Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Nhà hàng hải Christopher Columbus pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.04 KB, 16 trang )

Nhà hàng hải Christopher Columbus

Trong các công cuộc thám hiểm bằng đường biển, chuyến đi quan trọng nhất
và nổi tiếng nhất là của Christopher Columbus, thực hiện vào năm 1492.
Quan trọng và nổi tiếng không phải vì sự táo bạo và thời gian vượt biển lâu
dài, mà là vì sự tìm thấy châu Mỹ.
Vào thời văn minh Cổ Hy Lạp, nhà triết học lừng danh là Plato đã đề cập tới
một nền văn minh bị biến mất trên một hòn đảo chìm sâu xuống biển có tên
gọi là Atlantis. Qua thế kỷ thứ 8, các tu sĩ người Ái Nhĩ Lan đã dùng một
loại thuyền có bọc da, tên gọi là "curragh" để tìm ra hải đảo Iceland rồi tới
thế kỷ sau, các người Na Uy đã định cư trên hải đảo này. Sau năm 980,
những người đi biển Na Uy này lại tìm ra đảo Greenland. Ðây là một hòn
đảo cung cấp cho các người định cư mới một vùng đất mở rộng với nhiều
loài chim lạ, rồi họ tới các các hải đảo khác như đảo Baffin vào khoảng năm
1,000 và sau đó, tới miền Newfoundland.
Như vậy tại phần phía bắc của Ðại Tây Dương, các người Bắc Âu đã dùng
thuyền, đi khá xa nhưng họ đã không ghi lại các khám phá hàng hải của họ.
Còn tại phần Ðại Tây Dương ở phía tây của châu Âu, cho tới thế kỷ 15 chỉ
có một ít báo cáo về vài hòn đảo nằm ngoài khơi. Ðã có một bản đồ thời đó
vẽ một hòn đảo lớn theo truyền thuyết, tên gọi là "Antilla", nằm ở phía tây
của xứ Bồ Ðào Nha và trên cũng vĩ độ với hải cảng Lisbon. Người châu Âu
thực sự tìm ra hai nhóm đảo Madeiras và Azores vào giữa thế kỷ 14, còn
nhóm đảo Canaries được biết tới vào năm 1402.
Cho tới cuối thế kỷ 15, các học giả về môn địa dư đều cho rằng nếu bằng
một con tầu biển đi về hướng tây, người ta có thể tới được các xứ Trung Hoa
và Nhật Bản. Người thời đó chưa biết rằng sau Ðại Tây Dương còn có lục
địa châu Mỹ và một đại dương bao la là Thái Bình Dương.
Sáng sớm ngày 12 tháng 10 năm 1492, nhà hàng hải Christopher Columbus
đã bước lên bờ một hòn đảo thuộc châu Mỹ, một miền đất chưa ai được biết
đến. Ðây là một sự kiện lịch sử, đã mở đầu cho việc tìm hiểu Tân Thế Giới
và dẫn tới việc phổ biến nền văn minh tây phương trên lục địa này.


Christopher Columbus đã tới được Tân Thế Giới do sự tình cờ. Chủ đích của
ông là đi tìm một con đường biển để tới châu Á và khi nhìn thấy miền đất
này, ông Columbus đã tin tưởng cho tới ngày qua đời rằng ông đã đạt được
mục tiêu. Dù cho có sự nhần lẫn đó, người đời sau vẫn xếp ông Columbus là
một trong các nhà hàng hải lớn lao nhất.
Cha của Christopher Columbus tên là Domenico Colombo, là một người thợ
dệt len, có cơ sở thương mại tại thành phố cảng Genoa, nước Ý. Christopher
tên thật là Cristoforo, ra đời vào cuối mùa hè hay đầu mùa thu năm 1451.
Lúc thiếu thời, Christopher cùng với em trai tên là Bartholomew giúp cha
trong việc chải len. Khi lớn lên, Christopher là một chàng thanh niên cao
lớn, tóc đỏ, tính tình trầm lặng và rất sùng đạo. Giống như các thanh niên
khác của xứ Genoa, Christopher đã theo các đoàn tầu thuyền đi đánh cá mòi
và có lẽ đi tới tận đảo Corsica. Christopher cũng có dịp tới các bờ biển Bắc
Phi và trong các chuyến hải hành này, chàng đã học hỏi được kỹ thuật đi
biển.
Vào năm 1476, Christopher Columbus đã theo tầu buôn xứ Genoa tới hải
cảng Lisbon thuộc xứ Bồ Ðào Nha rồi tới cả nước Anh và miền Flanders.
Vào thời kỳ này, các quốc gia thuộc miền Ðịa Trung Hải đang gây chiến với
nhau, vì vậy các tầu buôn đều phải có hộ tống. Con tầu chở Christopher khi
tới phần biển phía nam của Bồ Ðào Nha thì bị tầu lạ tấn công và bị chìm.
Christopher bơi được vào bờ và tìm đường tới Lisbon.
Vào cuối thế kỷ 15, Bồ Ðào Nha là quốc gia đứng đầu về viễn du hàng hải.
Trong một nửa thế kỷ và dưới sự bảo trợ của Hoàng Tử Henry, các thủy thủ
Bồ đã thực hiện được các cuộc hải hành quan trọng tới các miền bờ biển Bắc
Phi và đã mang về nhiều tài sản giá trị. Nhiều thương nhân gốc Genoa đã
làm ăn phát đạt tại Lisbon và vì vậy, Christopher Columbus đã nhìn thấy cơ
hội có thể trở nên một thuyền trưởng của các con tầu biển Bồ Ðào Nha.
Việc đầu tiên Christopher Columbus phải làm là học nói, đọc và viết các
tiếng La Tinh, tiếng Bồ và tiếng Castilian là ngôn ngữ chính của Tây Ban
Nha, để có thể tự mình hiểu rõ các sách nói về địa dư. Christopher cũng mưu

