Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

tiểu luận phân tích kinh tế ấn độ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (501.15 KB, 41 trang )

Tiểu luận
Phân tích kinh tế Ấn Độ


LỜI MỞ ĐẦU
Khi còn là thuộc địa, Ấn Độ đã từng được ví là viên “ ngọc miện “ của đế quốc Anh
bởi nó là thuộc địa lớn nhất, quan trọng nhất và là thị trường tiêu thụ khổng lồ trong hệ thống
thuộc địa Anh. Và dẫu sự thống trị của Anh kết thúc vào năm 1974 thì những thể chế kinh tế
- chính trị m à Anh đưa vào vẫn cịn ngun vẹn trong nhiều năm sau đó.
Có thể nói, Ấn Độ là nước đơng dân thứ 2 trên Thế Giới và nhiều dự đoán cho rằng
dân số Ấn Độ sẽ lên t ới 1,3 tỉ dân vào cuối năm 2008. So với Trung Quốc, Ấn Độ vẫn ít hơn
100 triệu người. Nếu Ấn Độ giành độc lập vào năm 1974 thì Cộng hịa dân chủ nhân dân
Trung Hoa vào năm 1949. Cả hai nước đều bị ngoại xâm nhưng Ấn Độ chi các nước Anh,
Pháp và Bồ Đào Nha xâm lược m ột, hai lần ; trong khi đó, Trung Quốc bị chiếm đóng rất
nhiều lần bởi nhiều nước khác nhau như : Mỹ, Anh , Đức, Nga và Nhật Bản. Quá trình phát
triển kinh tế của T rung Quốc là theo mơ hình kinh tế cơ sở của chủ nghĩa Mác – Lênin, m ột
mơ hình nhấn mạnh phát triển công nghịêp nặng và được điều hành bởi Đảng Cộng Sản thì
kinh tế Ấn Độ cũng phát triển theo đường lối này với Nhà nước nắm quyền lãnh đạo trực
tiếp nhưng vẫn giữ cơ chế dân chủ của TBCN.

Tuy vậy, kinh tế T rung Quốc và kinh tế Ấn Độ có nhiều điểm khác nhau hơn là giống
nhau. Trung Quốc có dân tộc thuần nhất và ngơ ngữ chung thống nhất nhưng Ấn Độ lại có
nhiều dân tộc và ngôn ngữ cũng như tôn giáo đa dạng. Cả hai điểm này đều khiến chính trị
Ấn Độ khơng được ổn định nhưng với Trung Quốc thì điều đó lại ngược lại. Và trong tương
lai,Ấn Độ sẽ còn gặp nhiều thách thức khi tiếp tục theo chế độ dân chủ đa Đảng kiểu phương
Tây nhưng điều này sẽ không có ở Trung Quốc.Vì vậy, có thể nói kinh tế Trung Quốc phát
triển nhanh hơn kinh tế Ấn Độ.Về m ặt xã hội, Trung Quốc cũng có t ỷ lệ thất học và nghèo
đói thấp hơn Ấn Độ,. Theo đánh giấ của WB, năm 2000, T rung Quốc đã là nước có t hu nhập
trung bình thấp trong khi Ấn vẫn bị coi là nước nghèo.Đến năm 2008, Ấn Độ mới đạt là
nước có thu nhập trung bình thấp thì Trung Quốc đã là nước có thu nhập trung bình cao .Dù
Trung Quốc, Ấn Độ đều giành được độc lập vào cùng 1 thời gian và Trung Quốc còn cải


cách kinh tế sau Ấn Độ nhưng hiện nay, các nhà kinh tế đều khẳng định Trung Quốc lại là
nước phát triển nhanh và đạt được những kết quả tốt hơn Ấn Độ nhiều.Tại sao lại như vậy?
Lý do gì khiến Ấn phải đi sau Trung Quốc ? Và liệu tương lại chú voi Ấn có vượt qua con
rồng Châu Á Trung Quốc không?


Để có thể trả lời cho những câu hỏi trên, chúng em xin đi vào phân tích kinh tế Ấn
Độ qua 4 chương:


Chương I : S lược về Ấn Độ. Ở chương này chúng em sẽ đưa ra cái nhìn khái qt
ơ
chung về tình hình văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị của Ấn Độ hiện nay



Chương II : Lịch sử kinh tế Ấn Độ. Với chương này, chúng em sẽ đi phân tích tình hình
kinh tế Ấn Độ qua các thời kỳ mà chủ yếu là thời kỳ thuộc địa và sau thuộc địa



Chương III : Đánh giá sự phát triển kinh tế Ấn Độ. Chương III này chúng em sẽ đưa ra
những đánh giá của mình về sự phát triển kinh tế của Ấn Độ và so sánh với m ột số quốc
gia khác trong những năm qua đặc biệt là so sánh kinh tế Ấn Độ với Trung
Quốc.Độ.Đồng thời, chúng em tìm ra những nguyên nhân chính Trung Quốc lại vượt
trước Ấn Độ cũng như dự báo xem liệu tương lai Ấn Độ có bắt kịp và vượt qua Trung
Quốc không?

Chúng em xin chân thành cảm ơn TS Phan Thị Nhiệm đã tạo điều kiện và nhiệt tình
hướng dẫn chúng em hồnh thành bài viết này.

Do khả năng cịn có hạn nên bài viết vẫn cịn nhiều thiếu sót, rất m ong nhận được sự
đóng góp và bổ sung của các thầy cô và bạn đọc để bài viết của chúng em được hoàn t hiện
hơn.


Chương I : Sơ lược về Ấn Độ
I.Khái quát chung vể đặc điểm vị trí địa lý, diện tích dân số :

1.T nước : Cộng hịa Ấn Độ
ên
2.T đơ : Niu Đê-li.
hủ
3.Địa lý :
Nước Ấn Độ thuộc khu vực Nam Á.
Phía Bắc giáp Trung Quốc, Nê – pan và Bu – tan.
Phía Đơng Bắc giáp Miến Điện, Băng – la – đét
Phía Tây Bắc giáp Pa – ki – stan và Af – gha – ni – stan.
Phía Tây, Đơng và Nam là Ấn Độ Dương bao bọc.
4Diện tích đất nước :
Ấn Độ có tổng diện tích là 3.280.483 km2 – đứng thứ 7 trên thế giới.
5.Dân số:
Theo điều tra thống kê vào tháng 7 năm 2006 thì dân số Ấn độ có 1095,351 triệu
người. Nhưng dự tính đến đâu năm 2008, dân số Ấn Độ đã đạt tới con số 1 tỉ 200 triệu
người.


6.Ngày độc lập :
Ngày 15/8/1947 là ngày Ấn Độ giành lại độc lập từ đế quốc Anh xâm lược.
7.Ngày Cộng hòa :
Ngày Quốc khánh của Ấn Độ là 26/1/1950.

8.T gi áo :
ơn
Ấn Độ khơng có quốc đạo. Có sáu tơn giáo chính : trên 80% dân số theo Ấn Độ giáo,
13% theo Hồi giáo, 2% theo Thiên chúa giáo, 2% theo Đạo S
ikh, khoảng 1% theo đạo Thiền
( Jainism ) và 0,75% theo Phật giáo. Chính sự đa tơn giáo này khiến nhiều cuộc xung đột sắc
tộc đã và vẫn đang xảy ra ở Ấn Độ làm tình hình chính trị khơng thể ổn định.
9.Ngơn ngữ :
Có mười chín thứ tiếng được Hiến pháp cơng nhận là ngơn ngữ chính. Tiếng Hindi là
ngơn ngữ chính thức làm việc của Nhà Nước liên bang và được gần 40% dân số sử dụng.
Tiếng Anh là ngôn ngữ giao t iếp, được sử dụng rộng rãi.
10.Đơn vị tiền tệ :
Đơn vị tiền tệ của Ấn Độ là Rupi. 1 INR = 100 paise. 36 Rupi = 1 USD
II.Thể chế chính trị :
Nhà nước Ấn Độ được tổ chức theo hình thức liên bang và t heo chế độ dân chủ đại
nghị.Hiện nay, Ấn Độ có 28 bang và 7 lãnh thổ trực thuộc trung ương.
Quốc hội liên bang gồm 2 viện : T hượng viện ( Raiya S
abba ) và Hạ viện ( Lok Sahba ).
Chính phủ Liên bang gồm có : Tổng thống, Phó Tổng thống và Hội đồng Bộ trưởng, đứng
đầu là Thủ tướng.
1.Lãnh đạo hiện nay ( 2007 ) :
Tổng thống : A.P.G Ap – đun Ca – lam ( APJ Abdul Kalam ) , từ 2/2002 ( hết nhiệm
kỳ vào 7/2007).
Thủ tướng ( từ 5/2004) : Man – m ô – han Xinh ( Manmohan Singh ).
Chủ tịch Quốc hội : S
.Chat – tơ – di ( S.Chatteriee ) t ừ 6/2004.
Đứng đầu Hội đồng Bộ trưởng là Thủ hiến bang ( Chief Minister ).Thống đốc do
Tổng thống chỉ định, nhiệm kỳ 5 năm . Thủ hiến do Thống đốc bổ nhiệm .

