Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

nghiên cứu tình hình phòng, chống sốt xuất huyết chủ động dựa vào trường học tại 05 xã của huyện cần giuộc, tỉnh long an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (522.04 KB, 86 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh sốt Dengue/ sốt xuất huyết Dengue là một bệnh nhiễm trùng cấp
tính do virus Dengue gây ra. Bệnh lây qua trung gian là muỗi Aedes aegypti
và lưu hành trên 100 nước thuộc các khu vực có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt
đới, vùng Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương. Có khoảng 2,5 tỷ người
sống trong vùng có nguy cơ [8], [62]. Đại dịch sốt Dengue/ sốt xuất huyết
Dengue bắt đầu từ những năm cuối thế kỷ 20 với số mắc hàng năm khoảng 10
triệu người. Tỷ lệ chết trung bình khoảng 5% với khoảng 240.000 trường hợp
mỗi năm. Tại Đại hội đồng Tổ chức Y tế Thế giới 5/1998 Tổng Giám Đốc
G.H. Brundtland đã tuyên bố: “Thế kỷ 21 là thế kỷ phòng, chống bệnh sốt
xuất huyết”[7].
Việt Nam có số mắc và chết do sốt Dengue/ sốt xuất huyết Dengue gia
tăng kể từ năm 1994 trở lại đây là bệnh nguy hiểm có thể gây tử vong nếu
không được phát hiện sớm và điều trị đúng. Bệnh đã và đang trở thành vấn đề
y tế nghiêm trọng, hiện nay bệnh sốt xuất huyết Dengue chưa có thuốc điều trị
đặc hiệu cũng như vắc xin chủng ngừa. Vì vậy, diệt muỗi truyền bệnh vẫn là
biện pháp chủ yếu trong phòng và chống bệnh sốt Dengue/ sốt xuất huyết
Dengue [52],[6]. Phòng và chống bệnh sốt Dengue/ sốt xuất huyết Dengue
không thể thực hiện được nếu không có sự tham gia hợp tác của cộng đồng.
Có nhiều mô hình để huy động cộng đồng tham gia công tác phòng, chống sốt
xuất huyết đã có những thành công nhất định, trong đó có mô hình cộng tác
viên hàng tháng đến từng hộ dân thực hiện diệt lăng quăng và hướng dẫn các
biện pháp phòng chống. Mô hình kiểm soát lăng quăng bằng cách huy động
trưởng ấp, cộng tác viên, y tế ấp, đoàn thể, học sinh… tham gia, mỗi chiến
dịch thực hiện 02 ngày. Nhưng đến nay bệnh sốt xuất huyết vẫn tồn tại và có
chiều hướng gia tăng [4],[33].
1
Tại tỉnh Long An bệnh sốt xuất huyết được coi là một trong những vấn
đề chăm sóc sức khỏe, bệnh thường xuyên đe dọa đến trẻ em trong tỉnh. Hàng
năm, ngành Y tế và các ban ngành đã thực hiện một số mô hình và đầu tư khá
nhiều nhân lực, vật lực cho hoạt động phòng, chống sốt xuất huyết nhưng kết


quả chưa theo mong đợi [12],[42]. Nhất là tại huyện Cần Giuộc, diễn biến sốt
xuất huyết rất phức tạp bệnh xãy ra quanh năm, không còn theo chu kỳ mùa.
Tỷ lệ mắc và vào choáng khá cao thể hiện năm 1996 mắc 1.284 choáng 623
chết 2, năm 2006 mắc 1.182 choáng 169, đến năm 2007 mắc 408 vào choáng
57 ca. Theo hiện tượng tảng băng về dịch tễ học của bệnh thì số mắc ngoài
cộng đồng của huyện Cần Giuộc là rất cao. Chúng tôi nhận thấy rằng mỗi hộ
gia đình đều có con em là học sinh tiểu học, trung học cơ sở là đối tượng tiếp
thu khá nhanh những kiến thức cần thiết để có thể tham gia vào việc diệt
muỗi, diệt lăng quăng ở tại trường, tại nhà và nhà bên cạnh. Để hình thành
thái độ xem muỗi vằn là côn trùng có hại cần tiêu diệt, kiên quyết không chấp
nhận sự có mặt của muỗi và để hình thành ý thức về vai trò khả năng của
mình trong việc ứng phó với phòng, chống bệnh sốt xuất huyết. Với những lý
do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Nghiên cứu tình hình phòng,
chống sốt xuất huyết chủ động dựa vào trường học tại 05 xã của huyện
Cần Giuộc, tỉnh Long An”, với mục tiêu:
1. Tìm hiểu kiến thức-thái độ-thực hành của học sinh trường tiểu học và
trung học cơ sở tại 05 xã triển khai chương trình phòng chống sốt xuất huyết.
2. Đánh giá kết quả phòng, chống sốt xuất huyết chủ động dựa vào các
chỉ số côn trùng, kiến thức-thái độ-thực hành của phụ huynh học sinh và tỷ lệ
bệnh nhân mắc bệnh sốt xuất huyết.
2
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. LỊCH SỬ SỐT DENGUE/ SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE
Lâm sàng bệnh sốt Dengue đã được biết từ trên 200 năm nay, nhưng
Virus Dengue gây bệnh thì mãi đến năm 1944 mới tìm ra. Virus Dengue đầu
tiên được A.B Sabin tìm ra trong thế chiến thứ II trong những binh lính ở
Calcutta, New Guinea và Hawaii. Cùng thời các virus phân lập được ở Ấn Độ
từ năm 1943-1944, Hawaii và một chủng ở New Guinea, chúng có một kháng
nguyên giống nhau được gọi là DEN-1. Ba chủng khác còn lại ở New Guinea

có kháng nguyên khác với chủng trên được gọi là DEN-2 và được coi là các
chủng mẫu (DEN-1 Hawaii; DEN-2 New Guinea). Sau đó hai typ huyết thanh
khác là DEN-3 và DEN-4 lần lượt được W.McD Hammon tìm ra từ bệnh
nhân mắc sốt xuất huyết ở Manila- Philippines, 1956 [14],[52].
Trước đây người ta đã ghi nhận dịch Dengue truyền do muỗi nhưng phải
tới 1903 Graham mới đưa ra được dẫn chứng cụ thể và đến 1906 Ban Groft đã
chứng minh véc tơ truyền bệnh Dengue là muỗi Aedes aegypti [14]. Vụ dịch đầu
tiên được khẳng định là sốt xuất huyết Dengue được ghi nhận tại Philippines vào
năm 1953-1954. Từ đó nhiều vụ dịch sốt xuất huyết Dengue lớn đã xãy ra ở hầu
hết các nước Đông Nam Á với tỷ lệ tử vong cao. Qua 20 năm, tỷ lệ mắc và sự
phân bố về mặt địa lý của SXHD tăng rõ rệt, và hiện nay, ở một số nước Đông
Nam Á, các vụ dịch hầu như năm nào cũng xãy ra [23],[34].
1.2. TÌNH HÌNH SỐT DENGUE/ SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE TRÊN
THẾ GIỚI
Dịch Dengue đang là vấn đề lây nhiễm ở các nước nhiệt đới và á nhiệt
đới và hiện nay là một bệnh nhiễm Arbovirus toàn cầu. Mỗi năm có chừng
3
100 triệu ca mắc bệnh SD, 250.000 ca SXHD và 25.000 ca tử vong. Nhiễm
virus Dengue đã được báo cáo trên 100 nước và 2500 triêu người (2/5 dân số
thế giới) đang sống trong vùng dịch Dengue (1). Bệnh đang có chiều hướng
gia tăng theo với khách du lịch (2). Dengue là mối quan tâm cho sức khoẻ
cộng đồng của cả thế giới bởi vì sự phân bố virus theo địa lý, các véctơ lây
truyền, tính chu kỳ của nhiều chủng huyết thanh, và các đợt bùng phát dịch ở
những vùng mới.
Virus Dengue thuộc họ Flaviviridae và do muỗi Aedes lây truyền. Virus
này thuộc nhóm virus RNA có vỏ lipid. Sự nhiễm virus có pha trong máu kéo
dài 4-8 ngày và hầu hết nhiễm trùng không có triệu chứng. Mức độ RNA
virus thay đổi từ 10
5.5
đến 10