sinh trong một thời gian bằng nghề vẽ bản đồ. Năm 1479, Christopher kết
hôn với cô Dona Felipa Perestrello, có cha là một trong các thuyền trưởng
của Hoàng Tử Henry. Họ đã có một con trai tên là Diego. Nhờ giai cấp gia
đình cao sang của vợ, Christopher có thể giao du với các nhân vật quan
trọng và cũng nhờ vợ, ông đã có được bộ sưu tập các bản đồ của người cha
vợ thuyền trưởng và sau đó, tìm hiểu thêm các khám phá và kế hoạch của
nước Bồ Ðào Nha. Vào năm 1481, Christopher Columbus phục vụ dưới
quyền của Vua John II của Bồ Ðào Nha và đã đi tới Elmina, một hải cảng
thương mại của nước Bồ trên miền Bờ Biển Vàng (Gold Coast) của châu
Phi.
Christopher Columbus là người tự học, biết nhìn xa trông rộng lại có nhiều
kinh nghiệm hàng hải nhờ các chuyến viễn du. Giống như nhiều nhà trí thức
đương thời, Christopher biết rằng trái đất tròn. Do tin tưởng rằng bằng
đường biển đi về hướng tây, ông có thể tới được châu Á là một miền đất
giàu có. Hơn 200 năm về trước, Marco Polo đã mô tả nước Trung Hoa khiến
cho các người châu Âu rất thèm muốn tới được châu Á. Hàng hóa của châu
Á nếu vận chuyển bằng đường bộ, sẽ gặp nhiều trắc trở và bị hư hỏng, khiến
cho giá thành tăng cao. Như vậy, các con tầu biển có thể chuyên chở nhiều
hàng hóa hơn, sẽ khiến cho giá phẩm vật rẻ hơn. Tới lúc này, các thủy thủ
Bồ Ðào Nha đã tìm thấy con đường vòng qua phía nam của châu Phi để đi
tới Ấn Ðộ. Christopher tin rằng châu Á nằm ở phía tây của châu Âu nhưng
vấn đề đặt ra là khoảng cách giữa hai châu này là bao nhiêu.
Christopher Columbus đã nghiên cứu các chi tiết về khoảng cách đề cập
trong Thánh Kinh, trong cuốn sách du lịch của Marco Polo và trong cuốn
"Imago Mundi" (Hình ảnh của Thế Giới) của Hồng Y Pierra d' Ailly xuất
bản vào đầu thế kỷ 15, cũng như căn cứ vào các lập luận của một nhà địa dư
người Ý kiêm bác sĩ, có tên là Paolo Toscanelli, để đi tới phần kết luận quá
lạc quan là nước Trung Hoa chỉ cách châu Âu 3,500 dậm về hướng tây trong
khi khoảng cách thực sự là 11,766 dậm.
Sau nhiều năm nghiên cứu với các dẫn chứng từ các học giả và từ các người