2.Các Đảng chính trị ở Ấn Độ:

Ấn Độ có rất nhiều đảng phái chính trị, trong đó có m ột số đảng chủ yếu là:
2.1.Đảng Q uốc Đại
Đảng Quốc đại thành lập năm 1885, có khoảng 25 triệu đảng viên chính thức. Đảng
Quốc Đại đã nhiều lần phân liệt thành các đảng nhỏ. Từ năm 1980, Quốc Đại chính thức


mang tên Indira Gandhi, gọi là Quốc Đại I. Đảng Quốc Đại cầm quyền liên t ục nhiều lần tại
Ấn Độ. Trong cuộc bầu cử Hạ viện lần 14 tháng 5/2004. Quốc Đại I liên minh với 19 đảng
giành đa số ghế ( 219/545, trong đó Quốc đại có 142 ghế ) và đứng ra lập Chính Phủ Liên
minh Tiến bộ thống nhất ( UPA ).
Chủ tịch Đảng là bà Xô – ni – a Gan – đi ( S
onia Gandhi ), vợ cố Thủ tướng Rajiv
Gandhi.

2.2.Đảng Nhân dân Ấn Độ ( BJP ):
Đảng Nhân dân Ấn độ thành lập năm 1980. Trong cuộc bầu cử Hạ viện 13 ( 10/1999
), Liên minh Dân chủ Quốc gia ( NDA ) gồm 24 đảng do BJP làm nòng cốt giành được 298
ghế, trong đó BJP được 182 ghế và cầm quyền từ đó đến tháng 4/2004. Tại cuộc bầu cử Hạ
viện 14, BJP đồng minh giành được 188 ghế, riêng BJP được 135 ghế.
Chủ tịch hiện nay là ông Rai – nát – Xinh ( Rajnath Singh ); được bầu từ tháng
1/2006.

2.3.Đảng C ộng sản Ấn Độ ( C PI ):
Đảng Cộng sản Ấn Độ thành lập vào năm 1925. Hiện có khoảng 56 vạn đảng viên.
Trong cuộc bầu cử Hạ viện 14, CPI giành được 10 ghế.
Tổng Bí thư là A.B. Bác – đan ( Arhendu Bhushan Bardhan ), bầu lại lần thứ tư tại
Đại hội 19 vào tháng 4/2005.

2.4.Đảng C ộng sản Ấn Độ ( Mác – xí t ) - C PI ( M ) :
Đảng Cộng sản Ấn Độ ( M ác – xít ) thành lập năm 1964, hiện có khoảng 80 vạn đảng

viên.Tại cuộc bầu cử tại Hạ viên 14, CPI – M giành được 43 ghế.
Tổng bí thư : Pra – kat Ka- rát ( Prakash Karat ) được bầu tại Đại hội 18 vào tháng
4/2005.

III.Đặc điểm về kinh tế – xã hội:
1.Về kinh tế :
Nền kinh tế Ấn Độ lớn thứ ba thế giới nếu tính theo sức m ua tương đương ( PPP ) ;
đứng thứ 10 trên thế giới nếu tính theo tỷ giá hối đoái với USD( T ổng sản phẩm quốc nội –
GDP đạt 1 nghìn tỷ USD năm 2007 ). Ấn Độ là nền kinh tế lớn, tăng trưởng nhanh thứ hai
trên thế giới, với tốc độ tăng trưởng GDP lên tới 9,4% trong năm t ài chính 2006 – 2007. T uy
nhiên, dân số khổng lồ đã làm cho GDP bình quân đầu người chỉ đạt mức 4031 USD tính


theo PPP hay 885 USD tính theo GDP danh nghĩa ( ước năm 2007 ). Ngân hàng thế giới WB
xếp Ấn Độ vào nhóm các nền kinh tế có thu nhập thấp ( năm 2000 ).
Nền kinh tế Ấn Độ đa dạng và bao gồm các ngành và lĩnh vực : nông nghiệp, thủ công
nghiệp, dệt, chế tạo và nhiều ngành dịch vụ. Dù 2/3 lực lượng lao động Ấn Độ vẫn trực tiếp
hay gián tiếp sống bằng nghề nông nhưng dịch vụ là m ột lĩnh vực đang tăng trưởng và hiện
đang đóng góp vai trị ngày càng quan trọng trong nền kinh tế Ấn Độ. Sự tiến tới m ột thời
đại kỹ thuật số và một số lượng lớn dân số trẻ và có học, thơng thạo tiếng Anh đang dần
chuyển Ấn Độ thành một điểm đến quan trọng của các dịch vụ điều hành kinh doanh (
backoffice ) của các cơng ty tồn cầu khi họ tiến hành outsourcing ( đưa một phần hoặc tồn
bộ cơng việc sang cho các nước khác thực hiện ) các dịch vụ khách hàng hoặc hỗ trợ kỹ thuật
của họ. Ấn Độ là một nước xuất khẩu chính nhân cơng tay nghề cao t rong lĩnh vực phần
mềm và các dịch vụ tài chính và cơng nghệ phần mềm. Các lĩnh vực khác nhau như chế tạo,
dược phẩm, công nghệ sinh học, cơng nghệ nano, viễn thơng, đóng tàu và hàng không đang
thể hiện tiềm năng mạnh và đang đạt mức tăng trưởng ngày càng cao hơn.
Ấn Độ đã từng áp dụng một phương pháp kinh tế xã hội chủ nghĩa trong gần suốt lịch
sử độc lập của mình. Chính phủ đã kiểm soát chặt chẽ sự tham gia của khu vực tư nhân,
ngoại thương và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, kể từ đầu thập niên 1990, Ấn Độ đã

dần mở cửa thị trưởng của m ình thơng qua các cuộc cải cách kinh tế theo hướng giảm kiểm
sốt của chính phủ đối với thương m ại và đầu tư.Việc tư nhân hóa các ngành thuộc sở hữu
cơng và việc m ở cửa một số ngành nhất định cho nước ngoài và tư nhân tham gia diễn ra
chậm chạp và gắn liền với những tranh cãi chính trị.

2.Về mặt xã hội
Ấn Độ đã và vẫn đang đối m ặt với một dân số tăng nhanh và đòi hòi giảm bất bình
đẳng kinh tế – xã hội. Nghèo vẫn là một vấn đề nghiêm trọng dù nghèo đã giảm đáng kể từ
khi quốc gia này giành được độc lập, chủ yếu là nhờ cuộc cách mạng xanh và các cơng cuộc
cải tổ kinh tế.

IV.C hính sách đối ngoại:
Ấn Độ chủ trương xây dựng phát triển đất nước theo con đường độc lập dân tộc và tự
lực tự cường, thi hành chính sách đối ngoại hịa bình, khơng liên kết, hữu nghị với các nước.
Một trọng tâm trong chính sách dối ngoại của Ấn Độ là tăng cường quan hệ với các
nước Châu Á và các nước láng giềng. Với khu vực Nam Á, Ấn Độ tích cực thúc đẩy quan hệ
kinh tế, thương mại và đầu tư để tạo sự gắn kết, tăng cường hợp tác khu vực thông qua Hiệp


Hội Hợp tác khu vực Nam Á ( S
AARC ). Với Đơng Á, Ấn Độ triển khai chính sách



Hướng Đơng” và tăng cường quan hệ với các nước khu vực này, trong đó chọn ASEAN là
một trong những trọng tâm đột phá.
Ấn Độ tích cực tham gia các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế. Ấn Độ đã trở
thành thành viên của ARF, AS
EM, Cấp cao Đông Á, đang phấn đấu để trở thành Ủy viên
thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc, gia nhập APEC.



Chương II :Lịch sử kinh tế Ấn Độ:
Lịch sử kinh tế Ấn Độ có thể đại khái chia ra thành 3 kỷ nguyên: bắt đầu bằng thời
kỳ tiền thuộc địa kéo dài đến thế kỷ 17. Thời kỳ thuộc địa của Anh bắt đầu từ thế kỷ 17, kết
thức bằng m ốc Ấn Độ giành được độc lập từ Anh quốc năm 1974. Thời kỳ thứ 3 kéo dài từ
năm 1947 cho đến nay
Do thời gian có hạn,chúng em xin đi lướt qua thời kỳ tiền thuộc địa mà đi sâu vào
phân tích thời kỳ thuộc địa và thời kỳ hậu thuộc địa đến nay.
I.T
hời kỳ thuộc địa ( 1857-1950 ):
Ấn Độ có trên 5000 năm lịch sử, là m ột trong những cái nơi văn minh của lồi
người. Triều đại Ashoka (273-323 sau công nguyên) là thời kỳ hưng thịnh nhất của lịch sử
cổ đại Ấn Độ, lãnh thổ Ấn được mở rộng gần như ngày nay. Từ cuối thế kỷ 15, người Châu
Âu bắt đầu đặt chân lên Ấn Độ. Đầu tiên là Bồ Đào Nha, đặt trung tâm thương mại của m ình
tại Goa, tiếp đến là Hà Lan đặt m ột số cơ sở thương m ại tại Ấn Độ, sau đó là tới Pháp và
Anh.Năm 1857, Ấn trở thành thuộc địa của Anh Mãi đến năm 1974, Ấn Độ mới giành lại
quyền tự trị cho mình.
1.Q uá trình xâm lược của Anh ( từ 1500-1858)
1.1.Anh và chủ nghĩa trọng thương.
Chủ nghĩa trọng thương là 1 lý thuyết thương mại ra đời và phát triển từ năm 1500 đến
1800. Theo thuyết trọng thương, các nước nên xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu và nếu làm
thành công thì sẽ nhận được 1 khoảng thặng dư thương m ại bằng vàng từ nước khác hoặc
ngược lại các nước đó đã bị thâm hụt thương m ại.Để có t hể xuất nhiều hơn nhập,chính phủ
phải thao túng họat động thương m ại của nước m ình.Việc xâm lược các nước của Anh nhằm
phục vụ cho lý thuyết thương mại này.Đầu tiên, các nước thuộc địa sẽ cung cấp nhiều hàng
hóa mà chính quốc phải nhập từ nước ngồi nên sẽ đạt được thặng dư thương mại nhiều
hơn.Thứ 2,các nước thuộc địa lại phải nhập khẩu từ các nước chính quốc để bị thâm hụt
thương mại. Để đạt được mục đích này, các nước chính quốc đã khơng chỉ thao túng ngành
thương mại thụơc địa mà cịn kìm hãm sự phát triển sản xuất của các nước thuộc địa.Vì vậy,



