phong kiến nên Phật
giáo trở nên xơ cứng, thiếu sinh động và rơi vào trạng thái trì trệ.

10
Trong thời kỳ này, ngoài hai phái Thiền tông đã có từ thời
Muromachi (Tào Động và Lâm tế) còn xuất hiện thêm phái Thiền thứ ba là
Hoàng Bá.
Mặc dù việc nghiên cứu kinh điển, giáo lý Phật giáo có những tiến
triển, song ở thời kỳ này, do tư tưởng bị các Mạc Phủ khống chế nên tính
chất giáo điều của Phật giáo gia tăng. Lịch sử gọi Phật giáo thời này là
Phật giáo đọc kinh. Đây là thời kỳ truy

ền thống Thần - Phật hợp nhất dần
dần bị mai một, nhường chỗ cho sự khôi phục vị thế quốc đạo của Thần
đạo vào thời kỳ Minh Trị duy tân.
Phật giáo từ thời Meiji - Minh Trị
Trong những năm đầu thời kỳ Minh Trị, các tổ chức tôn giáo có sức
mạnh đáng kể trong chính phủ. Kiểu tổ chức tôn giáo như vậy không có vị
trí chính thức trong chính quy
ền, nhưng uy thế tôn giáo đối với Thiên
Hoàng vẫn là một thứ vũ khí đầy quyền lực. Những nghi thức cổ xưa liên
quan tới Thiên Hoàng đã được chính thức hóa trong Thần đạo. Do đó, Phật
giáo lâm vào một giao đoạn cực kỳ khó khăn. Để tồn tại, Phật giáo phải tự
thích nghi và đổi mới. Phật giáo trở thành thế lực cổ vũ cho chủ nghĩa đế
quốc
đương thịnh hành ở Nhật Bản, và trở thành đồng minh của chủ nghĩa
"Đại Đông Á" của quân phiệt Nhật. Nhiều đảng phái chính trị của Phật
giáo hình thành mà lớn nhất là Sokagakkai (Sáng giá học hội) (1945), có
liên hệ với Kômeitô (Đảng Công Minh) với trên 10 triệu tín đồ.
Quá trình tiếp xúc văn hóa Đông - Tây, ở thời kỳ từ sau Minh Trị,
nhất là bước vào đầu thế kỷ 20, đã xuất hiện hàng loạt tông phái, hội
đoàn
của các tôn giáo. Riêng Phật giáo, theo thống kê niên giám Tôn giáo xuất
bản năm 1950, đã từ 13 tông, 56 phái tăng vọt lên 162 phái. Sau chiến
tranh thế giới lần thứ II, Nhật Bản bị quân đồng minh chiếm đóng. Chính
sách tự do tín ngưỡng đã tạo điều kiện cho sự phát triển của các tôn giáo
ngoài Thần đạo như Phật giáo, Tin lành, nhiều hiện tượng tôn giáo mới nổi
lên như Ômoto, Aum….
Trong Phật giáo, lần đầu tiên đã có tổ ch
ức thống nhất lấy tên là Hội
Liên hiệp Phật giáo theo kết quả của đại hội họp năm 1915 (năm thứ 4 Đại


11
Chính). Đại hội này đã thông qua hai Nghị quyết về vấn đề tham chính và
xác lập hành chính tôn giáo. Một xu hướng khác của Phật giáo ở Nhật Bản
từ sau Minh Trị (1912) là phát tán ra nước ngoài.
Tóm lại, có thể nói rằng so với một số nước khác trong khu vực, thời
điểm Phật giáo du nhập vào Nhật Bản muộn hơn. Nhưng nhờ sự nâng đỡ
của chính quyền mà Phật giáo có quá trình phát triển khá liên tục, nên
nhanh chóng trở thành một tôn giáo lớ
n của Nhật Bản. Phật giáo được du
nhập vào Nhật Bản chủ yếu từ Trung Hoa và Triều Tiên. Vì lẽ ấy, Phật
giáo Nhật Bản mang đậm dấu vết của văn hóa Trung Hoa nhất là trong
những thời kỳ đầu. Đến thời kỳ Kamakura (1185- 1333) đã hình thành
Phật giáo "dân tộc Nhật Bản".
Cho đến nay, Phật giáo Nhật Bản vẫn có đặc điểm phát triển đa dạng
của các giáo phái, và ch
ỉ giữ lại những giáo phái phù hợp với yêu cầu của
xã hội trong mỗi thời kỳ lịch sử. Đây là tính quy luật xuyên suốt các giai
đoạn phát triển của Phật giáo nước này.
1.2. Những đặc trưng chủ yếu của Phật giáo Nhật Bản
1.2.1. Nhận diện Phật giáo Nhật Bản
Phật giáo Nhật Bản là một khối kết hợp của nhiều trường phái, tông
phái, nhánh phái và chi phái. Việc th
ực hành tôn giáo của các tông phái
Phật giáo cũng rất khác nhau. Có thể khái quát 6 đặc điểm của mô hình
Phật giáo Nhật Bản: Một là, Phật giáo Nhật Bản có tính dân tộc chủ nghĩa;
hai là, Phật giáo Nhật Bản là một thuyết được thu gọn của hỗn dung Thần
- Phật, duy trì mãi cho tới tận thế kỷ thứ XIX; ba là, Phật giáo Nhật Bản đã
hạ thấp xuống tới trình độ tập tục và tín ngưỡng tôn giáo ma thu
ật; bốn là,
Phật giáo Nhật Bản có khuynh hướng phụ thuộc vào những phẩm chất

thánh thiện của các lãnh đạo tôn giáo; năm là, Phật giáo Nhật Bản có thiên
hướng hiểu ý nghĩa của cuộc sống và thế giới theo lối thẩm mỹ hơn là đạo
đức siêu hình; sáu là, Phật giáo Nhật Bản khẳng định tính tối hậu của thế
giới tự nhiên.