đi biển danh tiếng, Christopher Columbus đã đệ trình kế hoạch thám hiểm
của mình lên Vua John II của nước Bồ Ðào Nha vào năm 1484. Một ủy ban
của nhà vua đã cứu xét dự án rồi bác bỏ vì lý do khó tin. Trong khi đó, người
vợ qua đời, Christopher bèn mang con qua nước Tây Ban Nha, tìm kiếm
người tài trợ kế hoạch. Ông gửi con cho các sư huynh tại tu viện La Rabida.
Tại nước Tây Ban Nha, Christopher Columbus nhờ một số bạn bè có thế lực
đệ trình kế hoạch thám hiểm lên Vua Ferdinand và Nữ Hoàng Isabella. Mặc
dù đang bận tâm về cuộc chiến tranh với người Moors tại Granada, hai vị
vua này cũng giao kế hoạch cho một ủy ban cứu xét và trong khi chờ đợi,
ông Columbus đã cưới bà Beatriz Enriquez de Harana. Họ có một người con
tên là Fernando.
Do cứu xét lại kế hoạch của Columbus, Vua John mời nhà thám hiểm trở lại
Bồ Ðào Nha nhưng đúng vào lúc này, Bartholomew Dias đã trở về sau khi
tìm thấy Mũi Hảo Vọng. Như vậy con đường biển đi tới Ấn Ðộ đã được mở
ra và người Bồ Ðào Nha không còn quan tâm tới con đường hướng về phía
tây nữa. Trước tin tức này, Columbus đành ở lại Tây Ban Nha.
Tháng 1 năm 1492, quân đội Tây Ban Nha đã chiến thắng tại Granada nên
Vua Ferdinand và Nữ Hoàng Isabella đồng ý tài trợ chuyến đi của
Columbus. Yếu tố quan trọng thứ nhất trong quyết định này là do vị quan
Luis de Santagel, người thủ quỹ Cơ Mật Viện của Nữ Hoàng, đã hứa với nhà
vua rằng ông ta sẵn sàng dùng tài sản tư để tài trợ dự án. Yếu tố thứ hai là vì
Tây Ban Nha không được chính thức chấp nhận dùng con đường biển qua
Tây Phi Châu, khi đó đã do nước Bồ Ðào Nha kiểm soát. Ngoài sự đồng ý
tài trợ, hai nhà vua Tây Ban Nha này cũng hứa sẽ ban cho Christopher
Columbus tước hiệu Ðô Ðốc của Ðại Dương (Admiral of the Ocean Sea) và
Phó Vương của tất cả các hải đảo và lục địa nếu tìm thấy được.
Thành phố hải cảng Palos ở phía tây nam của Tây Ban Nha được lệnh cung
cấp hai tầu biển dành cho công cuộc thám hiểm, đó là chiếc Nina và chiếc
Pinta, đều dài khoảng 70 feet (24 mét). Chiếc tầu chỉ huy với tên hiệu Santa
Maria tuy lớn hơn nhưng kém hơn về trang bị buồm, được chính Christopher

Columbus điều khiển. Thuyền trưởng và các thủy thủ của hai con tầu kia
được tuyển mộ tại hải cảng Palos. Công việc chuẩn bị kéo dài mười tuần lễ.
Chuyến đi đầu tiên của Christopher Columbus.
Mờ sáng ngày 3 tháng 8 năm 1492, đoàn thủy thủ tham dự buổi lễ cầu
nguyện rồi Columbus bước lên tầu Santa Maria. Cả ba con tầu kéo neo,
dương buồm rời hải cảng Palos trước khi mặt trời mọc. Sau 3 ngày ra đi, con
tầu Pinta bị mất bộ phận lái, còn cánh buồm tam giác của con tầu Nina cho
thấy không thích hợp với công cuộc đi biển. Columbus ra lệnh cho đoàn tầu
dừng lại tại quần đảo Canaries để sửa chữa tầu và lấy lương thực mới. Ngày
9 tháng 9, ba con tầu lại ra khơi, gặp gió mậu dịch thổi từ hướng đông bắc
rất thuận tiện cho việc đi về hướng tây. Vì thế trong một ngày, đoàn tầu
thám hiểm đã vượt qua được 182 dậm, tốc độ trung bình là 8 hải lý (knots),
một độ nhanh hàng hải rất đáng kể đối với thời bấy giờ.
Trong khi đoàn tầu tiếp tục di chuyển, Christopher Columbus đã ghi lại cuộc
hành trình bằng hai cuốn sổ ghi, một cuốn dành riêng cho mình còn cuốn kia
cố ý ước lượng khoảng cách ngắn đi để công bố cho các thủy thủ, vì bằng
cách này, Columbus hy vọng sẽ tránh cho các thủy thủ không bị sợ hãi vì đã
đi quá xa. Tuy thế, thời gian ở trên tầu quá lâu đã làm cho các thủy thủ lo
ngại, họ e sợ hướng gió sẽ không đổi chiều để đưa họ trở về bến cũ, rồi thời
tiết tốt đẹp, không mưa cũng khiến cho họ e sợ rằng sẽ không có nước uống.
Tới ngày 10 tháng 10, tinh thần của thủy thủ bị suy sụp. Sau 30 ngày lênh
đênh trên biển cả bao la, các thủy thủ trên con tầu Maria sắp nổi loạn, đã đòi
hỏi Christopher Columbus phải quay trở về và vì vậy, Columbus đã hứa với
họ rằng sẽ làm việc này nếu trong hai hay ba ngày nữa không nhìn thấy đất
liền.
Vào ngày 11 tháng 10, tầu Pinta vớt được một mẩu tre, một cây sào, một
miếng ván và một cây gậy có lẽ được chặt bằng dao sắc. Tới 2 giờ sáng ngày
12 tháng 10, thủy thủ Rodrigo de Triana trên con tầu Pinta đã la lên: "Ðất
liền! Ðất liền!". Columbus bèn ra lệnh cho con tầu Santa Maria tiến tới gần,
xác nhận quả là đất liền và cả đoàn tầu chờ đợi ở ngoài khơi cho đến sáng.