các nước thuộc địa phải xuất khẩu những nguyên liệu thơ ít giá trị và nhập khẩu những thành
phẩm giá trị cao.
Những đế quốc dựa trên chính sách thuyết trọng thương này là Bồ Đào Nha, Tây Ba
Nha, Anh , Pháp và Hà Lan.Và tất cả các nước này đều có ngành hải thương phát triển. Bồ
Đào Nhà là đế quốc đầu tiên tạo được quan hệ với Ấn Độ và chiếm hữu được phía Tây của
nước này vào 1511.Bồ Đào Nha đã thâm nhập được vào Ấn Độ nhờ Công ty Đông Ấn của
Hà Lan (The Dutch East India Company) – 1 cơng ty đã kiểm sốt hết các hảng cải ở Nam
Ấn vào khoảng 1600. Tuy nhiên , 2 đế quốc xâm lược chủ đạo ở Ấn lại là Anh và Pháp. Anh
đã nắm quyền ở Bombay và Pháp thì ở Calcutta vào những năm đầu thế kỷ 17.Hai nước này
đã kiểm soát hầu hết hoạt động thương mại với nước ngoài của Ấn trong suốt 150 năm nhờ
những đặc quyền có được.Ở Anh, cơng ty Đơng Ấn - Anh (The British East India Com pany)
đã được đặc quyền của nữ hồng Elizabeth và trở thành cơng ty liên doanh duy nhất giữa Ấn
và Anh. Công ty này đã kiểm soát thương m ại Ấn - Anh m ãi cho tới khi bị tan rã vào năm
1833..Pháp cũng có 1 cơng ty như thế , 1 cơng ty m à có sự độc quyền thương mại giữa Pháp
và Ấn

1.2.Uy thế của Anh ở Ấn:
Tuy Pháp chiếm nhiều địa hạt Ấn Độ hơn là Anh nhưng Pháp lại để mất Ấn vào tay Anh
Nguyên nhân trước hết từ phía Anh, Anh đã trở thành người đứng đầu trong sức mạnh hàng
hải ở Châu Âu. Pháp lại bị dính vào cuộc chiến ở Châu âu và khơng cịn nguồn lực để đổ vào
Canada và Ấn độ nữa.Vịêc Anh nắm toàn quyền kiểm sốt ở Ấn cịn dễ dàng hơn nữa khi đế
quốc Môngô ( Mogul) tan vỡ thành nhiều lãnh địa mà khơng có lãnh đạo chủ chốt.Vì vậy,
Anh đã dễ dàng chia rẽ và xâm lược Ấn Độ.Đến năm 1750, trên thực tế Anh đã trở thành
người cầm quyền khơng chính thức của đất nước này.Trong cuộc chiến thắng lợi này, Anh
đã xâm chiếm toàn bộ Ấn độ và biến nó trở thành thuộc địa của đế quốc Anh. Năm 1858,
Anh chiếm t oàn bộ tiểu lục địa Ấn Độ.

2.Chính sách “ hút m áu “ của đế quốc Anh( 1810-1947 ):

Trở thành thụôc địa của Anh, Ấn bị giam hãm bởi những những bộ luật Anh đưa ra
như mậu dịch không ngang giá và hệ thống thuế m ới. Ấn Độ trở thành thị trường tiêu thụ
những sản phẩm Anh sản xuất ra và cũng là thị trường cung cấp sợi bông và những nguyên
liệu thô khác cho Anh.Kết quả là Ấn Độ bị Anh hút m áu đến cùng cực.


Đối với nghề thủ cơng,Anh bóc lột rất tàn nhẫn.Họ thông qua các thương quán của các
công ty Anh được bố trí khắp m ọi nơi cũng như thơng qua người mại bản Ấn Độ để cưỡng
bách hàng triệu người làm nghề thủ công tại Ấn Độ phải gia công những mặt hàng do họ đặt
làm trong khi đó họ lại trả tiền công cho những người này chỉ bằng nửa giá bán ngồi thị
trường,thậm chị khơng đủ để m ua lại ngun liệu.
Ngồi ra, cơng ty của Anh cịn độc quyền muối,thuốc lá và nha phiến.Công ty cưỡng
bách nông dân trồng thuốc phiện và họ mua vào với giá thấp rồi đem buôn lậu vào Trung
Quốc để kiếm lời.Nguồn lợi từ nha phiến đã chiếm 1/7 tổng thu nhập của công ty Đông Ấn –
Anh.
Từ năm 1814 đến 1835, Anh đã dựa vào mức thuế quan thấp ( thuế đới với hàng dệt
may bằng bông vải là 3,5% ,hàng dệt bằng sợi len là 2%),nên từ chỗ trước khi chở sang Ấn
Độ các loại vải dệt bằng sợ bông chưa đầy 1 triệu Yard ( 0,0144m ) đã tăng lên đến 41 triệu
Yard trở lên. Nước Ấn Độ từ xa xưa nổi tiếng trên Thế giới bằng sợi bông vải thế mà lúc
đó,đâu đâu cũng tồn hàng dệt bằng sợ bơng vải của Anh.Do hàng hóa của Anh q rẻ, khiến
các ngành thủ công tại Ấn Độ bị đánh 1 địn có tính hủy diệt. Hàng triệu người làm nghề thủ
công bị phá sản, lâm vào cảnh tuyệt vọng.Dacca trước đay nổi tiếng về công nghịêp dệt sợi
mà nay đã trở nên tiêu điều. T ừ năm 1827 đến 1837, dân số thành phố này từ 150000 người
giảm còn 130000 người. Riêng tổng đốc Anh là William Cavendish Bentick cũng phải thừa
nhận: “ tình trạng bi thảm chưa từng có trong lịch sủ thương nghiệp Ấn. Xương trắng của
những người công nhân dệt bông vải đã trải trắng cả một cánh đồng mênh m ông”.
Về thuế ruộng đất,Anh đã đưa ra 2 chế độ thuế : thuế “ Zam indan cố định” ( tước bỏ
quyền thừa kế ruộng đất,không thừa nhận quyền sở hữu mảnh đất người dân canh tác và
buộc họ phải nôp thuế ruộng đất cho công ty với số lượng1/2 đến 1/3 sản lượng hàng năm
của họ) và chế độ thuế “ Zamindan không cố định”( 25-30 năm 1 lần định lại m ức thu

thuế).Mác cho rằng 2 loại thuế đó có sức mâu thuẫn nội tại to lớn, đều không nhằm vào việc
bảo vệ cho người chiếm hữu và quản lý ruộng đất cũng không bảo vệ đông đảo tầng lớp
nông dân m à chỉ bảo vệ lợi ích cho chính phủ trong vịêc trưng thu thuế ruộng đất.Kết quả là
thu nhập thuế tăng vọt.Như niên khóa 1800-1801, tơng thuế thu ruộng đất là 4,2 triệu bảng
mà tới niên khóa 1857-1858 thì đã tăng vọt lên 15,6 triệu bảng Anh chiếm trong mức thuế
thu được là 3/5.Hậu quả là người nông dân chiếm 11/12 số dân cư Ấn trở thành nghèo xơ
xác.Nửa đầu thế kỷ 19 liên tục xảy ra 7 trận đói lớn và có khoảng 1,5 triệu người Ấn chết
đói.
Đại chiến thế giới lần thứ nhất đã tiếp tục m ang đến cho Ấn độ những đau khổ sâu
sắc.Đó là m ột cuộc chiến tranh giữa các đế quốc nhưng Anh đã kéo Ấn Độ vào với lời hứa


trả lại quyền tự trị.Trong cuộc đại chiến có tới 1,5 triệu người Ấn bị điều động đến chiến
trường Tây Âu và Trung Cận Đơng trong đó hơn 100 nghìn người bị thương vong.Cuộc đại
chiến còn trút gánh nặng kinh tế lên vai Ấn.Trong thời gian đại chiến, nhân dân Ấn gánh
chịu đến 100 triệu bảng Anh quân phí,chỉ kém hơn chính quốc là nước Anh.Nước Anh cịn
trưng dụng và điều động 1 lượng lớn vật chất và lương thực.Ấn đã phải công nộp cho Anh
3690000 tẤn vật chất và 5 triệu tẤn lương thực mà khơng được bồi hồn nên Ấn nợ chồng
chất tới 7.800.000.000 Rupee.Một lượng lớn lương thực bị chở ra ngoài đã làm giá lương
thực tăng vọt chưa từng có.Chỉ trong 1918, đã có 12 triệu người dân Ấn chết do nghèo đói và
dịch cảm cúm ( chiếm 5% dân số Ấn thời bấy giờ)
Có thể nói,sản phẩm của sự hút máu đến tận cùng của Anh là đã phá hoại kinh tế và xã hội
của Ấn Độ 1 cách trầm trọng, làm cho Ấn Độ trở thành một quốc gia nghèo nàn cùng cực.Nó
làm tan rã công xã nông thôn của Ấn Độ, phá hoại kinh tế phong kiến tự nhiên kết hợp giữa
nông nghịêp và thủ công nghiệp của Ấn Độ; phá hoại những nghề thủ công truyền thống của
Ấn độ.T hêm vào là m ối quan hệ tư bản chủ nghĩa lại không xuất hịên sau khi cơ cấu của xã
hội cũ bị ran rã làm người dân Ấn Độ càng chịu nhiều tai họa nặng nề.Do vậy mâu thuẫn
giữa thực dân Anh và dân tộc Ấn độ sâu sắc..Liên tục các phong trào khởi nghĩa được dấy
lên.T ự do cho Ấn Độ chỉ còn là vấn đề thời gian...
3.Ấn Độ độc lập – 1974