9.3
copies/mL và máu thu được trong giai đoạn
này có thể lây nhiễm nếu được truyền cho người khác. Sự lây truyền liên quan
chăm sóc sức khoẻ gồm lây truyền qua sản phẩm máu đã được nhắc đến vào
tháng 3/2008 ở một tạp chí nghiên cứu [66]. Sự lây nhiễm virus liên quan
dịch vụ chăm sóc y tế giữa người bao gồm lây nhiễm qua da, niêm mạc, ghép
tuỷ, ghép tạng, thẩm phân, truyền máu và sản phẩm của máu. Tuy nhiên, hiện
nay, virus Dengue vẫn chưa được xem nguy cơ an toàn truyền máu.
Virus Dengue là thành viên của họ Flaviviridae, có 4 týp huyết thanh
khác nhau truyền từ người mắc bệnh sang người lành chủ yếu do muỗi A.
aegypti. Mặc dầu một số nghiên cứu ở Ấn Độ nhắc đến vai trò muỗi Ae.
Aegypti, Ae. Albopictus, Ae. Vittatus. Nhiễm với một loại týp huyết thanh
Dengue thì sẽ có miễn dịch đặc hiệu lâu dài, nhưng không có miễn dịch chéo
với týp huyết thanh khác để bảo vệ cơ thể.
Trận dịch đầu tiên được xác định do virus Dengue gây ra được
Benjamin Rush mô tả vào năm 1780 ở Philadelphia [23] và ca đầu tiên được
báo cáo năm 1789, nhưng nguyên nhân do virus và muỗi truyền thì chỉ được
nói đến đầu thế kỷ 20 [55].
4
Khoảng thời gian giữa năm 1975 và 1995, SD/SXHD xãy ra ở 102
nước thuộc khu vực của Tổ chức Y tế Thế giới, trong đó Đông Nam Á có 7
nước dịch lưu hành, ở trong khu vực này tỷ lệ mắc sốt xuất huyết Dengue
tăng lên đáng kể trong vòng 17 năm qua và từ năm 1980 trở lại đây (1999) số
mắc đã tăng lên gấp 5 lần so với 30 năm trước [34],[55]. Nguyên nhân góp
phần làm virus Dengue lan tràn mạnh là do số người di chuyển giữa các trung
tâm đông dân cư trên thế giới. Mặt khác, sự lan truyền bệnh SD/SXHD trên
toàn thế giới một cách mãnh liệt đã xãy ra tạo điều kiện thuận lợi do sự đô thị
hóa không có kế hoạch ở các nước phát triển nhiệt đới trong khi kiểm soát
muỗi không có hiệu quả. Khi bắt đầu thế kỷ 21, dịch SD/SXHD là một trong
những bệnh nhiễm trùng ảnh hưởng các vùng công nghiệp nhiệt đới [56],[61].

Chính vì vậy mà dịch Dengue xãy ra đã không ngừng tăng lên trong hầu hết
các nước vùng nhiệt đới.
Dịch SXH đầu tiên ở Singapore bắt đầu từ năm 1901, sự bùng nổ năm
1960 làm 70 ca nhập viện. Kể từ năm 1960, các vụ dịch lớn xảy ra hằng năm
từ 1961-1964 và 1966-1968. Tỷ lệ mắc năm 1969 là 42,2/100.000 và 3-
10/100.000 dân năm 1969-1972. Các vụ dich tiếp theo năm 1986, 1989, 1992,
1998, và 2004 với tỷ lệ mắc tăng gần 10 lần từ 16,7/100.000 dân năm 1987
đến 223,1/100.000 dân năm 2004. Tần suất có vẻ theo chu kỳ 6 năm với đỉnh
cao là 1992, 1998, và 2004 [51],[65].
Singapore là nước phát triển công nghiệp hoá nằm trong vùng dịch nên
đã sử dụng test phát hiện Dengue để sàng lọc. Tỷ lệ huyết thanh nhiễm
Dengue ở S là 45% ở 4 triệu dân. Năm 2005, có 14.209 ca mắc có biểu hiện
triệu chứng, trong đó thanh thiếu niên và người trưởng thành là 80% [51],
[60].
5
Hình 1.1. Bản đồ phân bố Virus Dengue và véc tơ truyền bệnh năm 2008
(Nguồn: www.treehugger.com/world-dengue-virus-distirb. Map world distribution
of dengue viruses and their mosquito vector, Aedes aegypti [76])
Nhiễm virus Dengue có thể không có triệu chứng những có thể dẫn đến
sốt không rõ, SD và SXHD hoặc hội chứng sốc Dengue. Nguy cơ mắc bệnh
có thể gia tăng ở người có kháng thể kháng Dengue, hoặc chủ động hoặc thụ
động, mặc dầu sốc xuất huyết Dengue/SXHD có thể gây tử vong ở lần nhiễm
đầu tiên. Một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân vẫn tiếp tục tiến triển sang sốc xuất huyết
Dengue với đông máu lòng mạch mặc dầu đã được điều trị tích cực tức thì
[2],[57].
1.3. TÌNH HÌNH SỐT DENGUE VÀ SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE Ở
VIỆT NAM
Sốt Dengue và sốt xuất huyết Dengue được du nhập vào Việt Nam từ
những năm 1960 cho đến nay, trở thành một bệnh dịch lưu hành ở nước ta, là
vấn đề y tế quan trọng ở Việt Nam từ hơn 3 thập niên qua số mắc và số chết