12
1.2.2. Bốn đặc trưng chủ yếu của Phật giáo Nhật Bản
Trong mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước mặt trời mọc, lại bộc lộ rõ
một số đặc điểm của Phật giáo. Nhưng xem xét toàn bộ quá trình phát triển
của Phật giáo ở nước này, kể cả thực trạng Phật giáo hiện nay, có thể khái
quát một số đặc đi
ểm chung của Phật giáo Nhật Bản như sau:
Tính dân tộc trên cơ sở tổng hợp các yếu tố tôn giáo ngoại lai và bản
địa: Nét đặc trưng cho đặc điểm dân tộc chủ nghĩa của Phật giáo Nhật Bản
là, về giáo lý, nó dựa vào thuyết Thần - Phật hỗn hợp, thậm chí nó dựa vào
cả Khổng giáo và lễ nghi thờ tổ tiên nói riêng và Thần đạo nói chung của
Nhật Bản. Về ni
ềm tin tôn giáo, trong quá trình phát triển, Phật giáo Nhật
Bản, dù có bị ảnh hưởng bởi những học thuyết tư tưởng khác nhau thì
niềm tin các vị thần Nhật Bản là hiện thân của các Phật và Bồ tát Ấn Độ
vẫn không thay đổi. Nghĩa là tất cả những gì là đặc trưng cho tính dân tộc
chủ nghĩa của Phật giáo Nhật Bản đều là sự kết hợp giữa các yếu tố Nhật
B
ản với các yếu tố ngoại lai (Phật giáo Triều Tiên, Trung Quốc và Khổng
giáo Trung Quốc). Nhưng kết quả thì hòan toàn mang tính Nhật Bản, từ
vai trò "bảo hộ quốc gia" của Phật giáo, đến Thiền và Trà đạo, Hoa Đạo,
Kịch No, nghệ thuật Thư pháp…Phật giáo Nhật Bản coi nghi lễ thờ cúng
Taishi (Thái tử) ngang với nghi lễ thờ cúng Thích Ca Mẫu Ni (Thái tử Tất
Đạt Đa) và Di lặc (Thái tử Ajita). Mặc dù chỉ là một cư
sĩ, nhưng Thái tử

Shotoku, được Phật tử tôn kính như một lãnh tụ tinh thần hoặc là hiện thân
đức Phật tổ Nhật Bản.
Tính thế tục sâu sắc của Phật giáo Nhật Bản: Đặc điểm dân tộc hóa (bản
địa hóa) và thế tục hóa là cách thức phát triển Phật giáo và cả Kitô giáo,
hai tôn giáo thế giới phát triển được ở những đất nước không phải nơi sinh
ra nó. Đặc đ
iểm thế tục hóa (và dân tộc hóa) của Phật giáo Nhật Bản, sở dĩ
sâu sắc hơn so với nhiều nước khác là bởi mức độ ứng xử với các giáo lý,
nghi lễ Phật giáo trong đời sống xã hội. Nghi lễ có tính tôn giáo ở Nhật
Bản ngày nay chủ yếu được thể hiện qua các thói quen xã hội giản dị
(phong tục, tập quán, lễ hội), tức là bằng những khuôn mẫu ứng xử th
ường
nhật, nhằm làm giàu tính người trong quan hệ cộng đồng.

13
Mặt khác, đặc điểm thế tục hóa thể hiện ngay từ động cơ, cách thức,
du nhập Phật giáo bằng con đường thoát khổ được thể hiện thông qua hành
động làm giàu tính người trong quan hệ cộng đồng. Đặc biệt, tính thế tục
hóa sâu sắc ở Phật giáo Nhật Bản thể hiện qua Thiền. Thiền không chỉ là
một tông phái Phật giáo mà trở thành cách thức ứng xử trong đời sống xã
hội, t
ừ tư tưởng, đạo đức, lối sống đến hoạt động chính trị, sản xuất - kinh
doanh, văn hóa nghệ thuật. Qua đó, Thiền từ chỗ là một triết lý khi vào
Nhật Bản đã trở thành hành vi đạo đức để ứng xử hoặc để cai trị xã hội.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, dưới tác động của Hiến pháp
Nhật Bản (1946), sau đó là Luật pháp nhân tôn giáo, đ
ã tách tôn giáo khỏi
chính trị, khỏi Nhà nước và cho phép tự do tôn giáo. Quá trình đó cũng là
quá trình thế tục hóa tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng.
Sự đa dạng của các giáo phái: Ngày nay cũng như trong lịch sử, Phật