Những phong trào đòi giành lại độc lập từ tay đế quốc Anh của người dân Ấn Độ diễn
ra liên tục từ những năm đầu của thế kỷ 19.Những cuộc cải cách hiện thời m à Anh làm để
trao cho Ấn nhiều quyền tư trị hơn đã không đạt kết quả và nhiều đảng ly khai khác nhau đã
định hình vào khoảng cuối thế kỷ 19.Phải mãi cho đến khi kết thúc chiến tranh thế giới I t hì
Anh mới sẵn sàng trao cho Ấn độ vài t iếng nói trong Chính Phủ nhưng Anh vẫn nắm quyền
kiểm sốt chủ đạo. S thế chiến II, chỉ còn là vẤn đề thời gian cho Ấn Độ giành được độc
au
lập cho nước m ình. Một chiến dịch đảo chính chính quyền Anh đã nổ ra m à người khởi tạo
đầu tiên là Mohandas Gandhi rồi lan ra các phong trào khác trong suốt những năm 1920, đã
đều được đưa ra để chống lại Anh vào cuối thế chiến II. Vào 1974, Anh đã buộc phải trao trả
quyền tự trị lại cho Ấn Độ.
Trong những năm đầu giành độc lập,do vấn đề tôn giáo,một cuộc nội chiến đã diễn ra ở
Ấn Độ. Cuối cùng đến năm 1950, Ấn Độ chia thành 2 nước : Hindu India ( Ấn Độ - Ấn độ
giáo ) - nước Ấn Độ bây giờ và Muslim Pakistan. ( Pakistan - Hồi giáo ) .Đây là điểm kết


cuộc nội chiến 3 năm nhưng cũng là mở đầu cho cuộc chiến tranh giữa Ấn Độ và P akistan
trong những năm t iếp theo.Điều này khiến chính trị Ấn Độ đã bất ổn; nay sẽ còn bất ổn hơn.

4.Những ảnh hưởng của đế quốc Anh :
Sự thống trị của Anh ở Ấn ĐỘ hơn 200 trăm năm không thể không ảnh hưởng tới Ấn
Độ.
Đầu tiên, hệ thống luật của Ấn là dựa trên cơ sở luật pháp Anh nói chung có từ thời
Nóc măng ở Anh năm 1066. Tiền đề của những nước có hệ thống pháp luật chung như ở Ân
là sẽ tạo sự ổn định cần thíêt cho m ọi người dân hoạt động kinh doanh và giúp Nhà nước
định hướng được những kế hoạch tương lai.
Thứ 2,ngôn ngữ tiếng Anh được sử dụng rộng rãi ở Ấn.Ngày nay, tiếng Anh được coi
là tiếng phổ thông để giao tiếp ở Ấn.
Thứ 3, hệ thống giáo dục của Ấn Độ là theo khuôn khổ hệ thống giáo dục của Anh
thậm chí cả những trường học cộng đồng cao cấp cũng là theo m ơ hình của Eton và Harrow.

Do đó, có m ột lượng lớn sinh viên Ấn Độ du học ở đại học Anh và Mĩ.Cũng vì vậy, văn hóa
của Ấn có khuynh hướng Tây hóa.
Thứ 4, hệ thơng chính trị của Ấn cũng là 1 sẩn phẩm của sự thống trị của Anh. Đó là
chế độ dân chủ với tự do tranh cử và những tham gia tích cực của các đảng chính trị lớn.

II.Thời kỳ tiền thuộc địa : (1947-nay):
1.Giai đọan 1947-1990: Khủng hoảng trong con đường phát triển kinh tế:
1.1G iai đoạn 1947-1980: “ Tốc độ tăng trưởng Hindu”
Ấn Độ đã từng là thuộc địa trung tâm của đế quốc Anh ở Châu Á vì vậy khi Ấn giành
được độc lập vào 1947 thì thể chế chính trị và kinh tế hiện thời hồn toàn lấy lại từ lúc Anh
cầm quyền. Các thành phố Bombay, Calcutta, M adras vẫn là trung tâm tài chính kinh tế của
Ấn Độ cũng như trung tâm chính trị và hành chính của Chính phủ.Cơ sở hạ tầng Ấn cũng rất
tốt, bao gồm những hệ thống đường sắt, đường bộ và thông tin hịên đại thêm vào 1 hệ thống
hành chính trung tâm..Mội trường ngơn ngữ Anh giúp Ấn Độ về vấn đề thống nhất văn hóa,
chính trị nên giúp ngành giáo dục được phát triển. Ở m ọi thành phố, hệ thống giáo dục ở
trung học, cao đẳng và đại học phất triển rất nhanh kể từ khi thành lập đại học tại các thành
phố ở Bom bay., Calcuta và Madras vào năm 1857.Vào năm 1886, một trường đào tạo kỹ sư
cũng được thành lập.
Tuy vậy, vẫn có nhiều bước đi xuống khi giành được độc lập ở Ấn và hàng loạt vấn
đề bức xúc còn tồn tại. Khi Ấn Độ đưa ra kết cấu thu nhập thì 80% của cải của đất nước


được giữ bởi 2% dân số Ấn Độ.Một lực lượng lớn người dân Ấn làm ở khu vực nông nghiệp
đều là những người nghèo và mù chữ nhất.Họ sống ở những nông trại nhỏ và sử dụng những
nông cụ đã lạc hậu cả thế kỷ. Cơ sở hạ tầng cho nơng nghịêp cũng rất nghèo nàn.Các cơ sở y
tế thì thiếu nên Ấn Độ có tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 7 tuổi rất cao.Dù vậy, tỷ lệ sinh đẻ cao
trong khu vực nông nghiệp đã khiến tỷ lệ tăng dân số vẫn ở mức cao trong nhiều năm liền ở
Ấn. Không chỉ thế, phần lớn phụ nữ Ấn Độ ít được quan tâm. Phụ nữ bị m ù chữ nhiều hơn là
đàn ơng vầ rất có ít quyền. Và đây chính là những bất cập nổi cộm mà thủ tưởng Ấn Độ phải
đương đầu và đưa ra giải quyết ..

Trước khi nói chi tiết hơn vào tình hình kinh tế của Ấn sau độc lập, chúng em xin
được phác họa qua về bộ máy hành chính của Ấn Độ thời kỳ sau thuộc địa để có được cái
nhìn toàn cảnh về Ấn Độ thời kỳ này hơn.

1.1.1.Cơ chế chính trị nói chung ở Ấn Độ những năm sau độc lập
1.1.1.1.Nhà nước – Chính phủ ( C hính quyền )
Chính phủ Ấn Độ thành lập theo HIến pháp năm 1950 và đi theo khuynh hướng các
bang với quyền lực cụ thể được chia giữa chính phủ bang và chính phủ trung ương. Ấn Độ
gồm 24 bang với ngôn ngữ và văn hóa riêng.Hiến pháp Ấn Độ dựa trên hiến pháp Mỹ,Pháp
và Magna Carta Anh.Ý tưởng tự do, cơng bằng,tín ngưỡng được lấy từ hiến pháp Anh trong
khi tư tưởng về Nhà nước tơn giáo và Chính phủ cộng hịa liên bang lại được lấy từ hiến
pháp Mỹ. Cơ quan lập pháp Ấn Độ cũng như hệ thống ở Anh với thủ tướng đứng đầu Chính
Phủ và 1 bộ m áy quyền lực cấp cao.Cịn có 1 nghị viện đứng đầu là Tổng thống người mà
chỉ huy lưỡng viện. Ngoài ra cịn có nội các chính phủ và Tồn Án tối cao - quan tòa cao
nhất ở Ấn
1.1.1.2.Bộ máy quyền lực cao cấp.( Hội đồng bộ trưởng)
Hội đồng bộ trưởng của chính phủ Ấn theo lụât pháp thì sẽ được nắm giữ bởi Tổng
thống ở New Delhi, thủ đô Ấn Độ và chính phủ các bang. Bộ m áy cao cấp này có quyền
chấp thuận ngân sách cho cơ quan lập pháp hoặc có quyền tra xết những khoản ngân sách bộ
máy thấy phải xem xét lại.Tổng thống và thủ tướng các bang có thể triệu họp Hội đồng bộ
trưởng và chất vấn cơ quan này về các vấn đề quản lý của họ. Nhưng thực chất bộ m áy
quyền lực cao cấp này khơng có thực quyền.Mà mọi quyền hành đều do thủ tướng Ấn Độ và


Bộ trưởng bộ nội vụ của liêng bang cả nước nắm giữ.T hủ tướng có quyền lực cho đến khi
thủ tướng yêu cầu tổng thống bãi nhiễm nghị viện và một cuộc bầu cử m ới được tổ chức.

