Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

HỒI SỨC TIM-PHỔI (CARDIOPULMONARY RESUSCITATION) - PHẦN 1 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.82 KB, 10 trang )

HỒI SỨC TIM-PHỔI
(CARDIOPULMONARY RESUSCITATION)
PHẦN 1

KỸ THUẬT HỒI SỨC CAO CẤP (TECHNIQUES AVANCEES DE
REANIMATION)
Ta lấy lại các mẫu tự đầu và thêm vào hai mẫu tự sau đây :
A = Airway (đường khí) ;
B = Breathing (hô hấp) ;
C = Circulation (tuần hoàn) ;
D = Défibrillation (khử rung) ;
E = Epinéphrine (adrénaline)
I/ CÁC DỤNG CỤ ĐỂ OXYGENATION VÀ THÔNG KHÍ
1/ OXY
Liệu pháp oxy phải được thực hiện càng nhanh càng tốt và với luu lượng cao
để làm gia tăng vận chuyển oxy đến các mô và, đặc biệt là đến cơ tim và não
bộ (nơi bệnh nhân suy hô hấp mãn tính nghiêm trọng, chỉ khi tình trạng
huyết động ổn định mới lo ngại về nguy cơ carbonarcose !)
2/ CANUN GUEDEL
Bằng cách ngăn cản sự trụt lưỡi về phía sau họng, canun Guedel có thể làm
dễ sự đi qua các đường hô hấp trên của không khí. Người ta sử dụng canun
Guedel chủ yếu nơi bệnh nhân hôn mê có thông khí tự nhiên.
Sự hiện diện của các cỡ canun khác nhau làm cho việc sử dụng nơi trẻ sơ
sinh có thể thuc hiện được. Kích thước của canun có thể được ước tính bằng
khoảng cách giữa khóe môi và thùy tai. Canun được đưa vào trong miệng
với mặt cong được hướng lên trên. Khi mỏ của canun tiếp xúc với phần sau
của vòm miệng, hãy thực hiện một vòng quay 180 độ để ấn canun vào hoàn
toàn.
3/ MẶT NẠ VÀ QUẢ BÓNG (MASQUE ET BALLON)
Mặt nạ mặt (masque facial) phải chắc chắn, nếu có thể trong suốt và, nhất là
đảm bảo áp sát vào mặt. Một quả bóng (ballon) được thích ứng vào ngay khi


có thể và được nối với một nguồn oxy. Quả bóng phải được trang bị bởi một
réservoir à oxygène, phải được thổi phồng một phần trong suốt trong thời
gian hồi sức.
4/ MẶT NẠ THANH QUẢN (MASQUE LARYNGE)
Mặt nạ thanh quản được cấu tạo bởi một ống (tube), nối với một miếng mềm
(pièce molle) lớn. Mặt nạ thanh quản được đặt, mà không nhìn thấy, vào
trong hạ hầu, cho đến khi người ta cảm thấy một sức cản. Sự thổi phồng quả
bóng làm tắc thanh quản. Hệ thống này làm giảm những nguy cơ căng dạ
dày và hít dịch dạ dày.
5/ COMBITUBE
Ống này được đưa vào một cách mù quáng và gồm có hai loại lỗ (orifice) :
một lỗ xa (orifice distal) lớn, được trang bị bởi một quả bóng nhỏ
(ballonnet), có chức năng như một ống nội khí quản (tube endotrachéal), khi
Combitude được đưa vào khí quản. Trái lại, nếu đầu xa được đưa vào trong
thực quản (tình huống thường xảy ra hơn), quả bóng nhỏ này sẽ được dùng
để cố định ống nội khí quản, mà một đầu gần (orifice proximal), đối diện với
khí quản, được trang bị bởi các lỗ cho phép sự thông khí. Do đó tùy theo vị
trí của nó, ta thông khí hoặc qua một ống này, hoặc bằng ống kia.
6/ NỘI THÔNG KHÍ QUẢN VÀ MỞ KHÍ QUẢN
Trừ những trường hợp hiếm hoi phải khai thông đường hô hấp trên, nội
thông khí quản không phải là một cấp cứu tuyệt đối bởi vì sự thông khí nhân
tạo có thể được thực hiện một cách thích đáng bằng miệng-miệng (bouche-à-
bouche) hay bằng một quả bóng và một mặt nạ.
Vả lại, nội thông khí quản không được thực hiện nếu bệnh nhân đã không
được thông khí hay cho oxy trước bằng quả bóng. Nội thông khí quản trước
hết nhằm để tránh sự căng trướng bụng do thổi khí vào trong dạ dày cũng
như để phòng ngừa sự hít phải chất dịch dạ dày. Vấn đề chủ yếu là sự gián
đoạn tạm thời của hồi sức tim-hô hấp trong lúc nội thông khí quản. Chính vì
thế, nếu bệnh nhân không được nội thông khí quản sau 30 giây, thì phải
ngưng mọi toan tính và tạm thời tiếp tục trở lại sự thông khí nhân tạo bằng