giáo Nhật Bản có nhiều giáo phái khác nhau. Phật tử Nhật Bản có đặc
điểm là tu luyện theo Sơn môn. Cho đến năm 1915, Phật giáo nước này
mới có tổ chức thống nhất là Hội liên hiệp Phật giáo. Các tông phái Phật
giáo Nhật Bản có từ
mức độ Thiền định cho tới mức độ có tính cuồng tín
của tín đồ phái Liên tông; và từ mức độ tranh luận rắc rối về thực tại của
Thiên Thai tông tới các lễ nghi tỷ mỷ chi tiết của Chân Ngôn tông. Giáo lý
của những tông phái này cũng không kém phần đa dạng so với các hoạt
động thực tiễn của chúng. Bởi lẽ, tín đồ của các tông phái này gồm những
người có tư tưởng triết h
ọc ở tầng lớp trên và cả những người cuồng tín
nhất thuộc các tầng lớp bình dân.
Từ đầu thập niên 70 thế kỷ XX, với sự xuất hiện của các tổ chức
"Tôn giáo mới - mới", "Thần minh nhỏ - nhỏ", số lượng tổ chức tôn giáo
có thiên hướng Phật giáo gia tăng. Theo niên giám tôn giáo năm 1994 của
Nhật Bản thì đến cuối năm 1993 nước này có 231.094 tổ chức tôn giáo,
183.996 pháp nhân tôn giáo (thần xã, chùa, việ
n, thánh đường, …)
219.720.000 tín đồ. Như vậy số lượng tín đồ vượt dân số Nhật Bản khoảng
100.000.000. Nghĩa là một người dân có thể là tín đồ của nhiều tôn giáo
khác nhau, trong đó có Phật giáo.

14
Tính nhân đạo hiện thực: Phật giáo Nhật Bản không chỉ dựa vào những
triết lý kinh điển Phật giáo, mà còn dựa vào nhu cầu hướng thiện của con
người. Các phật tử Nhật Bản không quan tâm nhiều đến việc thấu hiểu triết
lý và giới luật Phật giáo, mà tập trung vào truyền thống lịch sử Phật giáo
theo các khái niệm thuộc di sản Thần đạo của họ cũng như theo trả
i
nghiệm bản thân. Kết quả là hình thành Phật giáo "Dân tộc Nhật Bản" với

khuynh hướng tôn sùng những công việc: đuổi tà ma; phù phép; chữa
bệnh; tu luyện khổ hạnh; sấm truyền… của những nhân vật đặc biệt, như
phù thủy, nhà phép thuật, thầy lang, tu sĩ khổ hạnh, nhà tiên tri trong dân
gian. Phật giáo Nhật Bản thông qua đó tìm cõi Niết Bàn không phải ở
những triết lý và đạo đức cao siêu, mà ở những tín đi
ều đơn giản, ở những
hình mẫu thế tục. Phật giáo Nhật Bản, vì thế, hiện diện như một tôn giáo
về tình thương, lòng nhân đạo, đặc biệt đối với những người bị chà đạp, bị
áp bức. Tính nhân đạo hiện thực của Phật giáo Nhật Bản còn được thể hiện
ở khuynh hướng thẩm mỹ; Tình yêu và sự hòa đồng với thiên nhiên, ví dụ
được thể hi
ện qua nghệ thuật Bonsai, trà đạo….

Chương 2
PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG TINH THẦN NHẬT BẢN
TRƯỚC HIỆN ĐẠI
2.1. Khái niệm đời sống tinh thần xã hội
Đời sống tinh thần xã hội là toàn bộ những sản phẩm, những hiện
tượng, những quá trình, những hoạt động, những quan hệ, những giá trị
tinh thần của con người, phản ánh đời sống vật chất xã hộ
i và được thể
hiện như là một phương thức hoạt động và tồn tại tinh thần của con người
trong những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định.
2.2. Phật giáo với tư tưởng, đạo đức và lối sống của xã hội Nhật Bản
trước hiện đại
2.2.1. Phật giáo với tư tưởng của Nhật Bản trước hiện đại
V
ề bản thể luận (thế giới quan)
Nhân dân Nhật Bản biến Phật giáo từ một tôn giáo hướng vào triết lý
và đạo lý cao siêu thành tôn giáo cầu nguyện cho ước vọng thoát khỏi

quan hệ mất tự do, sự lệ thuộc để vươn lên cái cao cả, cái tuyết đối.

15
Về nhận thức luận và phương pháp tư duy: Phật giáo khi du nhập vào
Nhật Bản có những đặc điểm đặc thù, trong đó như đã nhận xét, nó gần gũi
với đời sống thế tục, đạo đức, thẩm mỹ thế tục hơn là triết lý cao siêu.
Chính vì những lý do này mà logic học Phật giáo, kể cả hiện lượng và tỷ
lượng đề có ảnh hưởng lớn đế
n đời sống tinh thần của xã hội Nhật Bản,
đặc biệt là về phương diện lối sống, nhận thức. Những ảnh hưởng đó cộng
với sự tiếp kiến văn hoá phương Tây đã có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát
triển của tư duy người Nhật Bản, qua đó ảnh hưởng tới sự phát triển khoa
học và công nghệ hiệ
n đại ở Nhật Bản hiện nay.
Về nhân sinh quan (giải thoát luận): Phật giáo cũng như tôn giáo nói
chung, không chịu trách nhiệm về việc có những quan hệ tha hóa trong các
lĩnh vực đời sống xã hội, mà trái lại Phật giáo tái hiện lại quá trình
"chuyển hóa" sức mạnh của chính con người thành lực lượng xa lạ với nó,
làm đảo lộn, chặn đứng hay dịch chuyển các quan hệ hiện thực. Khi tái
hiện sự tha hóa hiệ
n thực của con người, Phật giáo đương nhiên không chỉ
thực hiện chức năng tiêu cực, mà thể hiện cả chức năng tích cực trong việc
góp phần giải thoát con người khỏi các lực lượng xa lạ (bể khổ) đang
thống trị con người. Bằng cách đó, Phật giáo thực hiện chức năng đền bù,
bù đắp cho những con người bị thiệt thòi, yếu thế, lệ thuộc hay b
ất lực
nhằm xây dựng lại ý thức cũng như tham gia cải biến những điều kiện sinh
tồn khách quan. Điểm tích cực của Phật giáo là nó không gieo rắc lượng
"thuốc phiện" quá mức.
2.2.2. Phật giáo với đạo đức, lối sống của xã hội Nhật Bản trước hiện