1.1.1.3.Bộ máy quyền lực lập pháp
Quyền lực lập pháp ở chính quyền trung ương cũng như ở chính quyền các bang là
làm theo dạng cai trị của Anh.Nghị viện Ấn Độ bao gồm 2 nghị viện: thượng nghị viện và hạ

nghị viện ( rất giống với Anh : Anh cũng có thượng nghị viện - House of comm ons và hạ
nghị viện House of Lords). Hạ nghị viện , Lok Sabha ( House of People – Viện nhân dân )
bao gồm 520 thành viên và thượng nghị viện, the Rajya S
abha ( Council of State – Viện
Chính Phủ ) chỉ khơng hơn 250 nghị sĩ..Thượng nghị viện không bao giờ quan trọng ngang
với hạ nghị viện vì m ục đích lập pháp. Như House of lords của Anh , nó khơng bao giờ bị
tan rã và hoạt động như m ột thể xác của Chính phủ. Nó được dùng như một nơi chứa 1 lượng
lớn những viên chức Nhà nước xưa cũ. Nghị viên ở hạ nghị viện được bầu cử trực tiếp bằng
phiếu bầu còn nghị viên của thượng nghị viện thì được cắt cử ra bởi cơ quan lập pháp Nhà
nước.

1.1.1.4.Bộ máy quyền lực tòa án.
Hệ thống hành pháp Ấn độ là m ột hệ thống giống với hệ thống hành pháp của Mĩ.
Tồn án tối cao là tịa án cao nhất ở Ấn Độ. Toà án này được điều hành bởi trưởng thẩm
phán. Thẩm phán của Toàn Án tối cao được đề cử bởi tổng thống hoặc sau 1 cuộc hội luận
giữa tổng thống với thẩm phán của các toàn án tối cao các bang và các thẩm phán cao cấp
khác khi tổng thống cho rằng điều đó cần thiết .T òa Án Tối cao là thành phần cuối cùng của
Hiến pháp và là toà án cao nhất đại diện dân sự.Ở mức độ bang, những toàn án cao cấp của
từng bang có quyền phán xử trong tồn bang ngoại trừ trường hợp toàn án tối cao liên bang
xét xử.T hống đốc bang cùng Toàn án cao cấp bang sẽ bầu ra thẩm phán mỗi quận trong bang
đó.
Sau khi có cái nhìn cơ bản về bộ máy Chính phủ, chúng em xin phép đi chi tiết về
tình hình kinh tế chính trị của Ấn Độ những năm tiếp theo sau độc lập 1950.

1.1.2.T
ình hình phát triển kinh tế – chính trị sau độc lập ( 1950-1970)
Sau khi trở thành 1 quốc gia độc lập, những nhà lãnh đạo Ấn độ mà bắt đầu từ ngài
Jaw
aharlal Nehru phải đối mặt với hàng loạt vẤn đề. Vấn đề đầu tiên là phải tạo dược 1 trật



tự kinh tế m ới nhằm giảm thiểu sự phụ thuộc của Ấn Độ vào Anh, nơi mà Ấn vẫn buộc phải
tiếp tục xuất những nguyên liệu thô để đổi lấy thành phẩm.Kinh tế Ấn độ vẫn còn kém phát
triển, với kết quả là tiêu chuẩn sống thấp kém cho hầu hết dân số Ấn Độ.8%dân số thì mù
chữ.Cuộc nội động và sự tàn phá cùng sự chia cắt giữa Ấn Độ và Pakistan đã gây ra những
hao tốn thiệt hại về người và của và khiến nền kinh tế Ấn ở tình trạng trì trệ. Vì vậy điều gì
đó phải thực thi để tạo ra được 1 trật tự kinh tế mới.Và kết quả là sự phát t riển của 1 nền kinh
tế Nhà nước trực tiếp quản lý dựa trên các kế hoạch kinh tế m à thủ tướng Nehru đã đưa ra.
1.1.2.1.Kế hoạch kinh tế ( Economic Planning)
Đối ngược với những gì người ta nghĩ,Ấn Độ khơng phải là một nước Cộng sản m ặc
dù nó có m ối liên hệ m ật thiết với Liên Xô cũ. Ấn độ bản thân có thể tự goi là nước XHCN
dân chủ và nhấn m ạnh vào sự bảo hộ của Nhà nước. Ấn có cả khu vực Nhà nước và khu vực
tư nhân. Nhiều ngành của Ấn độ là do Nhà nước sở hữu..Ấn Độ dựa trên kế hoạch kinh tếxã hội quy mô lớn..Kế hoạch kinh tế lại giống với lối trình bày của Pháp hơn lối kế hoạch
kinh tế mệnh lệnh của Xô-Viết, và như Pháp, Ấn Độ là 1 nước tư bản với 1 lượng lớn các
ngành do Nhà nước sở hữu.Việc kiểm soát 1 lượng ngành chính đã giúp nhà lập kế hoạch
kiểm sốt được định hướng của mục tiêu kế hoạch.Kinh tế Ấn Độ dựa vào kế hoạch kinh tế 5
năm .Nhiệm vụ kế hoạch là làm sao đạt được mục tiêu đã đặt raVà như mơ hình Xơ-Viết, dựa
vào bảng đầu ra- đầu vào để xác định mục tiêu kế hoạch tới.
a.Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ( 1951-1956):
Từ năm 1951 đến năm 1956 , chính phủ Nehru đã thực hành kế hoạch năm năm lần
thứ nhất.Theo kế hoạch này, mục tiêu ưu tiên sẽ là tăng sản lượng nông nghịêp, phục hồi lại
hệ thống đường sắt và bắt đầu phát triển hệ thống tưới tiêu để tăng diện tích tưới tiêu và
thành nguồn cung cấp cho sản xuất điện.Chú ý tới việc tái sinh lại đời sống nông nghiệp của
người dân Ấn thơng qua chương trình phát triển cộng đồng , đồng thời ban bố pháp lệnh xóa
bỏ những địa chủ “ trung gian “ và cải cách việc cho thuê mướn ruộng đất , thực hiện bước
đầu chính sách cải cách ruộng đất của Ấn Độ.Việc phát triển các ngành như ngành sản xuất
xi-m ăng,giấy, hóa chất và cơng nghịêp nhẹ đã được nhấn m ạnh.Chính sách tiền tệ của Chính
phủ là tập trung vào bình ổn giá cả.Sự viện trợ tài chính cho sự phát triển của ngành nông
nghiệp và công nghịêp thời kỳ này đều đến từ khu vực tư nhân và Nhà nước Ấn độ và từ
viện trợ nước ngoài mà đa số được giúp đỡ từ phía Mỹ



Kết quả cửa việc thực thi kế hoạch năm năm lần thứ nhất , nơng nghiệp cửa Ấn Độ có
sự phát triển nhất định , vật giá bắt đầu ổn định theo .Tiền lương công nhân đã bằng với tiền
lương hồi năm 1939.Qua cải cách ruộng đất đã xóa bỏ được tầng lớp địa chủ “ trung gian”
giảm nhẹ được địa tô và giúp cho những người tá điền đảm bảo được việc đóng địa tơ trong
1 kỳ hạn nhất định . việc cải cách ruộng đất mặc dù không triệt để , nhưng có lợi cho nhân tố
tư bản phát triển trong ngành nông nghiệp.
Vào giữa thập niên 50, Nehru đề xuất khẩu hiệu “ Dân chủ xã hội chủ nghĩa “ , bắt
tay vào việc phát triển toàn diện .Năm 1954 , sau khi Nehru đi thăm T rung Quốc trở về nước
. lại để xuất khẩu hiệu “ Xây dựng mơ hình kinh tế - xã hội theo chủ nghĩa xã hội” tại Ấn Độ
. Tháng 1 năm sau , trong cuộc họp bàng năm của Đảng Quốc Đại , hội nghị đã dựa vào đề
nghị của Nehru , thông qua quyết nghị về việc xây dựng kinh tế Ấn Độ cũng sẽ nhắm theo
mục tiêu này.Nehru giải thích chủ nghĩa xã hội cửa ơng vừa khơng phải là chủ nghĩa cộng
sản , mà cũng không phải chủ nghĩa t ư bản , mà đó là m ột biện pháp dung “ dân chủ” và “ kế
hoạch hóa” để tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Sau khi đi thăm Liên Xô và T rung Quốc , ông lại cho rằng m ô thức thông qua kinh tế
kế hoạch ưu tiên phát triển công nghiệp nặng ở Liên Xô và việc tổng hợp của chủ nghĩa xã
hội của ông trên thực tế chính là m ột cơng thức tổng hợp cửa chủ nghĩa Fabius cửa Anh , chủ
nghĩa Gandhi của Ấn Độ và kiểu cách xây dựng của liên xơ và trung quốc , có m ục đích
dương cao lá cờ xã hội chủ nghĩa để đi theo con đường độc lập phát triển của tư bản chủ
nghĩa.Năm 1955 , Nehru đã lần lượt quốc hữu hóa ngân hàng ỉư Ấn Độ và ngành bảo hiểm
nhân thọ tại nước này.
b.Kế hoạch 5 năm lần thứ 2 ( 1956-1961):
Vào 1956,chính phủ Nehru tuyên bố rằng m ục tiêu tiếp là tạo một nền kinh tế hỗn
hợp mà trong đó, xí nghiệp Nhà nước sẽ thực thi những nhiệm vụ thiết yếu cho Nhà nước.Xí
nghiệp tư nhân sẽ thực thi những nhịêm vụ còn lại.Mặc dù vậy, Ấn độ lại chú trọng khu vực
Nhà nước hơn là khu vực tư nhân..Kế hoạch năm 5 lần 2 đã tham vọng hơn nhiều kế hoạch 5
năm lần 1, chú trọng hơn nhiều đến cải tiến hệ thống giao thông,thông tin-liên lạc và sự phát
triển của ngành địên.Một mục tiêu khác là tăng sản lượng sắt thép thông qua việc xây dựng

thêm những nhà m áy luyện sắt thép mới cùng với những hỗ trợ công nghệ từ Tây Đức và
Liên Xô cũ.
c.Kế hoạch 5 năm lần thứ 3 ( 1961-1966):