do bệnh sốt xuất huyết liên tục gia tăng và là một trong những nguyên nhân
chính dẫn đến nhập viện và tử vong ở trẻ em [21],[57]. Bệnh không chỉ xuất
6
hiện ở đô thị mà cả vùng nông thôn, nơi có muỗi véc tơ truyền bệnh. Dịch sốt
Dengue và sốt xuất huyết Dengue bùng nổ theo chu kỳ khoảng 3 - 5 năm.
Năm 1998 trên toàn quốc bùng nổ vụ dịch lớn, số mắc bệnh và tử vong cao số
mắc là 234.920 người; tử vong 372 tại 56/61 tỉnh thành phố. Vì vậy, ngày
10/10/1998, Thủ tướng Chính Phủ đã có quyết định số 196/1998/QĐ-TTg đưa
Dự án phòng chống SD/SXHD trở thành một mục tiêu trong chương trình
“Mục tiêu Quốc gia thanh toán một số bệnh xã hội và bệnh nguy hiểm”[5],[7],
[29],[37].
Sốt Dengue là một nguyên nhân gây sốt phổ biến ở các nước nhiệt đới
nhưng đã góp phần làm nặng gánh các bệnh lý sốt chưa rõ tại các cơ sở chăm
sóc sức khoẻ ban đầu ở các vùng dịch bệnh tại Việt Nam. Miền Trung, dịch
SXHD xãy ra năm 1969 có 1.648 trường hợp mắc và tử vong 54 trường hợp.
Năm 1974 dịch bùng phát mạnh ở ven biển miền Trung làm mắc 14.320
trường hợp và tử vong 986 [57].
Nghiên cứu tần suất Sốt Dengue như là nguyên nhân gây sốt tại tỉnh
Bình thuận, mô tả những triệu chứng đặc trưng của các bệnh nhân Dengue,
phân tích độ chính xác của chẩn đoán của các nhân viên y tế và các yếu tố
quyết định của quá trình chẩn đoán.
Tỉnh Bình Thuận là một tỉnh nằm trong vùng dịch SXH ở nam VN. Từ
4/2001 đến 3/2002, mẫu huyết thanh của bệnh nhân sốt không rõ nguyên nhân
cấp tính được thu thập ở 12 trạm y tế xã ngay khi vào viện và sau đó 3 tuần để
chẩn đoán huyết thanh học. Tất cả 697 bệnh nhân được thu mẫu xét nghiệm
tìm kháng thể kháng virus Dengue gồm test IgG và IgM. Nhiễm cấp tính
(IgM) virus Dengue là 33,6% và đã nhiễm trong quá khứ (IgG) là 57,1%.
Nhiễm cấp tính xảy ra chủ yếu ở trẻ < 15 tuổi hơn ở người trưởng thành
(7,7% so với 3,5% p<0,001). Người trẻ có nguy cơ cao nhiễm cấp với RR :
0,975 -0,997; p=0,014). Có 48,9% lâm sàng biểu hiện SD được khẳng định

bằng huyết thanh dương tính trong khi 32,5% không có lâm sàng nhưng có
7
huyết thanh biểu hiện nhiễm virus (OR: 1,981 và p = 0,025, 95%CI: 1,079-
3,635).
Như vậy SD chịu trách nhiệm về sốt không rõ nguyên nhân ở các trạm
y tế tại tỉnh Bình Thuận. Nhằm xác định các yếu tố nguy cơ người ta tiến
hành chẩn đoán huyết thanh trong hai trường tiểu học và dùng bảng câu hỏi
đánh giá cũng như quan sát ở nhà ở. Mẫu huyết thanh lấy gồm 961 trẻ và thử
tìm kháng thể kháng virus Dengue IgG bằng kỹ thuật miễn dịch ELISA. Tần
suất kháng thể IgG là 65,7% trong quần thể nhân dân tỉnh Bình Thuận tăng
dần từ 53% đến 88,2%. Tỷ lệ mắc mới hằng năm ở lần nhiễm đầu tiên là
11,7% bằng cách đánh giá bởi phương trình hồi quy nhị tuyến của tần suất
huyết thanh bởi tuổi. Tần suất IgG cao có ý nghĩa ở trẻ em (RR: 1,467;
95%CI: 1,245-1,730), ở lợn (RR: 1,228; 95%CI: 1,002-1,504), thú vật nuôi
(RR: 1,238; 95%CI: 1,042-1,470). Nghiên cứu ở các trường tiểu học hai xã
Hàm Hiệp và Hàm Kiếm gồm các trẻ từ 7 đến 14 tuổi gồm 631 trẻ, có tỷ lệ
IgG (+) là 65,7%; trong đó trẻ 7 tuổi là 53% và trẻ 13 tuổi là 88%. Tỷ lệ
nhiễm virus không khác biệt giữa trẻ nam và nữ. Như vậy, dịch SD ở Việt
Nam bền vững với tỷ lệ mới mắc hằng năm cao. Lây truyền xảy ra do thú vật
nuôi có vai trò quan trọng trong sức khoẻ cộng đồng [59].
Miền Nam, dịch SXHD đầu tiên xãy ra vào năm 1960 với 60 em tử
vong, kế tiếp dịch bùng phát ở Cái Bè, Châu Đốc, Hồng Ngự, Tân Châu, Cao
Lãnh vào năm 1963 với 331 bệnh nhi nhập viện và 116 trường hợp tử vong
[3] và đến năm 1998 bùng nổ vụ dịch lớn trong toàn quốc. Theo báo cáo của
Bộ Y tế, bệnh sốt xuất huyết là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến nhập viện và
tử vong ở trẻ em miền Nam Việt Nam. Mặc dầu tỷ lệ tử vong của sốt xuất
huyết đã được giảm đáng kể trong 10 năm qua, nhưng tỷ lệ này vẫn còn cao ở
một số địa phương [21],[44]. Miền Nam và miền Trung bệnh xuất hiện quanh
năm và tần số mắc bệnh nhiều nhất từ tháng 6 đến tháng 10, lứa tuổi mắc
bệnh phần lớn là trẻ em.

8
Bảng 1.1. Tình hình mắc, chết do sốt xuất huyết Dengue giai đoạn
1996- 2008 ở khu vực phía Nam
Năm Số mắc Số mắc/ 100.000 dân Số chết C/M (%)
1996 55.974 288,0 178 0,3
1997 77.370 319,0 222 0,3
1998 123.997 455,7 347 0,3
1999 22.742 83,6 65 0,28
2000 18.740 69,89 49 0,26
2001 28.584 104,51 71 0,25
2002 21.908 76,6 43 0,196
2003 40.543 146,91 69 0,17
2004 66.183 207,44 103 0,155
2005 44.277 153,1 47 0,106
2006 65.706 201,1 62 0,094
2007 87.950 263,6 81 0,092
2008 82592 248 90 0,11
(Nguồn số liệu: Báo cáo tổng kết năm 2008 của Viện Pasteur TP. HCM
[48])
1.4. TÌNH HÌNH SỐT DENGUE/ SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE Ở TỈNH
LONG AN
Tỉnh Long An tiếp giáp với Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Tây Ninh
về phía Đông, Bắc giáp Campuchia, Tây giáp tỉnh Đồng Tháp và Nam giáp
tỉnh Tiền Giang. Dân số trung bình 1.434.506, mật độ dân số 317 người/ km
2
,
gồm 13 huyện và một thị xã với 190 xã phường - thị trấn. Long An nằm trong
vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, ẩm. Do tiếp giáp giữa 2 vùng Đông Nam bộ
và Tây Nam bộ nên vừa mang các đặc tính đặc trưng cho vùng đồng bằng
sông Cửu Long lại vừa mang những đặc tính riêng biệt của vùng miền Đông.