đại:
Như đã biết, trước khi Phật giáo du nhập vào Nhật Bản, xã hội Nhật
Bản đang ở trong giai đoạn cuối của xã hội thị tộc Mặc dù việc hình thành
quốc gia có muộn hơn so với một số nước trong khu vực nhưng nước Nhật
khi đó lại là một tổ chức xã hội có quy củ. Do điều kiện sống khắc nghiệt,
nông nghiệp là nguồn sống chủ yếu, tài nguyên nghèo nàn, cho nên từ thời
thượng cổ, người Nhật quen sống thanh b
ạch, giản dị. Trong điều kiện
sống như vậy, tình yêu thiên nhiên đã là truyền thống mỹ học được bắt rễ

16
sâu trong di sản văn hóa dân tộc Nhật Bản. Ngoài các chuẩn mực và giá trị
kể trên, từ rất sớm, người Nhật đã có ý thức cộng đồng, ý thức dòng họ
mạnh, nên cái nhìn của họ đối với cuộc sống rất giàu tình cảm đồng loại.
Mặt khác, cũng nhờ tín ngưỡng Thần mà con người Nhật Bản có ý thức
phục tùng trật tự và quyền lực trong tông tộc.
Như vậ
y, trước khi Phật giáo du nhập, ở quốc gia đảo này, đã từng
tồn tại một hệ thống các chuẩn mực đạo đức. Khi Phật giáo và các hệ
thống tư tưởng ngoại lai khác được du nhập thì vai trò của chúng trên
phương diện đạo đức chính là ở chỗ, làm giàu và sâu sắc hơn hệ thống đó,
góp phần đưa hệ thống đó đến chỗ hoàn thiện hơn, mặc dù chúng có
nhữ
ng tiêu cực nhất định.
Trong quá trình lịch sử, sự giáo dục của nhà chùa đã góp phần hình
thành một nền văn hóa đạo đức dày dặn ở Nhật Bản. Đạo đức ở Nhật Bản
nói riêng và các nước Đông Á nói chung, không chỉ quy vào phép ứng xử
dựa theo tập quán và truyền thống. Mà hơn thế, đạo đức là đạo làm người
gồm thái độ đối với Thần - Phật, đối với ngườ
i khác, tấm gương sống và

phép ứng xử với đất, trời, người, vật.
Ngoài viêc cùng các tôn giáo và hệ tư tưởng xã hội khác tham gia
hình thành và làm phong phú nền đạo đức xã hội, trong quá trình tồn tại,
Phật giáo cũng bộc lộ những ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với xã hội
Nhật Bản. Những ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo không chỉ tồn tại trong
lĩnh vực ý thức, trong tư t
ưởng mà còn cả trong nhân cách của các tầng lớp
sư tăng. Những hạn chế đó có phần tạo nên những ảnh hưởng xấu đối với
xã hội và trong thực hành nền đạo đức của người Nhật Bản, song chính
người Nhật một phần nhờ Phật giáo cũng đã biết hạn chế những yếu tố đó.
Ngày nay Nhật Bản đã trở thành một nướ
c công nghiệp hiện đại bậc
nhất trên thế giới, song người Nhật vẫn bền chí, kiên gan, dẻo dai âm thầm
đến kỳ lạ để đưa đất nước tiến mạnh về phía trước. Trong quá trình hội
nhập vào quá trình toàn cầu hóa, phẩm chất trọng danh dự, trọng chữ tín
vẫn trụ vững trước cơn bão của văn minh vật chất theo kiểu phương Tây.

17
Trong một nhân cách đa diện và giàu sắc thái của người Nhật, những đóng
góp đạo đức của Phật giáo là không thể bác bỏ.
2.3. Phật giáo với văn hóa nghệ thuật và phong tục, lễ hội của xã hội
Nhật Bản trước hiện đại
2.3.1. Phật giáo với văn hóa nghệ thuật của xã hội Nhật Bản trước
hiện đại
Giáo lý Phật giáo bàn luận về thế giới n
ội tâm của con người, chỉ ra
cách thức để đạt tới chiều sâu và sự giàu có của tâm hồn. Vì lẽ đó, nó để
lại dấu ấn sâu sắc trong văn hóa nghệ thuật. Trong lịch sử, quá trình truyền
bá Phật giáo cũng là quá trình truyền bá văn hóa nghệ thuật, như các
truyền thuyết về Đức Phật, kinh kệ, giáo lý của các giáo phái, và trước hết

