Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Có gì mới về dự phòng và điều trị sốt rét? docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.36 KB, 9 trang )

Có gì mới về dự phòng và
điều trị sốt rét?

Cho tới nay, sốt rét vẫn được xem là bệnh nhiễm ký sinh
trùng quan trọng nhất, và là một trong những nguyên nhân
tử vong hàng đầu trên thế giới: mỗi năm có tới từ 1 đến 3
triệu người, bao gồm trên 700.000 trẻ em dưới 5 tuổi, chết
vì sốt rét. Bệnh sốt rét có mặt ở hầu hết các vùng nhiệt
đới, nhưng nó hoành hành nặng nhất tại Đông Nam Á
(Việt Nam, Campuchia, Thái Lan, Indonesia, Myanmar),
Nam Á (Ấn Độ), Nam Mỹ, vùng Caribe (Haiti) và đặc biệt
là châu Phi.
Có bốn chủng loài ký sinh trùng
sốt rét (SR) gây nhiễm cho con
người, trong đó Plasmodium
falciparum là tác nhân gây phần
lớn ca tử vong. P. falciparum
chiếm ưu thế ở châu Phi hạ Sahara, New Guinea và Haiti.

Muỗi - loài truyền bệnh
sốt rét
P. vivax phổ biến hơn ở Trung Mỹ và Nam Á, nhưng từ
hai thập niên qua P. falciparum ngày càng gặp nhiều ở Ấn
Độ. Cả P. falciparum và P. vivax đều hoành hành ở Nam
Mỹ và châu Á - Thái Bình Dương. P. malariae ít phổ biến
hơn nhưng có mặt ở hầu hết các vùng; P. ovale chủ yếu
hiện diện ở châu Phi.

Bệnh SR lây truyền qua vết đốt của muỗi Anopheles (đòn
xóc) cái. Biện pháp phòng bệnh đầu tiên là diệt muỗi,
ngăn muỗi, đuổi muỗi và tránh muỗi đốt. Các thuốc dùng


cho hóa dự phòng bao gồm chloroquin, mefloquin,
doxycyclin, atovaquone và proguanil.

Đối với vùng SR không kháng thuốc chloroquin, có thể
dùng viên chloroquin (300 mg hoạt chất cơ bản, tức 500
mg phosphat hoặc sulfat chloroquin) - mỗi tuần một lần, từ
1 tuần trước khi đi vào vùng SR suốt cho đến 4 tuần sau
khi rời vùng.

Ở vùng có SR kháng chloroquin và đa kháng thuốc (trong
đó có Việt Nam) có thể sử dụng một trong các thuốc sau
đây:

- Mefloquin hydrochlorid (Lariam) 250 mg (3 - 5 mg/kg cho
trẻ em), mỗi tuần một lần, từ 1 tuần trước đến 4 tuần sau
phơi nhiễm (không dùng cho phụ nữ có thai hay cho con
bú và những người có rối loạn tâm thần hay có bệnh sử
trầm cảm hay động kinh; dùng thận trọng với người bệnh
gan hay có rối loạn dẫn truyền tim hay đang sử dụng
thuốc chẹn beta).

- Doxycyclin 100 mg mỗi ngày, trong 1 - 2 ngày trước,
trong lúc, và trong 4 tuần sau phơi nhiễm (không dùng cho
phụ nữ có thai và trẻ dưới 8 tuổi).

- Chloroquin 300 mg/tuần (như trên) kết hợp với proguanil
200 mg mỗi ngày trong 1 - 2 ngày trước, trong lúc, và
trong 4 tuần sau phơi nhiễm.

- Atovaquon 250 mg + proguanil 100 mg (Malarone) trong

1 - 2 ngày trước, trong lúc và 7 ngày sau phơi nhiễm.

Trong thực tế ở VN và các nước trong khu vực, việc sử
dụng mefloquin là thích hợp nhất (nếu không có chống chỉ
định). Ngoài ra, cần mang theo ít nhất một liều thuốc (như
viên phối hợp mefloquin + artemisinin dùng liều duy nhất)
để khi cần có thể tự chữa bệnh SR hay một bệnh sốt
không rõ nguyên nhân xảy ra ở nơi xa cơ sở y tế.

Thuốc dùng cho điều trị bao gồm các dạng thuốc uống và
thuốc tiêm có mefloquin, quinin, halofantrin và artemisinin
(liều dùng cho trẻ em được tính theo thân trọng). Để tăng
cường tiềm năng trị liệu và chống kháng thuốc, nhiều
phác đồ phối hợp thuốc được triển khai sử dụng:

- Quinin (hay quinidin gluconat) phối hợp với artemisinin
(hay artesunat), hoặc với Fansidar
(pyrimethamin/sulfadoxin), doxycyclin, clindamycin

- Artemisinin (có dạng viên nhét hậu môn cho trẻ em) phối
hợp với mefloquin hoặc halofantrin.

- Chloroquin phối hợp với primaquin (cho điều trị tiệt căn
SR do Plasmodium vivax và P. ovale).

Kết hợp mới nhất là giữa artemisinin và lumefantrin, tức
viên Coartem của hãng Novartis.

Với các thể SR cấp tính và SR nặng (ác tính), cùng với
các biện pháp nâng đỡ cơ thể (chống tụt đường huyết, co

giật ), các thuốc quinin và artesunat thường được dùng
qua đường tĩnh mạch (tiêm truyền), cho đến khi người
bệnh qua khỏi cơn nguy cấp thì chuyển qua tiêm bắp hay
tiêm dưới da, rồi chuyển dần sang thuốc uống.

×