Sau đó, Christopher Columbus và các thủy thủ đã bước lên bờ và họ là
những người châu Âu đầu tiên đặt chân lên quần đảo Caribbean và hòn đảo
này là đảo Walting, thuộc Bahama của San Salvador. Columbus cùng các
thủy thủ đã quỳ xuống đất, cảm tạ Thượng Ðế đã giúp đỡ họ trong chuyến đi
an toàn và thành công, rồi nhận miền đất này thuộc quyền của các Vua Tây
Ban Nha. Họ đã gặp thổ dân da đỏ Arawark Taino, một giống người hiền
lành và các thổ dân đã chào hỏi đoàn thám hiểm cũng như trao đổi quà tặng.
Khi nhìn thấy các vòng vàng nhỏ đeo trên mũi của thổ dân, Christopher
Columbus lại càng tin chắc rằng ông đã tới được xứ Ấn Ðộ. Columbus đã
ghi trong nhật ký như sau: "tôi định đi nữa để coi xem có thể tìm ra hòn đảo
Nhật Bản hay không".
Christopher Columbus ra lệnh dương buồm ra khơi và đã dừng lại tại các
hòn đảo mà ông đặt tên là Santa Maria de la Conception (bây giờ là đảo
Rum Cay), Fernandina (Long Island), và Isabella (Crooked Island). Vào
ngày 6-12-1492, đoàn tầu dừng lại tại bờ biển phía bắc của đảo Hispaniola.
Tại mọi nơi, Columbus đều hỏi thổ dân xem có thể kiếm ra vàng tại đâu và
các thủy thủ đã không tìm thấy một thành phố hay một lâu đài hoàng gia
nào, họ chỉ gặp các thổ dân hút thuốc xì gà và đây là các người châu Âu đầu
tiên biết tới thuốc lá. Sau khi đo lường kinh độ và vĩ độ, Columbus chỉ biết
kết luận rằng ông đã tới được các hòn đảo nằm bên ngoài xứ Cathay.
Ba tháng sau ngày nhìn thấy đất liền, Christopher Columbus và đoàn tầu của
ông đã đi vòng vo qua các vùng biển xa lạ và khá nguy hiểm là các đảo
Bahama, Cuba và Hispaniola. Trên đảo Hispaniola, Columbus phấn khởi khi
thấy dân làng đeo nữ trang bằng vàng và cũng đã nhận được một quà tặng là
một mặt nạ vàng. Ðoàn tầu biển ba chiếc khi tới Cape Haitien thì chiếc Santa
Maria bị đụng đá ngầm nên đáy tầu bị rách và phải bỏ lại. Với khối lượng gỗ
của con tầu này, Columbus đã xây dựng một pháo đài nhỏ tại La Navidad.
Một số thủy thủ vì bị lôi cuốn bởi các câu chuyện về mỏ vàng, nên đã tình
nguyện ở lại trên đảo. Ðây là nhóm dân 39 người định cư đầu tiên tại Tân
Thế Giới.