là văn tự, vì Nhật Bản cho đến khi du nhập Phật giáo v
ẫn chưa có văn tự.
Phật giáo ảnh hưởng đến quá trình phát triển những lĩnh vực của văn
hóa nghệ thuật Nhật Bản:
Một là, về văn học, việc chép kinh bằng chữ Hán đã góp phần hình
thành chữ Nhật, cũng như góp phần hình thành và phát triển thi ca với nội
dung mang đậm ảnh hưởng của triết lý Phật giáo.
Hai là, về nghệ thuật kiến trúc: Ngay từ khi tiếp xúc vớ
i Phật giáo
những ngôi Chùa được dựng lên với những đường uốn lượn tinh vi, tao
nhã theo các truyền thống Tịnh Độ tông, Thiền tông, Chân Ngôn tông,
Thiên Thai tông… Đó là các công trình đồ sộ, tinh xảo, thể hiện tình yêu
thiên nhiên, sự quý trọng phẩm chất nội tâm của con người, sự tôn kính
Thiên Hoàng.
Ba là, về lĩnh vực hội họa, điêu khắc: Sự du nhập và phát triển của
Phật giáo ở Nhật Bản đã góp phần hình thành một phong cách hộ
i hoạ
mới, lấy chủ đề từ các biểu tượng của Phật giáo. Hội họa Nhật Bản phát
triển qua các thời kỳ lịch sử chịu ảnh hưởng của các tông phái Phật giáo
giống như nghệ thuật kiến trúc.
Bốn là, về lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn: Đặc thù nhất của hình thức
nghệ thuật biểu diễn Nhật Bản truyề
n thống chịu ảnh hưởng sâu sắc của
Phật giáo là kịch xen múa – âm nhạc. Loại nghệ thuật này có nguồn gốc từ

18
nghi lễ, phản ánh quan niệm hiện hữu trong Phật giáo, diễn viên là tu sĩ
đảm nhận vai trò trung gian giữa thế giới thần thánh và thế giới con
người…
2.3.2. Phật giáo với tập quán, lễ hội của xã hội Nhật Bản trước hiện

đại
Trong tập quán của người Nhật, việc chia tách để tìm ra những ảnh
hưởng của Phật hay ảnh hưởng của Nho, của tôn giáo hay của thế tục
nhiề
u khi rất khó khăn. Tuy nhiên, xuyên thấm qua các tập quán đó lại có
thể nhận ra những dấu ấn của Phật giáo. Đó là sự mềm mại trong giao tiếp
và ứng xử, nhân ái trong quan hệ với thiên nhiên, con người; một lối sống
cá nhân cần cù, cần kiệm và giản dị; một khả năng siêu thoát khi nhìn
ngắm tạo vật và sự lóe sáng của hành động khi dồn nén…Những giá trị đó
cũng đồng thời là nhữ
ng giá trị ẩn chứa trong Phật giáo.
Việc đánh giá ảnh hưởng của Phật giáo đến các tập quán, lễ hội
truyền thống ở Nhật Bản, là công việc khó khăn cần rất nhiều sự nghiên
cứu dày công. Hơn nữa, đối với một nền văn hóa được xem là sự tích hợp
của nhiều giá trị bản địa và ngoại lai như văn hóa Nhật Bản, thì công việc
đó càng tr
ở nên khó khăn. Duy chỉ có một điều dễ nhận thấy là, trong các
tập quán, lễ hội, có nhiều lễ hội phát tích từ Phật giáo. Nhiều lễ hội có địa
điểm "thiêng" là các chùa, tu viện Phật giáo. Quan trọng hơn, ý nghĩa của
các lệ hội rất phù hợp với tinh thần "từ, bi, hỷ, xả" của nhà Phật.
Tóm lại, Phật giáo trở thành nơi bảo lưu, giữ gìn và tham gia sáng
tạo nhiề
u giá trị văn hóa truyền thống của Nhật Bản. Mặc dù vai trò của
Phật giáo Nhật Bản bị quy định bởi địa vị khác nhau của nó trong các giai
đoạn lịch sử, và việc thực hiện vai trò này không giống nhau giữa các giáo
phái, song Phật giáo nước này đã lan tỏa ảnh hưởng của mình không chỉ
trên bình diện tư tưởng, mà còn trong cả hành vi, lối sống của con người;
không chỉ ảnh hưởng đến chính trị mà c
ả trong kinh tế, văn hóa và cuối
cùng được hội tụ ở nhân cách người Nhật. Chính Phật giáo là ngôi trường

đầu tiên đã hun đúc sự học, góp phần đào tạo nhân tài…. Phật giáo dù trải
qua những giai đoạn thăng trầm khác nhau trong lịch sử Nhật Bản, thì nó

19
đã là một truyền thống tôn giáo, triết học, văn hóa, chí ít cũng trong những
lĩnh vực cơ bản và bền vững của đời sống tinh thần xã hội Nhật Bản, từ
văn hóa nghệ thuật, đạo đức xã hội đến tập quán, lễ hội.