mặt nạ.
Mở khí quản (trachéotomie) có thể cần thiết trong trường hợp chấn thương
mặt trầm trọng hay trong trường hợp tắc các đường hô hấp trên.
Vị trí thích đáng của ống nội thông khí quản phải được xác nhận bằng thính
chẩn phổi và có thể được đảm bảo bằng cách đo PC02 vào cuối thời kỳ thở
vào (capnométrie).
7/ THÔNG KHÍ CƠ HỌC
Nếu số các thầy thuốc hồi sức (réanimateur) đầy đủ (điều này thường là
trường hợp bên cạnh một máy hô hấp ), thì có vẻ tốt hơn là đừng sử dụng
các máy thở trong khi làm hồi sức tim-hô hấp để tránh những vấn đề giao
thoa giữa xoa bóp tim và thông khí nhân tạo.
II/ DỤNG CỤ XOA BÓP TIM (MATERIEL DE MASSAGE
CARDIAQUE)
1/ ÉP/GIẢM ÉP TÍCH CỰC (COMPRESSION/DECOMPRESSION
ACTIVE)
Ta có thể nhờ đến một hệ thống hút (tương tự với các ventouse được sử
dụng để tháo cống!) cho phép đè ép (compression) và giảm đè ép
(décompression) lồng ngực. Kỹ thuật này có thể làm gia tăng tỷ lệ sinh tồn,
chừng nào mà những người sử dụng quen với kỹ thuật này. Việc sử dụng hệ
thống này rất là mệt vì vậy các người thao tác thường phải thay thế nhau.
2/ NHỮNG MÁY LÀM DỄ XOA BÓP TIM
Có nhiều hệ thống khác nhau để thay thế sự can thiệp của con người trong
xoa bóp tim : máy xoa bóp tim tự động đảm bảo sự xoa bóp tối ưu (như hệ
thống Lucas) : những hệ thống này đặc biệt hữu ích nếu phải vận chuyển
bệnh nhân trong khi CPR. Sự hạn chế của các hệ thống này là thời gian
(ngay cả ngắn) cần thiết để thiết đặt chúng và phí tổn.
3/ “ VEST-CPR”
Một hệ thống áo vét có thể bơm phồng (veste gonflable), được đặt quanh
ngực, cho phép gia tăng theo chu kỳ các áp suất trong lồng ngực, cũng có
hiệu quả như xoa bóp, mặc dầu không có sự đè ép trước ngực thật sự.

4/ XOA BÓP TIM MỞ LỒNG NGỰC
Xoa bóp tim trong (massage cardiaque interne) có thể hiệu quả hơn xoa bóp
tim ngực đóng (à thorax fermé), nhưng xâm nhập hơn nhiều !
Những chỉ định là hiếm :
- ngực mở (thorax ouvert) hay tức thời có thể tiếp cận được (ngoại khoa
ngực hay bụng) ;
- chấn thương xuyên ngực (trauma thoracique pénétrant) ;
- nguyên nhân trong ngực : chèn ép tim (tamponade), vỡ động mạch chủ,
nghẽn mạch phổi ;
- xoa bóp trước ngực tức thời không có hiệu quả (biến dạng thành ngực,
sternotomie mới đây).
Tuy nhiên xoa bóp tim ngục mở (massage cardiaque à thorax ouvert) không
được xem như biện pháp cuối cùng trong trường hợp thất bại CPR.
III/ DỤNG CỤ MONITORING VÀ KHỬ RUNG
Máy khử rung (défibrillateur) là máy chủ yếu để tái lập một hoạt động điện
có tổ chức (une activité électrique organisée) trong trường hợp rung thất.
Việc cho một sốc điện (choc électrique) có thể tức thời trong trường hợp can
thiệp rất sớm, nhưng trong trường hợp phải có thời hạn (nếu như ta không
biết chính xác khi nào tim đã ngừng đập), thì tốt nhất là trước hết thực hiện
một hồi sinh tim-hô hấp cơ bản trong 2 phút.
Các palette được bôi trơn bởi một chất dẫn (matériel conducteur) (gel), làm
dễ sự đi qua của dòng điện. Phải tránh sự hiện diện của chất ướt hay cho quá
nhiều gel, có thể làm dễ sự đi qua của dòng điện theo một hướng khác. Các
“patch”de nitroglycérine percutanée cũng được khuyên nên lấy đi. Cũng
phải tránh mọi sự tiếp xúc cá nhân với bệnh nhân.
Phải đặc biệt chú ý hai yếu tố góp phần vào sự thành công của sự khử rung :
- Vị trí tốt của các palettes. Các palettes phải được đặt làm sao để được tiếp
xúc chặt với thành ngực và nắm phần lớn nhất của tim trong điện trường :
- một palette nằm hơi bên phải của phần trên xương ức, phía dưới xương đòn
phải.