Mục tiêu chính của kế hoạch này là tăng sản lượng giống cây lương thực, bơng
sợi,giống cây có dầu, đay và cây mía.Mục tiêu thứ 2 là tăng sản lượng ngành điện.Mục tiêu
thứ 3 là tăng sản lượng các ngành công nghiệp như thép, nhôm,xi-m ăng và gang.Các m ục
tiêu đó đều đạt được.Ví dụ, giống cây lương thực tăng từ 75 triệu tấn năm 1961 lên tới 105
triệu tẤn năm 1966 , và sản lượng sợi bông cũng tăng từ 5.4 triệu tấn kiên bông lên tới 7.2
triệu kiến bông vào 1966.Sắt đã tôi luỵên đã tăng từ 2,6 triệu tấn năm 1961 lên 6,9 triệu tấn
năm 1966.T rong khu vực phúc lợi xã hội, phải đạt được m ục tiêu là đưa được dịch vụ chăm
sóc sức khỏe và lĩnh vực giáo dục vào các vùng nông thôn Ấn Độ.
Tuy kế hoạch thứ 3 này tập trung vào nông nghịêp và phát triển sản lượng gạo nhưng
cuộc chiến tranh giữa Sino - Ấn Độ bùng nổ vào năm 1962 đã bộc lộ những điểm yếu kém,
lạc hậu trong nông nghiệp và buộc phải chuyển từ việc tập trung phát triển nơng nghiệp sang
mục tiêu duy trì được sản lượng nông nghiệp. T háng 5 năm 1964, Nehru bị bệnh qua đời, Bộ
trưởng nội chính là Lal Bahadur Shastri lên thay thế chức vụ thủ tướng.Tháng 1 năm 1966 ,
Shastri bệnh chết đột ngột ; con gái cửa Nehru là Indira Gandhi (1917 – 1984) lên kế nhiệm
chức vụ thủ tướng. Indira Gandhi tuyên bố bà sẽ kế tục phương châm chính sách của Nehru,
đồng thời bà đề xuất khẩu hiệu “xóa bỏ nghèo nàn , thực hiện cơng bằng xã hội “. Do nông
nghiệp lạc hậu, lương thực thiếu thốn nên vào mùa thu năm 1967 tại khu vực Nasaerbali nằm
về phía bắc cửa bang Tây Bengal bùng nổ một cuộc khỏi nghĩa nơng dân và nhanh chóng lan
tràn đến các vùng nơng thơn lân cận,hình thành một phong trào Nasaerbali có tính tồn quốc.
Trong cuộc bầu cử Quốc hội năm 1967 , đảng Quốc Đại mặc dù tiếp tục duy trì đa số trong
Viện nhân dân và tiếp tục chấp chính tại chính phủ trung ương, nhưng có 1 số nghị hội tại
tiểu bang, đảng Quốc Đại bị m ất đi đa số, buộc phải trở thành đảng đối lập. Đứng trước tình
hình đó,chính phủ Indira Gandhi cùng 1 lúc với việc dùng vũ lực để trấn áp phong trào
Nasaerbali và đã điểu chỉnh chiến lược phát triển kinh tế. Nhằm khắc phục tình trạng khủng
hoảng lương thực, Chính phủ đã thực hành chiến lược m ới về nông nghiệp: lấy “ cách mạng

xanh “ làm chủ yếu, đồng thời, dựa vào quy luật kinh tế thị trường, hấp thụ vốn đầu tư nước
ngoài và tiến hành hạn chế sinh đẻ m ột cách nghiêm túc để hạ thấp tăng trưởng dân số.Nhờ
đó, kinh tế Ấn Độ bước vào thời kỳ phát triển nông nghiệp trở lại và đẩy mạnh áp dụng luật
kinh tế thị trường ở các thành thị. “Cuộc cách mạng xanh “ đã phổ biến rộng việc chọn lựa
các cây giống cây cao sản và cải tiến kỹ thuật nơng nghiệp ,nhờ đó đã giành được 1 số thành
quả nhất định tại Ấn Độ.Năm 1966 , Ấn Độ còn là 1 quốc gia phải nhập khẩu lúa tiểu mạch
cửa Mỹ để sống, nhưng đến cuối thập niên 70 thì lương thực cơ bản đã có thể tự cung tự
cấp.Niên khóa 1978-1979, sản lượng lương thực cửa Ấn Độ đạt được 130 triệu tấn, lập kỷ


lục cao nhất trong lịch sủ nước này.Ở những nơi “cách mang xanh” phát triển như Puonab ,
Hargana ,Utlar Pradesh đã trở thành căn cứ địa buôn bán lương thực. việc kinh doanh cũng
phát triển tại các địa phương này.
d.Kế hoạch 5 năm lần thứ 4 ( 1966-1971):
Kế hoạch lần thứ 3 có những mục tiêu khơng đạt được.Mặc dù thu hoạch ngành nông
nghịêp đã biểu hiện sự cải thiện nhưng dân số Ấn Độ tiếp tục tăng với tỷ lệ hơn 2% m ỗi năm
vượt cả ước tính.Và lại có chiến tranh giữa Trung Quốc và Pakistan nên việc xây dựng và
phát triên các ngành công nghiệp được thực thi với tiến độ chậm hơn kế hoạch rất nhiều.Kế
hoạch 5 năm lần thứ 4 và kế hoạch hàng năm của nó nhấn mạnh vào nơng nghịêp bởi Ấn độ
vừa phải trải qua 1 nạn đói quy m ơ lớn nhất trong vịng 20 năm qua.Ngồi ra kế hoạch cịn
chú trọng vào đầu ra của sản phẩm các ngành như ngành chế tạo cơng cụ và phân bón phục
vụ nơng nghiệp..Những nỗ lực m ãnh liệt trong hoàn tất các xí nghiệp vẫn đang trong q
trình xây dựng và để cải thiện năng lực xuất khẩu.
Mục tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ 4 là chuyển đổi nền kinh tế nông nghiệp truyền
thống nghèo nàn sang một nước công nghiệp hịên đại,năng động và phát triển hơn và tiếp tục
việc chuyển đổi này trong 1 hay 2 thế hệ tới. Kế hoạch đặt mục tiêu tăng trưởng để m ở rộng
việc làm ,giảm thiểu sự bất công bằng trong phân phối thu nhập và của cải,tăng cường thêm
công bằng trong cơ hội,Việc đầu tư của Nhà nước nhằm tăng tổng vốn đầu tư và giúp tăng
trưởng và tăng việc làm.Các doanh nghiệp Nhà nước sẽ thay thế một vài doanh nghiệp tư
nhân nhằm t hay thế lợi nhụân bằng lợi ích xã hội..Nhưng tất cả nỗ lực đều khơng thành.

Vào năm 1967, chính phủ đã quyết định kết thúc kế hoạch 5 năm lần thứ 4 bởi những
con số kính tế Ấn Độ đạt được nhỏ hơn rất nhiều so với m ục tiêu đặt ra mặc dù đã được sự
trợ giúp rất lớn từ bên ngoài..M ỹ đã cho Ấn Độ vay phát triển lên tới 6,5 tỷ đô từ năm 1951 1969, m à phần lớn viện trợ đó giành cho phát triển nơng nghiệp. Ngân hàng thế giới WB
cũng là người tham gia chính trong việc cho Ấn Độ vay trong suốt 4 kế hoạch lớn đó và cho
vay lên tới 2 tỉ đơ. Liên xơ cũ cũng hỗ trợ kế hoạch phát triển kinh tế Ấn Độ bằng tài chính
và hỗ trợ kỹ thuật. T ổng cộng lại là hơn 13 tỉ đô đã dược đổ vào Ấn Độ từ năm 1951-1967
nhưng kết quả cuối cùng là 1 tỷ lệ tăng trưởng trung bình,thấp hơn rất nhiều so với mong
đợi( chỉ đạt trung bình khoảng 2% tăng trưởng mỗi năm m à có nhiều năm còn bị âm ).Việc
thiếu hụt lương thực ở Ấn Độ cũng nằm ngoài dự liệu và sự lệ thuộc của Ấn Độ vào sự trợ
giúp nước ngoài đặc biệt trong việc cung cấp giống lương thực lại gia tăng.