Chương 3
PHẬT GIÁO VÀ ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA XÃ HỘI NHẬT
BẢN HIỆN ĐẠI
3.1. Phật giáo và xã hội Nhật B
ản hiện đại
3.1.1. Một số đặc trưng thế tục hóa Phật giáo ở Nhật Bản
Trong những thập niên sau chiến tranh thế giới thứ hai, đặc biệt từ
thập niên 70 thế kỷ XX, do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan, nên
ảnh hưởng, vai trò của tôn giáo ngày càng nhường chỗ cho ảnh hưởng và
vai trò của xã hội thế tục, Kết cục là diện mạo và đời sống tôn giáo ngày
càng được thế tục hóa. Quá trình thế t
ục hóa Phật giáo không diễn ra một
cách giản đơn, mà phức tạp và đa phương hướng, biểu hiện chính là hiện
tượng xuất hiện nhiều tổ chức tín ngưỡng - tôn giáo không giống với tôn
giáo truyền thống. Chúng có hai loại: một loại ra đời trong nội bộ tôn giáo
truyền thống, không tách rời đời sống tôn giáo truyền thống nhưng chúng
có biểu hiện ra bằng nhiều tín ngưỡng và hoạt động tôn giáo đặc thù; loại
thứ hai tách ra khỏi các tôn giáo truyền thống, tồn tại độc lập với các tôn
giáo truyền thống, tín đồ ít, quy mô nhỏ, nhưng loại này lại rất nhiều.
3.1.2. Phật giáo với quá trình hiện đại hóa của Nhật Bản
Cũng giống như bất kỳ qúa trình biến đổi xã hội nào, hiện đại hóa ở
Nhật Bản trong lịch sử và hiện tại, vừa có một số tác dụng tích cực, đồ

ng
thời cũng có một số kết quả tiêu cực. Điểm nổi bật của mặt tích cực là Phật
giáo đã góp phần hình thành "Nhân cách Nhật Bản" đầy nghị lực và hiệu
quả trong quá trình đưa nền kinh tế Nhật Bản lên vị trí thứ hai trên thế
giới, nhưng người Nhật vẫn biểu hiện nhân cách giản dị nhưng cũng rất
tinh tế trong lối sống.
Đ
iểm đáng quan tâm của mặt tiêu cực là hiện đại hóa tại một nước
công nghiệp phát triển như Nhật Bản ngày nay không tránh khỏi tình trạng

20
khoa học công nghệ càng phát triển thì càng gây ra sự thiếu hụt về tri thức.
Do đó, trong quá trình hiện đại hóa dưới tác động của toàn cầu hóa, đã tác
động mạnh mẽ vào quá trình thế tục hóa Phật giáo nói riêng và tôn giáo
nói chung. Phật giáo truyền thống hiện nay có ảnh hưởng không lớn. Song
các nhân tố Phật giáo thì rất phổ biến, nên việc giải quyết vấn đề ảnh
hưởng của Phật giáo (và các tôn giáo) đến đời sống tinh thần của xã h
ội
thông qua những tổ chức mới "mới" của nó - luôn luôn là vấn đề có ý
nghĩa triết học và thực tiễn sâu sắc ở Nhật Bản.
3.2. Một số so sánh về ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh
thần xã hội ở Nhật Bản và Việt Nam
3.2.1. Một số điểm tương đồng và khác biệt
Một số điểm tương đồ
ng
Tuy không hoàn toàn đồng nhất nhưng nhìn đại thể, ảnh hưởng của
Phật giáo đến đời sống tinh thần xã hội ở Nhật Bản và Việt nam vẫn có thể
thấy rõ những nét tương đồng xuất phát từ các cơ sở sau:
Thứ nhất, niềm tin Phật giáo đan xen với niềm tin Nho giáo và Lão
giáo

Con người trong xã hội ứng xử theo luân thường đạo lý Nho giáo, có
đức tin về các hiện tượng may và không may theo đạo Lão, tham gia lễ hộ
i
dân gian và đám tang được tiến hành trong chùa Phật. Niềm tin vào các
Đức Phật, không khác niềm tin vào các vị Thần. Hôn lễ truyền thống hiện
vẫn được tổ chức ở không ít vùng nông thôn, ngày hôn lễ được lựa chọn
rất cẩn thận để tránh những ngày xấu theo tín ngưỡng chiêm tinh Trung
Hoa và Nhật Bản. Trước ngày hôn lễ, cô dâu cầu xin sự phù hộ của các vị
Bồ tát trong một ngôi chùa hoặc đền gia đình. Trong ngày hôn lễ cô dâu,
chú rể mặc Kimono truy
ền thống. 90% gia đình Nhật Bản tiến hành nghi
thức tang ma theo nghi thức Phật giáo.
Thứ hai, đạo Phật gắn bó với đạo thờ cúng tổ tiên.
Từ thời cổ đại, người Nhật Bản đã coi trọng dòng dõi hoặc dòng họ,
luôn chú ý đến sự hòa hợp trong xã hội và hiếu thảo của phận làm con; từ
đó tạo cơ sở triết lý cho đạo thờ cúng tổ tiên. Ngày nay đạo thờ cúng tổ