- một palette trên đường nách đối diện với đỉnh tim (đồng thời tránh vú nơi
phụ nữ) ;
- Áp chặt các palettes : tiếp xúc tốt giữa palette và da qua chất dẫn (gel
conducteur).
Một sức ép khoảng 5kg phải được đặt trên mỗi palette khi phát sốc điện.
Ngày nay với những máy khử rung hai pha (défibrillateur biphasique) ta chỉ
còn cho một sốc điện mỗi lần. Những máy này có những năng lượng thay
đối tùy theo loại ; ta áp dụng năng lượng tối đa của máy.
Những máy khử rung bán tự động (défibrillateur semi-automatique) chính
chúng nhận biết rung thất và do đó chỉ định của sốc điện. Những năng lượng
được sử dụng bởi các máy khử rung đơn pha (défibrillateur monophasique),
xưa cổ hơn, là 200 J đến 400 J. Trong trường hợp nghi ngờ về sự hiện hữu
của một rung thất trên monitoring tim, cần phải thực hiện một sốc điện. Thật
vậy, thương tổn gây nên bởi một sốc điện vô ích lên một trái tim vô tâm thu
hay phân ly điện cơ là một nguy cơ thấp so với sự đánh mất những giây phút
quý báu nếu một sốc điện bị trì hoãn trong trường hợp rung thất.
IV/ ĐIỀU TRỊ THUỐC
A. ĐƯỜNG CHO THUỐC
Người ta phân biệt :
- Đường tĩnh mạch : đó là đường được ưa thích. Trước hết phải thiết đặt một
đường tiêm truyền tĩnh mạch. Việc chọc một tĩnh mạch ngoại biên là hoàn
toàn có thể chấp nhận được chỉ có điều là phải rửa súc mạnh các ống truyền
sau khi tiêm (20mL) để gia tốc đường vào trung ương.
- Đường trong xương : có thể được xét đến nơi trẻ em ;
- Đường nội khí quản : nếu bệnh nhận được nội thông khí quản trước khi
thiết đặt một tiêm truyền tĩnh mạch, ta có thể cho adrénaline, atropine hay
lidocaine (Xylocaine) bằng đường nội khí quản. Tuy nhiên sự hấp thụ bấp
bênh, vì thế cần những lượng 3 lần cao hơn lượng dùng bằng đường tĩnh
mạch. Phải hòa loãng thuốc trong 5-10 mL dung dịch muối và tiêm càng sâu
càng tốt vào trong ống nội khí quản.

- Đường trong tim (voie intracardiaque) : đã bị bỏ không dùng nữa. Đường
này chỉ có thể được thực hiện trong trường hợp không thể sử dụng những
đường khác. Tỷ lệ các biến chứng là quá cao: chấn thương nơi màng ngoài
tim, các phế mạc và những động mạch vành
- Đường trong động mạch chủ (quai động mạch chủ) : đang được thăm dò.
B. LOẠI DỊCH TIÊM TRUYỀN
Mọi tình trạng tăng glucose-huyết có thể làm gia tăng các thương tổn não bộ
sau khi bị thiếu oxy mô (lésions cérébrales postanoxiques), vì thế nói chung
người ta tránh tiêm truyền dung dịch glucose và ưa thích dung dịch muối
(sinh lý) hơn. Tiêm truyền dung dịch NaHC03 phải được cấm chỉ (nguy cơ
làm gia tăng PC02, bất hoạt adrénaline, tăng nồng độ osmol).
Lưu lượng tiêm truyền có thể phụ thuộc vào tình hình lâm sàng trước đó,
nhưng không đặc biệt bị giới hạn, ngay cả nơi một bệnh nhân phù phổi boi
vì các tiêm truyền tĩnh mạch có thể làm dễ sự tái lập một lưu lượng tim nào
đó dp sự gia tăng tiền gánh (précharge).

×