Sốt xuất huyết là một bệnh dịch lưu hành trên 14 huyện thị của tỉnh
Long An, nhưng tập trung chủ yếu là các huyện miền hạ của tỉnh như Cần
Đước, Cần Giuộc, Bến Lức, Châu Thành là những huyện có tập quán chứa
nước mưa để uống và sinh hoạt, giống như miền tây Nam bộ, trung bình từ
3,1 vật chứa/ nhà (An Giang) đến 6,3 vật chứa/ nhà (Trà Vinh), nhiều hộ có
trên 20 chiếc lu trữ nước ăn đặt ở chung quanh nhà [30],[41],[42].
9
Sở Y tế ra nhiều công văn tăng cường công tác phòng, chống dịch sốt
xuất huyết, ký kết hợp đồng trách nhiệm giữa Sở Y tế và UBND huyện, tổ
chức triển khai chiến dịch diệt lăng quăng cho toàn tỉnh. Xã hội hóa các hoạt
động phòng chống sốt xuất huyết.
Ngành Y tế Long An củng cố Ban chỉ đạo, tăng cường giám sát và đã
sử dụng phần mềm quản lý ca bệnh SD/SXHD, giám sát hoạt động côn trùng
và huyết thanh virus. Mở các lớp tập huấn về điều trị SXH cho tuyến huyện
nhằm nâng cao chất lượng điều trị khắc phục tối đa bệnh SXH tử vong.
Trung tâm Y tế Dự phòng tỉnh kết hợp với TTYT DP huyện - thị thực
hiện biện pháp giảm mắc. Tập huấn về tăng cường kỹ năng giám sát dịch tễ,
thống kê báo cáo, xây dựng đường cong dự báo dịch cho tuyến xã, nâng cao
năng lực thống kê, triển khai các lớp về điều tra xử lý ổ dịch nhỏ. Triển khai
mạng lưới cộng tác viên và được tập huấn về kỹ năng phát hiện, xử lý ổ lăng
quăng và kỹ năng tuyên truyền, tổ chức chiến dịch diệt lăng quăng 2 đợt cho 1
năm ở tất cả 14 huyện, thị [46]. Hàng năm ngành Y tế Long An đều có kế
hoạch hoạt động phòng chống sốt xuất huyết đưa ra các chỉ tiêu cụ thể về
giảm tỷ lệ mắc, giảm tỷ lệ chết khống chế không để dịch lớn xãy ra. Tập trung
chủ yếu vào việc làm thay đổi hành vi kiểm soát lăng quăng của các hộ gia
đình. Hợp tác với Tổ chức Y tế Thế giới sử dụng mô hình khoan giếng, xây
hồ đưa nước sạch cho nhân dân sử dụng ở xã Đông Thạnh huyện Cần Giuộc,
cộng tác với Viện Pasteur Thành Phố Hồ Chí Minh nghiên cứu mô hình nâng
cao năng lực phòng chống sốt xuất huyết chủ động dựa vào trường học ở
huyện Bến Lức. Tuy vậy, từ năm 2003 đến nay, năm nào cũng có ca tử vong

về sốt xuất huyết và 2 năm trở lại đây thì tỷ lệ mắc càng nhiều và chết vẫn
còn, thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1.2. Tình hình mắc, chết do sốt xuất huyết Dengue giai đoạn 2000-
2008 tại Long An
10
Năm
Nội dung
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Số mắc 1.204 652 775 1.233 2.670 1.803 3.432 5.702 3.794
Số chết 05 02 00 05 04 02 01 06 02
Độ III & IV 196 170 189 267 587 339 472 603 394
Sốt Dengue 456 385 596 1.042 363
(Nguồn số liệu: Báo cáo Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh Long An [42])
1.5. TÌNH HÌNH SỐT DENGUE/SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE Ở CẦN
GIUỘC
Cần Giuộc là một huyện vùng hạ của tỉnh Long An. Dân số khoảng
170.000 dân. Vị trí địa lý nằm sát cửa biển Soài Rạp nước luôn bị nhiễm mặn,
nên gây không ít khó khăn trong vấn đề sử dụng nước sạch. Người dân
thường sử dụng nguồn nước tự nhiên như nước mưa chứa trong lu, hồ khạp,
là những nơi chứa các véc tơ truyền bệnh sốt xuất huyết. Sông Cần Giuộc
chia cắt huyện ra thành 2 vùng, vùng thượng gồm 9 xã và 1 thị trấn, vùng hạ
gồm 7 xã. Dân vùng thượng sống nhờ trồng lúa, hoa màu nên sử dụng nhiều
là nước giếng, dân miền hạ ảnh hưởng của nước biển sống nhờ vào thủy sản
gần đây do tác động của môi trường ảnh hưởng làm cuộc sống người dân
ngày càng khó khăn hơn dẫn đến công tác tự bảo vệ sức khỏe ít được quan
tâm do vậy dịch bệnh có điều kiện xãy ra nhiều hơn nhất là sốt xuất huyết.
Bệnh sốt xuất huyết xãy ra quanh năm ở huyện Cần Giuộc và có tỷ lệ mắc và
vào choáng khá cao.
Bảng 1.3. Số liệu bệnh nhân sốt xuất huyết qua các năm ở huyện Cần Giuộc,
tỉnh Long An

Năm
Chỉ số
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Số mắc
1284 662 120 25 121 52 196 215 257 223 1182 408 644
Số chết
02 03 01 00 01 00 00 00 00 00 00 00 00
11
Sốc độ
III& IV
623 220 28 06 47 26 81 68 83 65 169 57 88
SD 49 34 295 56 113
(Nguồn số liệu: Báo cáo Trung tâm Y tế dự phòng Cần Giuộc-Long An [41])
Sốt xuất huyết là chương trình Y tế Quốc gia được Đảng, Nhà nước
quan tâm chỉ đạo, đầu tư nhân lực và vật lực. Ủy ban Nhân dân huyện chỉ đạo
các phòng ban chức năng và Ủy ban Nhân dân các xã, thị trấn tích cực hỗ trợ,
ngành Y tế tổ chức thực hiện tốt chiến dịch diệt muỗi, diệt lăng quăng để hạn
chế tối đa mắc bệnh sốt xuất huyết và tử vong. Ngành Y tế cùng ban ngành,
đoàn thể hàng năm tổ chức hội thảo xã hội hóa về phòng chống sốt xuất huyết
và đã áp dụng đủ các mô hình phòng chống sốt xuất huyết, xử lý các ổ dịch
theo qui định, mặc dù địa phương đang gặp rất nhiều khó khăn về nhân lực
trong giai đoạn chia tách nhân sự Trung tâm Y tế thành Trung tâm Y tế Dự
phòng huyện, Phòng Y tế, Bệnh viện Đa khoa huyện. Hàng năm, ngành Y tế
Cần Giuộc có đề ra chỉ tiêu 95% chủ hộ gia đình được củng cố kiến thức
phòng chống dịch, ký kết không có lăng quăng trong hộ gia đình. Triển khai
chiến dịch diệt lăng quăng 2 lần/năm, đảm bảo không để dịch bùng phát trong
năm. Trong khi đó, theo khuyến cáo của Bộ Y tế, tốt nhất thực hiện 05 chiến
dịch/ năm [4]. Công tác xử lý ổ dịch nhỏ được chú trọng bồi dưỡng đủ về
kiến thức, xử lý gần như không bỏ sót ổ dịch và tiến hành theo cách một chỉ
vận động diệt lăng quăng [47]. Bên cạnh còn nhiều điểm bất cập như thời