21
tiên vẫn được duy trì, đặc biệt vào dịp tang ma và đón năm mới. Nghị thức
tang ma theo Phật giáo ngày nay vẫn còn tồn tại ở nhiều nơi. Lễ đón năm
mới với nhiều phong tục trang trọng như trang hoàng nhà cửa với dây rơm
linh thiêng (Shimenawa) treo các dải giấy trắng (Shide) trước cửa nhà để
tránh tà ma. Nhiều người đi viếng chùa lúc nửa đêm, để đuổi ma trong
năm cũ.
Ở Việ
t Nam, cũng từ truyền thống Phật giáo dân gian, nhất là trên cơ
sở kế thừa, tổng hợp đạo Phật và đạo thờ cúng tổ tiên, để xây dựng thuyết
"Tứ ân" hay "Tứ ơn": ơn tổ tiên cha mẹ, ơn đất nước, ơn Tam Bảo (Phật,
Pháp, Tăng), ơn đồng bào và nhân loại.
Thứ ba, Phật giáo đều trở thành Phật giáo dân tộc và gắn liền với lịch

sử dân tộ
c ở mỗi nước.
Trải qua khoảng 2000 năm phát triển ở Việt Nam và hơn 1500 năm
phát triển ở Nhật Bản, Phật giáo đều trở thành Phật giáo dân tộc và gắn
liền với lịch sử dân tộc ở mỗi nước. Phật giáo Nhật Bản đã giữ vai trò "bảo
hộ quốc gia" trong nhiều thời kỳ lịch sử.
Phật giáo Nhật Bản và Việt Nam luôn gắn liề
n với lịch sử dân tộc.
Quá trình hiện đại hóa của Nhật Bản không thể không có sự đóng góp của
nhân tố Phật giáo. Cuộc Minh Trị duy tân, thoạt tiên, thực hiện Thần -
Phật phân ly, song chỉ được vài năm đã bị phai nhạt và không thực hiện
được. Trong quá trình này, Phật giáo đã nắm quyền chủ đạo trong việc
điều hành hơn là phía Thần đạo, xét cả về số lượng lẫn thự
c lực giáo hóa.
Và Phật giáo đã phục hồi thành Phật giáo Hộ Quốc theo Thần đạo Nhà
nước. Ở Việt Nam, dưới thời kỳ Đinh, Lý, Trần, các vị cao tăng được triều
đình tham chính hoặc cố vấn về các vấn đề đại sự quốc gia. Cả ở Nhật Bản
và Việt Nam đều có vua quan quý tộc am hiểu Phật giáo hoặc đi tu. Ở
Nhật Bản Thái tử Shótoku được tôn th
ờ với tư cách là Đức Phật tổ của
Nhật Bản. Ở Việt Nam, vua Trần Nhân Tông (1258-1308) viết nhiều tác
phẩm Phật học nhằm đề cao thái độ hướng tâm, giác ngộ bằng chính cái
tâm tĩnh lặng của mình, bằng chính sự hồn nhiên tự tại sáng suốt, vứt bỏ
dục vọng để đạt tới Niết Bàn.

22
Thứ tư, Phật giáo Nhật Bản và Việt Nam đều có tính tổng hợp hài
hòa các yếu tố tôn giáo ngoại lai và bản địa.
Giáo lý Phật giáo Nhật Bản được tổng hợp đến mức thu gọn vào biểu
trưng Thần - Phật và được duy trì mãi đến thế kỷ XIX. Điển hình cho tính

tổng hợp được thể hiện ở giáo lý Sanó - ichijitsu và Ryóbu - Shinto do hai
tông phái chính là Thiên thai tông và Chân ngôn tông thực hiện một cách
độc lập từ thời kỳ Heian (794 - 1185). Đ
ây là mô hình Thần - Phật cùng
tồn tại và được mỗi tông phái này giải thích phù hợp với giáo lý của mình.
Cũng như các giáo phái Phật giáo Nhật Bản, các tông phái Phật giáo
Việt Nam đều không thuần khiết. Mặc dù chủ trương của Thiền tông là bất
lập ngôn, song ở Việt Nam (và cả ở Nhật Bản) chính các Thiền sư lại là
những nhà trước tác, và để lại nhiều tác phẩm Thiền học có giá trị như
Trần Nhân Tông, Tu
ệ Trung…. Sự kết hợp giữa các tông phái Phật giáo
khác nhau có thể là một đường nét phổ biến ở cả Phật giáo Nhật Bản và
Việt Nam.
Nếu Phật giáo Nhật Bản dung hợp và tổng hợp nhiều tín ngưỡng tôn
giáo ngoại lai và bản địa khác nhau thì ở Phật giáo Việt Nam tình hình
cũng diễn ra tương tự qua "Tam giáo đồng nguyên".
Thứ năm, đặc điểm linh hoạt của Phật giáo hai nước thể hiệ
n ở sự
kết hợp chặt chẽ việc đạo với việc đời.
Vốn là một tôn giáo xuất thế, Phật giáo vào Nhật Bản trở thành tôn
giáo có tính thế tục sâu sắc, nó không chỉ hạ thấp xuống trình độ tập tục và
tín ngưỡng ma thuật, mà thể hiện ở lối sống có đạo đức Phật giáo. Ngay từ
khi Phật giáo mới du nhập vào Nhật Bản, nhiều người tin rằ
ng, các pho
tượng Phật có quyền năng ma thuật có thể đem lại phúc lộc trần gian và
bảo hộ cho con người thoát mọi tai ương của cuộc sống. Thậm chí việc
niệm danh Phật (Nembutsu) A mi đà, đã được dùng như một phép thuật,
nhưng dần dần của ma thuật giảm, nhường vị trí cho đạo đức Phật giáo.
Nhiều người Nhật Bản hướng vào đạo đức cần kiệ
m, thiết thực, phúc đức

của Phật giáo. Tình hình này cũng diễn ra ở Việt Nam. Phật giáo Việt Nam
chủ trương từ bi, bác ái, ở hiền gặp lành. Không phải triết lý cao siêu, mà