1.1.3.Ấn Độ những năm 70:
1.1.3.1.Quốc hữu hóa ngành cơng nghịêp:
Ngọn sóng quốc hữu hóa diễn ra ở Ấn Độ sau cuộc bầu cử cả nước vào 1971.
Jaw
aharal Nehru, lãnh đạo đảng Quốc Đại của Ấn Độ, đã hình dung ra nền kinh tế CNXH
mà ơng xây dựng sẽ có thể so sánh với xã hội dân chủ.ÔNg loại trừ chủ nghĩa tư bản cùng
với lý thuyết cơ sở về của cải tư nhân, lợi nhuận tư nhân và thu nhập bất cơng bằng. Ơng
nhận thấy rằng mâu thuẫn giai cấp là bắt nguồn từ xã hội nhưng ông không đồng ý với quan
niệm chủ nghĩa Mác về việc sử dụng bạo lực để xóa bỏ chủ nghĩa tư bản.Thay vào đó, ơng
muốn đạt đến sự q độ thơng qua những phương pháp dân chủ để có được 1 nền kinh tế hôn
hợp- 1 nền kinh tế m à kế hoạch kinh tế sẽ phân bổ nguồn lực.Khi Nehru và đảng Quốc Đại
trở thành người lãnh đạo và đảng chi phối ở Ấn, việc quốc hữu hóa các ngành cơng nghiệp
trở thành 1 phương tiện kiểm soát kinh tế Ấn Độ của Nhà nước.
Nhà nước đã quốc hữu hóa cơng ty bảo hiểm nhân thọ vào 1956 và những ngân hàng
thươmg mại chính.Vào 1971,Chính phủ đã quốc hữư hóa tồn bộ các công ty bảo hiểm
nhưng quan trọng nhất là đã quốc hữu hóa được ngành cơng nghiệp khai t hác than.Vào tháng
9 năm 1971, hơn 200 mỏ than và lò luyện than cốc nằm dược quyền kiểm sốt của Chính
Phủ.Đến 1972 thì các mỏ than đã bị quốc hữu hóa.Lý do chính cho sự quốc hữu hóa ngành

cơng nghiệp than là để lấy sản phầm đầu ra của ngành thanh cung cấp cho quá trình sản xuất
ngành sắt và thép-ngành m à đã được quốc hữu hóa cùng với ngành sản xuất đồng.Ngành sản
xuất vải bông – ngành sản xuất lớn và có từ lâu đời nhất đóng góp 1/5 thu nhập quốc dân
cũng đã được quốc hữu hóa. Kết quả là nhiều ngành cơng nghịêpphải trải qua những khó
khăn tài chính trong những năm 1960 và nhiều nhà xưởng đã phải đóng cửa và cuối thập
niên này.Trong nơng nghịêp, ngành thương mại bán bn lúa m ì cũng đã được quốc hữu hóa
với mục tiêu xã hội hóa việc phân phối hạt giống

1.1.3.2.Sự thống trị của C hính phủ trong ngành cơng nghịêp
Vào khoảng năm 1975,Chính phủ Ấn độ đã chi phối đựoc các ngành chủ chốt của
nền kinh tế. Bảng biểu phía dưới cho thấy,Chính phủ có 95% cổ phần trong rất nhiều ngành
công nghịêp.Trong vấn đều việc làm, vào năm 1977,70% nhân công Ấn làm trong khu vực
nhà nước trong khi chỉ có 30% nhân cơng làm trong khu vực tư nhân. Chỉ có 3 ngành : nơng
nghịêp, sản xuất và bán bn-bán lẻ là có cơng nhân làm trong khu vực tư nhân lớn hơn khu
vực Nhà nước.Công nhân khu vực Nhà nước trong ngành công nghệp sản xuất than lên tới
97 % lực lượng lao động trong ngành.Và đó là chiếm 100% trong ngành bảo hiểm,75% trong


ngành ngân hàng,90% trong ngành xây dựng và 95% trong ngành phục vụ công cộng.Về m ặt
GDP( tổng sản phẩm quốc nội) trong suốt những năm 1970, phần đóng góp của khu vực tư
nhân đã giảm từ 52 % năm 1976 xuống còn 41 % vào 1970.Dù vậy, lượng tiết kiêm quốc nội
trung bình ( GDS) trong khu vực tư nhân chiếm 80% tổng tiêt kịêm t rong thời kỳ 1950-1980
Bảng biểu 1: Các ngành cơng nghiệp mà chính phủ Ấn Độ chiếm 95% hoặc trên 95% sự
đóng góp -

Nguồn: Balev Raj, kinh tế hỗn hợp Ấn Độ ( Bombay, Ấn Độ : Popular

Parakashan, 1989 ), trang 378.
Ngành sản xuất :
Giấy



Hóa chất



Thuốc và dược liệu



Các thành phẩm xăng dầu



Sản xuất và vật liệu địên



Kim loại màu và cơ bản



Thiét bị vận tải



Phân bón

Ngành khai khống



Chất đốt



Khống sắt



Khống kim loại và phi kim loại

Các ngành khác


Ngân hàng và bảo hiểm



Giao thông vận tải và thông tin liên lạc



Thương mại năng lượng
Làn sóng quốc hữu hóa diến ra trong suốt 1969-1973.Nói chung việc này đã ảnh

hưởng tiêu cực tới nền kinh tế Ấn.Lạm phát và thiếu lương thực liên miên khiến các ngành


cơng nghịêp trong tình trạng phấp phỏng.V quốc hữu hóa đã ngăn cản quá trình sản xuất
ịêc

kinh doanh và giới hạn sự hoạt động của khu vực tư nhân.Tầng lớp trung và giàu có phản đối
chính quyền vì đã qc hữu hóa việc bán bn lúa mì.Qn đội và cảnh sát Ấn độ đã phải
đàn áp rất nhiều cuộc bãi công của lao động trong khu vực Nhà nước.Thủ tướng Indira
Grandhi đã phải tuyên bố tình trạng khẩn cấp vào tháng 6 năm1975.Nhằm nỗ lực xoa dịu các
nhóm người bất m ãn ở Ấn ,bà tuyên bố rằng chính phủ khơng cịn dự định sẽ tiếp tục chính
sách quốc hữu hóa của m ình. Thế m à,chính phủ lại tiếp tục quốc hữu hóa ngành dàu khí
thơng qua giành được cơng ty Esso and Shell vì vậy lại tiếp tục giành lấy quyền kiểm sốt
95% ngành cơng nghiệp của Ấn độ
1.1.4 Ấn Độ những năm 1980: Đi lên và khủng hoảng tài chính
Q trình quốc hữu hóa kết thúc vào 1975.Việc kiểm soát Nhà nước đối với các
ngành then chốt của nền kinh tế Ấn dặc biệt ngành công nghịêp nặng,ngân hàng và bảo hiểm
đã được xác lập.Thủ tướng India Grandhi và đảng Quốc Đại của bà đã được bầu vào chức
nhiệm đó vào 1976 nhưng ngun nhân khơng phải về kinh tế m à về vấn đề chính trị.Khi bà
nắm lại được quyền hành năm 1980 thì tư tưởng của bà đã thay đổi. Ấn lúc đó gặp phải
khủng hoảng cán cân thanh tóan bởi khơng thể đáp ứng nhu cầu năng lượng khi tiếp tục xuất
khẩu nó. Thương m ại với nước ngoài bị khước từ trong suốt q trình phát triển kinh tế và
đầu tư nước ngồi vào Ấn Độ cũng đang khơng được chào đón. Q trình hịên đại hóa cơng
nghệ trong sản xuất đã bị tước bỏ bởi 1 chính sách nghiêm ngặt về nhập khẩu cơng nghệ.Vì
vậy,nền kinh tế có xu hướng phát triển về m ặt lượng chứ ít về phát triển tiềm lực bên t rong
của nền kinh tế.
Dù vậy, khơng có sự thay đổi thực sự nào trong cơ cấu kinh tế Ấn Độ đã diễn ra.Về
mặt đầu tư, khu vực Nhà nước vẫn chiếm ưu thế hơn khu vực tư nhân. Thêm vào là cơ sở hạ
tầng kinh tế, thuộc ngành công nghịêp m à khu vực Nhà nước độc quyền đã đến tình trạng
tiêu điều.. Kế hoạch 5 năm lần thứ 6(1980-1985) đã nhấn m ạnh vào phát triển năng lượng,cải
tiến khu vực phương tiện giao thông,hệ thống tưới tiêu và kiểm sốt lương thực.Những gì
thay đổi chỉ là sự hồi phục của dầu tư khu vực tư nhân vào m ột số ngành cơng nghịêp.Mặc
dù cịn vẫn cịn sự kiếm soát quan liêu và độc quyền nhưng khu vực tư nhân đã được cho
phép đầu tư vào m ột số ngành cơng nghịêp cốt lõi như hóa chất, thuốc, gốm sứ và xi măng.
Chính phủ cũng nới lỏng cho khu vực tư nhân hoạt động ở 1 số ngành cơng nghịêp như là
thăm dị dầu , phát triẻn năng lượng- m ột điều mà trước đây khơng có.



Sau khi bà Gandhi bị ám sát vào 1984, con trai bà đã kế nhiệm thủ tướng và tiếp tục
đường lối chính sách được mẹ ơng thực hịên ở các doanh nghịêp tư nhân trong lĩnh vực đầu
tư và hoạt động trong những ngành cơ bản. Trong vòng 5 năm chấp chính(1984-1989),Rajvi
Gandhi đã thực thi kế hoạch 5 năm lần thứ 7 (1985-1990),thúc đẩy nền kinh tế phát triển
nhanh.Kinh tế quốc dân của Ấn Độ trong thời kỳ này đã có tỷ lệ tăng trưởng bình qn
5%,cơng nghiệp tăng trưởng 8%,nơng nghiệp vẫn tiếp tục ở mức độ tốt.Niên khóa 19881989, sản lượng lương thực đã đạt đến mức kỷ lục trong lịch sử là 170.160.000 tấn.Khoa học
kỹ thuật cũng có bước phát triển mới.Ấn Độ những năm này có đến 3 triệu nhân viên kỹ
thuật khoa học cao. Dù vậy,sự phát triển này luốn bị quấy rối từ m âu thuẫn nội bộ và những
hạn chế quá lớn từ vịêc cải cách xa hoa của ơng.Trong q trình điều tiết về m ặt thị
trường,đã xuất hiện sự hỗn loạn về kinh tế ngày càng nhiều hơn,con số thâm hụt ngày càng
cao,lạm phát càng nhiều.Tuy vậy.khơng có sự thay đổi lắm và sự kiểm sốt Chính phủ trong
nền kinh tế vẫn tiếp tục.Cùng lúc đó,sự cơng bố thay đổi về bản chất trong chiến lược phát
triển kinh tế của Trung Quốc mà bắt đầu vào năm 1978 và tiếp tục trong suốt những năm
1980.Chiến lược này bao gồm phát triển dựa vào các nhân tố thị trường và quyền tự do hơn
trong các hoạt động của lĩnh vực tư nhân.Thêm vào nữa, Ấn Độ đã khơng cịn được sự viện
trợ của các nước phía Tây ngoại trừ Mĩ trong khi đó Trung Quốc lại giành được sự ủng hộ và
thu hút được những vốn đầu tư nước ngồi mà chính Ấn Độ cũng cần phải có cho sự phát
triển kinh tế.
Vậy tại sao kinh tế Ấn Độ lại phát triểm chậm chạp trong những năm 1950-1990?Sự
không hiệu quả và kém tăng trưởng là do 3 nguyên nhân chính
-Nguyên nhân thứ nhất: Ngành cơng nghịêp và thương mại hồn tồn bị kiếm soát bởi hoạt
động quan liêu của Nhà nước nên đã hạn chế sự m ở cửa thị trường và sự cạnh tranh trong
nhập khẩu.ĐIều này cũng gây bất lợi cho khả năng mở rộng sản xuất không nằm trong biên
chế, đồi hỏi nhiều giấy phép cho mỗi hoạt độn sản xuất kinh doanh nên hần như kiểm soát
hết họat động đầu tư và sản xuất kinh doanh.
-Nguyên nhân thứ 2 : Khi các nước khác đang m ở rộng thương mại với nước ngịai thì chính
sách phát triển kinh tế Ấn Độ lại làm điều ngược lại.Chính sách đã khơng sử dụng cơ chế tủ
giá hối đối để xúc tiến xuất khẩu và lại bảo hộ thị trường trong nước thông qua việc sử