gian từ khi phát hiện đến khi xử lý không đúng qui định thường > 48 giờ [49],
không đánh giá côn trùng trước và sau xử lý, phun thuốc chống dịch về phòng
chống sốt xuất huyết chưa thật sự đi vào chất lượng do tiền thù lao cho cán bộ
giám sát thấp và trả tiền công phun cho cộng tác viên không đủ để bù vào sức
lao động, chi mỗi lần diệt lăng quăng, phun hóa chất 15.000đ/người/ngày x 5-
6 người [37],[46] nên sốt xuất huyết cứ tồn tại và không được khống chế hoàn
toàn.
12
1.6. BỆNH SỐT DENGUE/ SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE ẢNH HƯỞNG
ĐẾN KINH TẾ XÃ HỘI
Bệnh SD/SXHD là một bệnh truyền nhiễm có nguy cơ đe dọa đến sức
khỏe và sinh mạng của con người, bệnh thường gặp ở trẻ em lứa tuổi từ 2 - 15
tuổi ở khu vực phía Nam trong đó có huyện Cần Giuộc tỉnh Long An. Trẻ nhỏ
mắc bệnh đòi hỏi phải có sự chăm sóc của cha mẹ hoặc người lớn làm ảnh
hưởng không nhỏ đến thời gian và năng suất lao động của gia đình nhất là
huyện Cần Giuộc là huyện trọng điểm của tỉnh Long An đang hình thành các
khu, cụm công nghiệp làm chuyển đổi một số ngành để phù hợp trên đà phát
triển công nghiệp hóa. Do vậy, công tác chăm sóc trẻ em lâu ngày gây ảnh
hưởng rất nhiều đến công ăn việc làm và có thể bị mất việc. Chi phí trực tiếp
điều trị cho mỗi bệnh nhân trung bình là 2.458.880 đồng theo Hội nghị đánh
giá hai năm hoạt động dự án của Cục Y tế Dự phòng Việt Nam [9]. Mặt khác,
chi phí gián tiếp cho công tác huy động nhân dân làm tổng vệ sinh môi
trường, chi phí cho công tác xử lý ổ dịch nhỏ, chi phí cho các hội nghị, hội
thảo để tìm ra các giải pháp hoặc giảm lượng khách đến tham quan du lịch…
là rất lớn. Ở Thái Lan, chỉ trong vụ dịch SXHD 1980 đã chi 6,8 triệu USD
cho điều trị và diệt muỗi. Ở Đông Nam Á, hàng năm đã phải chi hàng triệu
USD cho việc diệt muỗi truyền SXHD, song hiệu quả thu được chẳng đáng là
bao [14]. Ưu tiên cho chương trình kiểm soát Dengue chứng tỏ không thành
công bởi vì chúng rất đắt tiền, sự tham gia của cộng đồng hoặc giáo dục sức
khỏe chỉ có trong trường hợp khẩn cấp [74]. Số lượng lớn bệnh nhi nhập viện

không những gây quá tải cho khoa nhi ở các bệnh viện lớn mà ngay cả ở
tuyến tỉnh và huyện đều gặp phải trong tình trạng đó. Nhà nước phải chịu rất
nhiều áp lực để giải quyết bài toán khó về kinh phí.
1.7. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ PHÒNG CHỐNG SỐT XUẤT HUYẾT
1.7.1. Các nghiên cứu về mức độ hiểu biết bệnh sốt xuất huyết Dengue
13
Bảng 1.4. Các nghiên cứu về mức độ hiểu biết bệnh sốt xuất huyết
Dengue [11],[15],[17],[22], [27], [31],[40].
Nội dung
Tác giả
Địa điểm và
thời gian
Có biết
về
bệnh
Biết
nguyên
nhân
Biết
triệu chứng
Nguyễn Thị Kim Tiến
Khu vực phía
Nam, 1998
91,1% 78,7%
Sốt: 71,3%
XH: 47,6%
Trung tâm TT GDSK
Long An
P.4, Thị xã Tân
An, 2002

95% 87%
Sốt: 57%
XH: 31%
Lý Lệ Lan
Q. 5, TP. Hồ Chí
Minh, 2004
93,1% 92,2% 54%
Trần Như Hải
H. Đắc Nông-
Tỉnh Đắc Nông,
2001
96,55% 92,58%
Sốt: 88,61%
XH: 52,43%
Nguyễn Thái Hòa
Hương Chữ-
Hương Trà - T.T
Huế, 2002
80,0%
Sốt: 85,5%
Nguyễn Đỗ Nguyên TP. HCM, 1997 49%
Trương Đình Định
Quảng Bình,
2005
68,5 –
98,5%
66,5 – 90,5%
1.7.2. Các nghiên cứu dùng biện pháp sinh học cá phòng chống véc tơ
Cá ăn lăng quăng là biện pháp được thế giới áp dụng từ lâu và phổ biến
ở nhiều nơi. Năm 1905 ở Hawai đã dùng cá Gambusia affinis để diệt lăng

quăng muỗi Culex quinquefasciatus rất có hiệu quả. Năm 1913 được áp dụng
tại Philippines, năm 1920 tại Tây Ban Nha, Ý, Bắc Phi và nhiều nước Châu
Âu. Loài cá Poecilia reticulata (còn gọi là cá 7 màu) cũng được sử dụng hiệu
quả ở Đài Loan, Thái Lan, Ý, Nga, đây là loài cá có rất nhiều ở các tỉnh phía
Nam Việt Nam [49],[50].
Ở Việt Nam
+ Năm 1996 sau 4 tuần lễ thả cá thử nghiệm ở ấp 4, xã Tân Thuận
Đông, huyện Nhà Bè, TP. Hồ Chí Minh cho kết quả chỉ số lăng quăng Ades
aegypti giảm đi 5 lần, chỉ số vật chứa có lăng quăng Ades aegypti giảm đi
45% [49].
14
+ Năm 1996, qua một thử nghiệm tại ấp 3 xã Hưng Long, huyện Bình
Chánh, TP. Hồ Chí Minh, dùng cá 7 màu diệt lăng quăng Ades aegypti cho
kết quả rất tốt. Sau 3 tuần lễ, các chỉ số lăng quăng giảm 100% và kéo dài
suốt 18 tuần lễ, các chỉ số muỗi trưởng thành cũng giảm dần. Kết quả khảo sát
muỗi và lăng quăng tại ấp 3, xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí
Minh trước và sau thả cá năm 1996.
Bảng 1.5. Kết quả khảo sát muỗi và lăng quăng tại ấp 3, xã Hưng
Long, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh [49].
Các
chỉ số
Trước
thả
Sau thả cá
Tuần1 2 3 4 6 8 10 12 14 16 18
Cs. Breteau 160 80 40 0 0 0 0 0 0 0 0 0
Cs. Vật chứa (+) 19,2 9,8 4,7 0 0 0 0 0 0 0 0 0
MĐ. Ae.aegypty 1,8 1,1 0,9 0,7 0,7 0,5 0,6 0,4 0,7 0,2 0,4 0,3
Ghi chú: Các chỉ số muỗi và lăng quăng tại ấp 1 (đối chứng) không
thay đổi đáng kể.