23
tính nhân đạo hiện thực và nếp ứng xử có đạo đức là biểu hiện chính cho
việc kết hợp chặt chẽ đạo với đời ở Phật giáo Việt Nam và Nhật Bản.
Ở Nhật Bản, các phong trào Phật giáo thế tục phát triển từ nhiều thế
kỷ nay; ví dụ phong trào tu tại gia của Nhật Liên tông vào đầu thế kỷ XX
do nhà sư của tông phái này là Tanaka Chigaku (1861 - 1939) đề xướng. Ở
Việt Nam đạo lý "Ph
ật tại tâm" được thể hiện rất cụ thể như: "Thứ nhất là
tu tại gia, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa"; hay "Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ
cha kính mẹ mới là chân tu"; hay "Dù ây chín bậc phù đồ, không bằng làm
phúc cứu cho một người" v.v.
Ngày nay trong xã hội Nhật Bản, Phật giáo và các tôn giáo khác đang
thực hiện phong trào hòa bình và các hoạt động xã hội khác nhau, thể hiện
sự quan tâm và tham gia tích cực vào đời sống chính trị. Ở Việt Nam hiện
nay, việc th
ực hiện phương châm "Đạo pháp - dân tộc - chủ nghĩa xã hội"
cũng là thể hiện sự quan tâm và tham gia tích cực vào đời sống chính trị
của Phật giáo Việt Nam.
Thứ sáu, tư tưởng hạnh phúc mà trạng thái siêu việt của nó là Niết
Bàn, có ảnh hưởng to lớn đến đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam và
Nhật
Trong bốn loại hạnh phúc thì hạnh phúc thứ tư thuộc về hạnh phúc tinh
th
ần, còn lại là hạnh phúc vật chất. Hạnh phúc không bị khiển trách phát
sinh từ một đời sống trong sạch và lương thiện. Từ đó có thể thấy giá trị
của con người không phải chỉ ở của cải vật chất, ở địa vị cao hay thấp mà
ở chỗ: biết tự trọng, có sự an tâm, yên tĩnh của tâm hồn. Nói cách khác,

một cuộc sống hạnh phúc là một cuộc sống có
đạo đức, một cuộc sống
thiện.
Các quan niệm thiện - ác, công bằng, bình đẳng, lòng khoan dung, tứ
ân và hạnh phúc của Phật giáo có ảnh hưởng khá sâu rộng trong các quan
hệ ứng xử và giao tiếp ở Việt Nam và Nhật Bản: một là, tính trung thực,
tính thiện; hai là, tư tưởng Phật giáo ảnh hưởng đến đời sống đạo đức ở
Việt Nam và Nhật Bản; ba là, ảnh hưởng của Phật giáo trong sinh hoạt tín
ng
ưỡng, tôn giáo và văn hóa nghệ thuật

24
Một số điểm khác biệt
Với tất cả sự tương đồng thì Phật giáo hai nước cũng có tính khác
biệt, chính xác là tính khác biệt trong sự tương đồng.
Trước hết, Phật giáo Nhật Bản có nhiều tông phái khác nhau song
đều thuộc dòng Đại thừa (Bắc tông). Còn tính đặc trưng của Phật giáo Việt
Nam không chỉ so với Phật giáo Nhật Bản mà với cả các nước Đông Á
khác thể hiện ở sự
chung sống của các tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa
(Bắc tông), Tiểu thừa (Nam tông) của người Việt (Kinh) và Khơme cũng
như Khất sĩ.
Sau nữa, một đặc trưng của Phật giáo Việt Nam khác so với Phật
giáo Nhật Bản là tính nữ sâu sắc. Từ Phật Mẫu, Phật Tổ đến phần lớn các
Phật xuất xứ từ Việt Nam là phụ nữ, kể cả Quan Thế
âm Bồ tát vốn là đàn
ông xuất xứ từ Ấn Độ cũng thành Phật bà ở Việt Nam.
Cuối cùng, tính đặc trưng của Phật giáo Việt Nam khác so với Phật
giáo Nhật Bản là ở cách thể hiện sự nhập thế. Tính thế tục của Phật giáo
Việt Nam có lẽ hướng mạnh vào tu tại tâm, phong tục, lễ hội và đời sống

hòa bình. Tính thế tục của Phật giáo Nhật Bả
n hướng mạnh vào vai trò
"bảo hộ quốc gia" trong nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau; (vai trò này của
Phật giáo Việt Nam chỉ được thể hiện dưới triều Tiền Lê, Lý, Trần); và
nghệ thuật Thiền.
3.2.2. Một số bài học cần thiết
Trên cơ sở phân tích vai trò, vị trí và sự vận động, phát triển của Phật
giáo Nhật Bản trong quá trình hiện đại hóa, toàn cầu hóa, đồng thời thử so
sánh mộ
t số điểm tương đồng và khác biệt giữa Phật giáo hai nước, luận
án rút ra một số bài học cần thiết cho việc quản lý, phát triển Phật giáo ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, với một số ý như: nhận thức chung về
Phật giáo; nắm rõ những hạn chế và tích cực của Phật giáo; phát huy vai
trò Phật giáo vì lợi ích chung của dân tộc; có chính sách và đường lối về
Phật giáo như
một bộ phận xã hội đặc thù trong đại đoàn kết dân tộc; cần
có các biện pháp cụ thể để kịp thời điều tiết hướng hoạt động của tiêu cực
nếu có.

25

×