dụng thuế xuất nhập khẩu cao và hạn ngạch nhập khẩu.Những quốc gia với cơ sở công
nghiệp nhỏ hơn nhiều so với Ấn lại xuất khẩu nhiều hơn các thành phẩm hơn và cuối cùng
đã vượt qua Ấn về sản lượng trong khu vực sản xuất.Tỷ phần đóng góp trong xuất khẩu thế
giới của Ấn Độ rơi từ 2,1% năm 1950 xuống còn 0,4 % vào năm 1980.


-Nguyên nhân thứ 3: Khu vực Nhà nước đã giảm đi tính hiệu quả và năng suất sản
xuất.Chính quyền trung tâm kiếm soát 244 doanhnghiệp m à hầu hết đều thừa nhân viên do
nguyên nhân chính trị.Một ngân sách hạn hẹp và một ít tiền khích lệ để giúp các doanh
nghịêp này có lợi nhuận đã góp phần vào khủng hoảng tài chính và tỷ giá hối đối những
năm 1980 đã khiến Ấn Độ rơi vào bờ vực phá sản và phải yêu cầu tới sự hỗ trợ cho vay từ
Quỹ Tiền tệ thế giới ( IMF- Ỉnternational Monetary Fund)
Từ năm 1951 đến 1990, sự phát triển của ngành công nghiệp Ấn Độ đã và vẫn đang
thực hịên dựa trên khung kế hoạch đề ra.Khi việc độc quyền của Nhà nước có nhiệm vụ cung
cấp đầu ra cho Cơ sở hạ tầng và các ngành cơng nghịêp nặng và Chính phủ kiểm soát các
hoạt động của khu vực tư nhân thông qua giấy phép cấp.Nhằm phù hợp với sự ưu thế của
Nhà nước ở các ngành trong kế hoạch kinh tế,Chính phủ phát hành giấy phép cơng nghịêp
cho phép lắpđặt các thiết bị vào các đơn vị sản xuất khác nhau.Hệ thống cấp phép nhập khẩu
được sử dụng để kiểm sốt sự phân bổ lượng hàng hóa trao đổi với nước ngoài đến các khu
vực kinh tế khác nhau.Nhà nhập khẩu phải đưa ra được cho nhà cầm quyền liên đới giấy
phép các hàng được sản xuất và giấy phép xuất khẩu - loại giấy phép cho các loại hàng hóa
được phép nhập khẩu.
Họat động trong m ơi trường kinh tế bị hạn chế cao,khu vực kinh tế tư nhân Ấn
thường phải nhận nguồn cung cấp nguyên liệu đầu vào từ khu vực Nhà nước: nhận trực tiếp
hay gián tiếp từ các doanh nghịêp Nhà nước thay vì các nguyên liệu đầu ra nhập từ tổ chức
thương mại nước ngoài.Vịêc quản lý giá cả và thiếu tính khuyến khích về mặt kinh tế cho
các nhà quản lỳ và nhân công đã khiến các doanh nghiệp Nhà nước không phản ứng kịp thời
trước các tín hiệu thị trường.T hêm vào đó các chính sách hạn chế thương mại dưới vỏ ngồi
là bảo vệ các ngành công nghịêp non trẻ và việc hạn chế giao dịch thươmg mại với nước
ngoài, đánh thuế quá đáng lượng hàng hóa đầu vào nhập khẩu.Việc thiếu nguyên liệu đầu

vào do sự hạn chế của Nhà nước đã khiến tỷ lệ năng suất không đúng mức diễn ra trong các
ngành sản xuất
Sau đó, đến năm 1989-1991 là thời kì m ất ổn định chính trị của Ấn Độ do đó khơng
có kế hoạch 5 năm được thực hiện. Giữa 1990 và 1992, chỉ có các kế hoạch hàng năm . Năm
1991, Ấn Độ đối m ặt với cuộc khủng hoảng trong dự trữ ngoại t ệ, cuộc khủng hoảng để lại
dự trữ chỉ khoảng 1 tỷ đô la Mỹ. Do đó, dưới sức ép, đất nước đón nhận những rủi ro của cải
cách nền kinh tế xã hôi chủ nghĩa.P.V. Narasim ha Rao (28/6/1921 – 23/12/2004) người còn
được gọi là cha đẻ của những cải cách nền kinh tế Ấn Độ là thủ tướng thứ 12 của nước cộng
hòa Ấn Độ và đứng đầu Quốc Hội, và lãnh đạo một trong những chính phủ quan trọng nhất


trong lịch sử Ấn Độ hiện đại đã chứng kiến m ột cuộc chuyển đổi kinh tế trọng đại và một số
rắc rối ảnh hưởng tới an ninh quốc gia. Vào thời điểm đó Dr. Manmohan Singh (thủ tướng
hiện tại của Ấn Độ) khởi đầu cải cách tự do thương mại Ấn Độ nhờ đó đã cứu vãn quốc gia
gần như trên bờ vực phá sản . Đó là sự bắt đầu của tư nhân hóa và tự do hóa ở Ấn Độ.

2.Giai đọan 1990-2007: phục hồi và tăng trưởng thần kỳ
2.1.Gi ai đoạn 1990-2000: Những cải cách m ạnh bạo
Tình hình thế giới có những chuyển biến lớn trong những năm dầu 1990 để cho Ấn
Độ ngày càng kiệt sức.Hai sự thay đổi chính đã diễn ra với sự thay đổi lớn nhất là sự sụp đổ
của hệ thống XHCN. Liên Xơ cũ-nước có mối liên hệ cả về kinh tễ lẫn chính trị chặt chẽ với
Ấn độ trong 30 năm đã sụp đổ.Hàng loạt nước trong đó cả Liêng bang Nga m ới đã cầu cứu
sự viện trợ của rất nhiều quốc gia để có nguồn lực cho sự chuyển đổi về nền kinh tế thị
trường...Rất nhiều sự vay m ượn đưa ra cho những quỹ tiền giới hạn .Sự thay đổi thứ 2 là sự
tụt dốc thảm hại của sự tín cậy của thế giời đối với Ấn Độ.S vay mượn nguồn tư nhân và

Nhà nước sẽ vơ ích nếu thiếu sự nỗ lực trong cải cách kinh tế Ấn ĐỘ.Cải cách thuế cùng với
sự nới lỏng hạn định về ngoại thương là cần thiết.
Vào năm 1991, Narashimha Rao lãnh đạo Đảng Quốc đại đang chiếm thiểu số và Bộ
trưởng Tài chính Mam ohan Signh đã tiến hành tự do hóa các hoạt động kinh tế khỏi những

kìm hãm từ thập niên 70.Động lực của những cải cách này chính là cuộc khủng hoảng khi
mà Ấn Độ đã tiêu hết những khoản vay nước ngoài từ những năm 1980, dư nợ lên đến 21%
trong tổng số thu tài khoản hiện tại và tiền lãi phải trả bằng 20% chi tiêu chính phủ. Tuy
nhiên, chính phủ Rao đã ban hành các quy định giúp giải quyết các nguồn tài khóa hạn hẹp
của cuộc khủng hoảng; cắt giảm số lượng các ngành công nghiệp vốn là đặc quyền sản xuát
của khối nhà nước; xóa bỏ cơ chế xin cấp phép đối với tư nhân khi thành lập hay m ở rộng
doanh nghiệp; phá giá đồng rupi; cho phép quy đổi các tài khoản vãng lai; dỡ bỏ hạn ngạch
đối với hàng nhập khẩu và giảm thuế; dỡ bỏ các hạn chế đối với đầu tư nước ngoài, và cho
phép các thể chế tài chính nước ngồi được đầu tư vào hai thị trường chứng khoán của Ấn
Độ.Hàng loạt cải cách đã được đưa ra.

2.1.1.Cải cách thuế:
Cải cách thuế là 1 phần khơng thể thiếu trong q trình cải cách kinh tế ở Ấn Độ.Toàn
bộ m ục tiêu của cải cách là nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua việc khuyến khích
tiết kiệm và đầu tư bằng thuế khuyến khích.Tỷ suất biên về thuế vào khoảng 50% cho thuế


×