+ Năm 2006, Tại huyện Bến Lức, tỉnh Long An học sinh thực hiện diệt
lăng quăng xung quanh trường và tại nhà học sinh vào mỗi thứ bảy, chủ nhật
cuối tuần trong liên tiếp 8 tuần các chỉ số như HI, BI đều giảm [47].
+ Năm 2007, Tại TP Cần Thơ, Nguyễn Trung Nghĩa - Nguyễn Đỗ
Nguyên áp dụng biện pháp kiểm soát muỗi truyền bệnh sốt xuất huyết với sự
hợp tác của học sinh, kết quả các ca mắc giảm, chỉ số HI, BI đều giảm [26].
Sốt xuất huyết Dengue là mối quan tâm cho sức khỏe cộng đồng của cả
thế giới bởi vì sự phân bố virus địa lý, các véc tơ lây truyền, các vụ dịch gia
tăng, tính chu kỳ của nhiều chủng huyết thanh và các đợt bùng phát dịch ở
những vùng mới [50],[66]. Bảo vệ chăm sóc và nâng cao sức khỏe là bổn
phận của mỗi người dân, mỗi gia đình và cộng đồng, là trách nhiệm của các
cấp Ủy đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các tổ
15
chức xã hội trong đó ngành y tế giữ vai trò nòng cốt về chuyên môn và kỹ
thuật [38],[1]. Ngành y tế đã tích cực phối hợp với các cơ quan chính quyền
và đoàn thể nhân dân vận động, tuyên truyền giáo dục nhân dân xây dựng
phong trào vệ sinh phòng bệnh, tích cực triển khai phòng, chống dịch bệnh.
Nhiều bệnh dịch nguy hiểm đã được khống chế và đẩy lùi: dịch tả, dịch hạch,
sốt rét; các chương trình y tế quốc gia được thực hiện tốt. Phòng, chống dịch
chủ động, tích cực không để dịch lớn xãy ra . Dự phòng tích cực, chủ động là
nhiệm vụ trọng tâm để bảo đảm công bằng, hiệu quả trong sự nghiệp bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân [39],[38]. Các can thiệp giáo huấn
đã thành công trong việc nâng cao kiến thức dẫn đến sự nhận thức cao hơn về
tầm quan trọng của các biện pháp phòng ngừa chống lại các véc tơ và bệnh
[63]. Cũng như sự cần thiết phải duy trì giáo dục hàng ngày cho việc phòng
ngừa và kiểm soát Dengue, nhằm chắc chắn rằng những kiến thức sẽ được
chuyển thành hành động [67].
1.8. ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC SỐT DENGUE/ SỐT XUẤT HUYẾT
DENGUE
1.8.1. Véc tơ truyền bệnh

Bệnh không truyền trực tiếp từ người sang người, mà do muỗi đốt
người bệnh rồi truyền virus sang người lành qua vết đốt của muỗi bệnh. Muỗi
thuộc họ aedes (Aedes agypti, Aedes albopictus, Aedes polynesiensis) có vai
trò quan trọng trong lây truyền virus Dengue. Các loại vec tơ tuỳ thuộc vị trí
địa lý của nước có dịch. Aedes albopictus đựơc tìm thấy truyền bệnh ở Thái
Lan, đảo Samui, Ấn Độ, Singapore và Mexico. Tuy nhiên quan trọng nhất là
muỗi Aedes agypti
Aedes aegypti, sinh sản trong các vật chứa, loại muỗi đốt ban ngày
được tìm thấy ở các vùng nhiệt đới và á nhiệt đới. Chúng ẩn nấp trong nhà,
chủ yếu ở phòng khách và phòng ngủ. Đặc điểm này làm cho sự tiếp xúc tối
đa với người nhưng lại tối thiểu với các phương tiện diệt muỗi như sử dụng
16
hoá chất thường ở ngoài nhà, do vậy càng làm khó khăn cho sự khống chế vec
tơ này.
Aedes aegypti có thể sinh sản trong nước bẩn hay những vật dụng chứa
nước như bình hoa, gáo dừa. Trứng có thể tồn tại lâu dài, vì chúng có khả
năng chịu đựng tình trạng khô hay các điều kiện thay nước không đầy đủ, sự
đô thị hoá không kế hoạch, có thể dẫn đến mật độ muỗi cao ở những vùng
dịch. Có sự gia tăng đáng kể các ấu trùng muỗi trong mùa mưa. Điều này giải
thích các trận dịch Dengue có khuynh hướng trùng hợp với mùa mưa. Hơn
nữa, nhiệt độ môi trường ẩm ảnh hưởng sự sinh sản virus trong muỗi. Nhiệt
độ môi trường cũng ảnh hưởng thời gian virus cao trong máu ở muỗi cái, sẽ
ngắn hơn với nhiệt độ gia tăng.
Sau khi đốt người nhiễm virus, virus Dengue vào trong muỗi cái trưởng
thành. Đầu tiên virus nhân lên ở ruột non, đế ruột già và bạch huyết, và tích
trữ trong các tổ chức khác nhau của muỗi. Sau khi nhân lên trong tuyến nước
bọt, muỗi nhiễm virus có thể truyền virus qua người khác. Những nghiên cứu
siêu cấu trúc cho thấy các hạt virus hiện diện ở hệ thống thần kinh, tuyến
nước bọt, ruột, tế bào bì, buồng trứng và tế bào lót vách trong cơ thể muỗi.
Ngược lại, chúng vắng mặt ở cơ, ruột, và ống thận.

So sánh với các muỗi không nhiễm virus, các muỗi nhiễm virus cần
một thời gian dài hơn cho hoàn tất lần đốt máu. Điều này làm cho hiệu quả
của A. aegypti như một vec tơ truyền virus [10],[30],[35],[43].
Ở Việt Nam, hai loài muỗi truyền bệnh sốt Dengue là Aedes aegypti và
Aedes albopictus trong đó quan trọng nhất là Aedes aegypti [3].
Là loại muỗi chích vào ban ngày. Sau khi hút máu người bệnh, muỗi sẽ
mang virus và chích hút máu truyền cho người khác. Virus tiếp tục phát triển
trong ống tiêu hóa và tuyến nước bọt của muỗi. Muỗi bị nhiễm có thể sống
lâu đến 70 ngày ở môi trường thí nghiệm . Muỗi cái bị nhiễm có khả năng là
17
véc tơ truyền bệnh rất lớn. Muỗi thích hút máu người và vì thế chúng đủ
nhiều và tập trung xung quanh vùng dân cư và thích sinh sản trong vùng nước
sạch. Ấu trùng của Aedes aegypti phát triển rất tốt ở nhiệt độ từ 25
o
C - 32
o
C.
Mức độ phát triển của bệnh sốt xuất huyết Dengue gia tăng với số lượng muỗi
cũng như số lượng ấu trùng (lăng quăng) [23],[43],[54].
1.8.2. Hiện tượng tảng băng trong dịch tễ học bệnh sốt xuất huyết
Để chủ động trong công tác giám sát và phòng chống bệnh SD/SXHD,
đây là vấn đề quan trọng và mấu chốt trong dịch tễ học bệnh Dengue xuất
huyết. Chúng ta cần hiểu rõ rằng là có rất nhiều người lành mang trùng
Dengue trong cộng đồng khi đủ điều kiện như khí hậu, chăm sóc y tế không
được quan tâm thì sẽ bùng phát dịch. Cứ 1 ca choáng độ III nhập viện thì có
khoảng 200 - 500 ca nhiễm ở ngoài cộng đồng [44],[45].
(Nguồn: Viện Pasteur TP. Hồ Chí Minh (2005), Hội thảo tăng cường hiệu
quả phòng, chống sốt Dengue và sốt xuất huyết Dengue khu vực phía Nam).
Từ đó để áp dụng vào công việc lập kế hoạch giúp cho chúng ta tham
mưu các cấp để có phương hướng chỉ đạo kịp thời đồng thời đề ra các biện

pháp phòng, chống chủ động ngay trước khi dịch xãy ra và chắc chắn đó là
những biện pháp có hiệu quả cao nhất. Sự gia tăng SD/SXHD và tỷ lệ tử vong
trong thập kỷ cuối này cần thiết có sự giám sát chặt chẽ nhằm phát hiện ca
mắc bệnh và thực hiện các biện pháp khống chế thích hợp đối với véc tơ
truyền bệnh [70].
18
Sốt xuất huyết có choáng
Số nằm viện
Số đến khám
Số điều trị tại nhà và thể ẩn
1
250-500 ca
1.8.4. Nguyên nhân gây bệnh
Virus Dengue thuộc giống Flavivirus và thuộc họ Flaviviriadac, có kích
thước nhỏ (50
η
m). Virus Dengue do đặc điểm kháng nguyên và đặc điểm
sinh học có 4 typ huyết thanh được đặt tên: DEN-1; DEN-2; DEN-3; DEN-4
[2]. Nếu nhiễm 1 trong 4 typ này sẽ tạo được miễn dịch suốt đời đối với virus
týp huyết thanh đó và có miễn dịch chéo với các typ huyết thanh còn lại trong
vài tháng hoặc không có miễn dịch chéo với typ huyết thanh khác để bảo vệ
cơ thể. Cả 4 typ này đều có khả năng gây các vụ dịch sốt xuất huyết Dengue
do đó có những trường hợp nặng, tử vong.
1.8.5. Đặc điểm sinh học, sinh thái học
+ Trứng: Trứng muỗi được đẻ trên thành vật chứa, sát ngay phía trên
ngấn nước. Phôi của trứng hoàn thiện trong vòng 48 giờ trong điều kiện ấm
và ẩm. Khi phôi đã phát triển hoàn thiện thì trứng có thể chịu đựng được khô
hạn trong thời gian dài (khoảng 1 năm). Trứng muỗi nở ngay khi ngập nước
trở lại. Nhưng không phải tất cả các trứng đều nở cùng 1 lúc. Khả năng chịu
đựng của trứng giúp cho Aedes aegypti có thể tồn tại trong điều kiện khí hậu

khắc nghiệt.
+ Lăng quăng hay còn gọi là bọ gậy phát triển qua 4 giai đoạn, các
giai đoạn này phụ thuộc vào nhiệt độ, thức ăn và mật độ bọ gậy trong dụng cụ
chứa nước [34].
+ Vòng đời của muỗi vằn
• Giai đoạn trứng : 2 – 3 ngày.
• Giai đoạn lăng quăng : 6 – 8 ngày.
• Giai đoạn nhộng : 2 – 3 ngày.
• Giai đoạn trưởng thành : 2 – 3 ngày.
+ Muỗi: Nước ta có 2 loại muỗi Aedes gây bệnh chủ yếu là Aedes
aegypti và Aedes albopictus. Muỗi Aedes hút máu ban ngày và thường hút
19
máu nhiều nhất vào sáng sớm và chiều tối. Muỗi có mình khoang đen, khoang
trắng thường gọi là muỗi vằn. Muỗi vằn đậu ở nơi tối trong nhà, phòng tắm,
nhà bếp, trong phòng có chứa nhiều vật dụng chứa nước, áo quần treo, thường
sống ở các đô thị. Nước tích luỹ ở vật chứa (20-200L) được che chắn tối và
yên tĩnh rất thuận lợi cho muỗi đẻ trứng. Muỗi Ades sinh sản quanh năm, cao
nhất vào những tháng sau mùa mưa muỗi sinh sản nhiều và liên quan đến việc
tích trữ nước trong bể, chum, vại… Cho thấy sự quan trọng của môi trường
sinh ở nơi cư ngụ của người dân trong sự truyền virus. Do vậy, các biện pháp
nhằm loại bỏ nơi sinh sống của véc tơ muỗi không những trong nhà mà cả nơi
bên ngoài [34],[54],[64].
1.9. PHÒNG CHỐNG VÉC TƠ CHỦ ĐỘNG
- Xây dựng, tập huấn mạng lưới cộng tác viên y tế, giáo viên, học sinh
nhà trường về bệnh SD/SXHD, các hoạt động cụ thể loại trừ nơi sinh sản của
véc tơ.
- Điều tra xác định ổ lăng quăng nguồn tại địa phương và biện pháp
phòng chống thích hợp cho từng chủng loại ổ lăng quăng.
- Triển khai các hoạt động phòng chống cụ thể trên cộng đồng nhằm tác
động trực tiếp các ổ lăng quăng, làm chuyển biến, nâng cao nhận thức và huy

động vào sự tham gia tự nguyện của cộng đồng [35],[36].
1.9.1. Giảm nguồn sinh sản của véc tơ
Lăng quăng của muỗi Aedes có thể phát triển ở các dụng cụ chứa nước
trong nhà và xung quanh nhà, vì vậy quản lý chặt chẽ dụng cụ chứa nước để
làm giảm nguồn sinh sản là biện pháp tốt nhất trong phòng chống véc tơ.
- Quản lý dụng cụ chứa nước.
+ Dụng cụ chứa nước sinh hoạt (chum, vại, bể nước mưa, cây cảnh…):
dùng các biện pháp ngăn ngừa muỗi sinh đẻ (có nắp đậy thật kín, thả cá…)
20
+ Dụng cụ chứa nước không có ích lợi (lớp xe hỏng, vật dụng gia đình
bỏ không…): thu dọn và phá huỷ.
+ Các hốc chứa nước tự nhiên (hốc cây, kẽ lá, gốc tre nứa…): loại bỏ
lấp kín, chọc thủng hoặc làm biến đổi.
- Loại trừ ổ bọ gậy (lăng quăng)
+ Thu dọn rác, kể cả dụng cụ chứa nước tự nhiên hoặc nhân tạo (chai,
lu, vỏ đồ hộp, lớp xe hỏng, vỏ dừa…) cho vào túi rồi chuyển tới nơi thu gom
phế thải của địa phương hoặc hủy bỏ bằng chôn, đốt.
+ Úp ngược các dụng cụ gia đình như xô, chậu, bát, máng nước gia cầm.
+ Xử lý kẽ lá cây (chuối, dừa…): bằng chọc thủng, cho hoá chất diệt bọ
gậy (lăng quăng).
- Chống muỗi đẻ trứng trong các dụng cụ tích trữ nước (chum, vại, phuy, bể…)
+ Đậy thật kín bằng nắp hoặc bằng vải để không cho muỗi đẻ.
+ Thả cá và các tác nhân sinh học khác.
+ Chọc thủng hốc cây, bịt lấp đỉnh cọc rào, loại bỏ bọ gậy (lăng quăng),
dội nước sôi vào thành vại để diệt bọ gậy (lăng quăng) và trứng khi còn chứa
ít nước.
+ Đối với bẫy kiến, lọ hoa, chậu cây cảnh, khay nước tủ lạnh hoặc điều
hoà nhiệt độ. Dùng dầu hoặc cho muối vào, thay nước 1 lần/ tuần, cọ rửa
thành dụng cụ chứa nước để diệt trứng muỗi .
1.9.2. Chống muỗi đốt

Làm lưới chắn ở cửa ra vào, cửa sổ. Ngủ màn ban ngày, nhất là đối với
trẻ nhỏ.
1.9.3. Diệt muỗi bằng hương muỗi
Bình xịt thuốc cá nhân, hun khói bằng đốt vỏ cau, dừa hoặc lá cây.
Phòng chống chủ động dịch SXH tại tuyến cơ sở rút ra kết luận dùng bình xịt
để diệt muỗi có hiệu quả hơn sử dụng máy phun ULV [16],[25].
21
1.9.4. Tuyên truyền giáo dục cộng đồng
Giáo dục cộng đồng ở các tuyến
- Tuyến tỉnh, huyện: Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng bao
gồm: đài truyền hình, đài phát thanh, báo chí và các phương tiện thông tin
khác.
- Tuyến cộng đồng: Tổ chức các buổi nói chuyện của cán bộ y tế trong
các trường học, các buổi họp dân, khẩu hiệu, tờ tranh, các cuốn sách nhỏ,
thăm hỏi của các cộng tác viên y tế, truyền thanh, các buổi chiếu video…bằng
những thông tin đơn giản, dễ hiểu, minh họa rõ ràng. Động viên và khen
thưởng kịp thời cho các cá nhân, tập thể tham gia tích cực.
1.9.5. Huy động cộng đồng
- Đối với cá nhân: Kêu gọi từng thành viên gia đình thực hiện các biện
pháp thông thường phòng chống SD/SXHD bao gồm làm giảm nguồn lây
truyền, bảo vệ cá nhân thích hợp.
- Đối với cộng đồng: Tổ chức các chiến dịch “Loại trừ bọ gậy (lăng
quăng) muỗi truyền bệnh SD/SXHD” ít nhất 2 lần vào đầu và giữa mùa dịch
để loại trừ nơi sinh sản của véc tơ nơi công cộng và tư nhân. Quảng cáo rộng
rãi thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, áp phích, tranh tuyên
truyền, các cuốn sách nhỏ, mạng lưới cộng tác viên y tế, hoạt động của nhà
trường. Theo báo cáo các tỉnh, trước chiến dịch trung bình có khoảng 50-70%
hộ gia đình có lăng quăng, nhưng sau chiến dịch, tất cả các nơi đều giảm 2-3
lần, còn khoảng 20-30% hộ gia đình có lăng quăng.
- Huy động các bậc phụ huynh và học sinh trong trường học về các

biện pháp đơn giản loại trừ nơi sinh sản của véc tơ ở nhà cũng như ở trường
học. Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về SD/SXHD, các biện pháp phòng chống,
động viên khen thưởng kịp thời những cá nhân, tập thể có nhiều đóng góp tích
cực [43],[58],[68].
22
Bên cạnh giáo dục cộng đồng cũng cần phổ biến tuyên truyền luật
phòng chống bệnh truyền nhiễm như trong điều 8 của luật về những hành vi
bị nghiêm cấm: cố ý làm lây lan tác nhân gây bệnh truyền nhiễm; người mắc
bệnh truyền nhiễm; người bị nghi ngờ mắc bệnh truyền nhiễm và người mang
mầm bệnh truyền nhiễm làm công việc dễ lây truyền tác nhân gây bệnh truyền
nhiễm theo quy định của pháp luật; che dấu không khai báo hoặc khai báo
không kịp thời các trường hợp mắc bệnh truyền nhiễm theo quy định của
pháp luật; cố ý khai báo, thông tin sai sự thật về bệnh truyền nhiễm; phân biệt
đối xử và đưa hình ảnh, thông tin tiêu cực về người mắc bệnh truyền nhiễm;
không triển khai hoặc triển khai không kịp thời các biện pháp phòng chống
bệnh truyền nhiễm theo quy định của luật này; không chấp hành các biện
pháp phòng, chống bệnh truyền nhiễm theo yêu cầu của cơ quan tổ chức có
thẩm quyền [29].
23
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh từ lớp 4 đến lớp 7 ở 5 xã triển khai chương trình phòng,
chống sốt xuất huyết (Phước Lại, Vĩnh Đông, Đông Thạnh, Phước Lâm, Tân
Kim) thuộc huyện Cần Giuộc và 02 xã không triển khai chương trình phòng,
chống sốt xuất huyết (Thuận Thành và Long Hậu) thuộc huyện Cần Giuộc.
Tất cả học sinh từ lớp 4 đến lớp 7 do đặc điểm của nhóm tuổi này (9 -15 tuổi)
thích chơi cá, bắt lăng quăng 7 xã được chọn trong nghiên cứu là do có
trường tiểu học và trung học cơ sở.

- Phụ huynh của các học sinh tham gia vào nghiên cứu trên.
- Dụng cụ chứa nước tại nhà các học sinh tham gia vào nghiên cứu trên.
Các đối tượng học sinh tham gia phỏng vấn từ 5/9/2008 - 31/10/2008.
Phỏng vấn người nhà từ 10/2008 - 3/2009. Thu thập cùng lúc với thu thập
điều tra côn trùng.
2.1.2. Tiêu chuẩn chọn mẫu
- Học sinh từ lớp 4 đến lớp 7 đang theo học tại các trường tiểu học và
trung học cơ sở tại các xã có triển khai chương trình PCSXH và 2 xã không
triển khai chương trình PCSXH được chọn ngẫu nhiên và đồng ý phỏng vấn.
- Các hộ gia đình có con tham gia vào nghiên cứu trên và đồng ý phỏng
vấn.
24
2.1.3. Cỡ mẫu nghiên cứu
2.1.3.1. Cỡ mẫu của học sinh nhằm khảo sát kiến thức, thái độ, thực hành
được tính theo công thức sau:
2
2
)
2
1(
e
p.qZ
n
×
=
α


Trong đó:
- n: là cỡ mẫu số tối thiểu cần điều tra.

-
2
)
2
1(
α

Z
: là trị số tới hạn ở độ tin cậy 95% (
2
)
2
1(
α

Z
= 1,96)
- p là tỷ lệ học sinh có kiến thức, thực hành đúng trong phòng, chống
sốt xuất huyết và muốn đạt cỡ mẫu lớn nhất, chọn p = 0,50
- e : độ chính xác mong muốn 0,05.
Vậy cỡ mẫu
384
)05,0(
)5,01(5,0)96,1(
2
2
=
−×
=
n

[20],[24]
Trong đề tài này chúng tôi chọn được 800 học sinh đối với nhóm triển
khai chương trình phòng, chống sốt xuất huyết.
Đối với xã không triển khai chương trình phòng, chống sốt xuất huyết
(nhóm chứng), chúng tôi cũng chọn học sinh từ lớp 4 đến lớp 7 và cỡ mẫu là
384 học sinh.
2.1.3.2. Cỡ mẫu để khảo sát chỉ số muỗi và bọ gậy được tính theo hướng dẫn
thường qui của Bộ Y tế:
- Đối với lăng quăng: khảo sát 100 nhà trên thực tế cho phép khảo sát
50 nhà.
- Đối với muỗi: khảo sát 30 nhà.
2.1.3.3. Cỡ mẫu khảo sát kiến thức, thái độ, thực hành của phụ huynh học
sinh khảo sát theo chỉ số nhà điều tra lăng quăng (50 nhà cho mỗi xã).
25

×