Vào ngày 16-1-1493, Christopher Columbus quyết định cho đoàn tầu trở về.
Hai con tầu Nina và Pinta chất đầy phẩm vật gồm vàng bạc, các con vẹt có
lông màu sắc sặc sỡ, các loại cây cỏ và sinh vật lạ, một số nữ trang và quần
áo của thổ dân cùng nhiều thổ dân bị bắt cóc. Do tình cờ, hai con tầu biển
này lọt vào vùng biển phía bắc của đảo Bermuda, nơi có gió thổi rất thuận
tiện. Sau một tháng hải hành tốt đẹp, tầu gặp bão khi đến gần quần đảo
Azores nhưng rồi cuối cùng, con tầu Nina do Columbus chỉ huy cũng tới
được hải cảng Lisbon để sửa chữa. Vào ngày 4 tháng 3, Columbus được Vua
John đón tiếp tại Lisbon. Cuối cùng, vào ngày 15-3-1493, cả hai con tầu
cùng bỏ neo tại hải cảng Palos.
Vua và Nữ Hoàng Tây Ban Nha đã đón tiếp Christopher Columbus tại triều
đình Barcelona. Columbus đã tặng cho các vua sáu thổ dân, vàng bạc và một
số cây cối cùng các con vật lạ. Christopher Columbus được mời ngồi bên
phải các vị vua và được ban tước hiệu "Don Cristobal Colon". Ðây là lúc
vinh quang nhất của ông.
Các chuyến đi về sau.
Christopher Columbus đã báo cáo về các hòn đảo nằm bên ngoài bờ biển của
xứ Cathay, một nơi có nhiều vàng bạc và hương liệu, với thổ dân vừa e dè,
vừa dễ chịu, rất dễ cải theo đạo Thiên Chúa. Columbus cũng mô tả vẻ đẹp
thiên nhiên của núi cao, bãi biển cát trắng, các loại cây gồi đặc thù của vùng
nhiệt đới, nhưng phần báo cáo về quý kim thì đã bị ước lượng quá đáng. Sở
dĩ ông nói quá về số lượng vàng bạc của địa phương để các nhà vua Tây Ban
Nha sẵn lòng tài trợ các chương trình thám hiểm kế tiếp.
Cùng với vài thổ dân trình ra làm bằng chứng cụ thể, Christopher Columbus
đã mô tả về vài hòn đảo nhỏ nằm ngoài khơi mà ông cho rằng sâu vào bên
trong là nước Trung Hoa, đúng như lời Marco Polo đã nói rằng những thổ
dân tại các hải đảo này còn man rợ và họ sống như các thú vật. Do vậy, Vua
Ferdinand và Nữ Hoàng Isabella đều đồng ý cử Columbus đi thám hiểm một
lần nữa để cố gắng tiếp xúc với triều đình của Ðại Hãn.
Từ năm 1455, nước Bồ Ðào Nha đã xin được sắc lệnh của Giáo Hoàng cho

độc quyền trên đại dương ở phía đông và phía tây nam. Người Bồ đã dùng
quần đảo Canaries làm chuẩn và cho rằng vùng biển từ quần đảo này trải dài
xuống phía nam Ðại Tây Dương là của mình.
Ðể bảo đảm các quyền lợi tại phía tây, các vua Tây Ban Nha cũng xin Giáo
Hoàng đặc quyền thương mại và chinh phục các xứ sở tại phía tây đại
dương. Giáo Hoàng thời bấy giờ là Alexander VI, cũng là người Tây Ban
Nha và thuộc nhóm Borgia, nên đã lắng nghe các yêu cầu của Vua
Ferdinand và Nữ Hoàng Isabella. Hai nhà vua này đòi đặt một đường ranh
dọc 100 hải lý (khoảng 300 dậm) phía tây của quần đào Azores. Phía tây
đường ranh này thuộc Tây Ban Nha còn phía đông thuộc Bồ Ðào Nha. Sự
phân chia này là do đề nghị của Christopher Columbus khi nhận xét về nơi
thay đổi hướng gió, thay đổi hướng từ trường của địa bàn và cũng là nơi có
khác lạ về mặt biển. Giáo Hoàng Alexander VI đã chấp thuận đề nghị của
Tây Ban Nha bằng Ðạo Luật Inter Caetera. Vua Bồ Ðào Nha bèn phản đối
sự phân vùng kể trên, đòi hỏi Tây Ban Nha phải tôn trọng đạo luật Aeterni
Regis năm 1481 của Giáo Hoàng khi trước. Sau khi thương thảo, hai nước
Bồ Ðào Nha và Tây Ban Nha đã đi tới Hòa Ước Tordesillas ký vào tháng 6
năm 1494, về sau được duyệt bởi Giáo Hoàng, theo đó đường ranh dọc do
Tây Ban Nha đề nghị được đặt lùi 270 hải lý về phía tây, tức là ở kinh độ 46
độ 37'W, và cũng vì thế mà sau này miền đất Brasil nằm ở phía đông đường
ranh, đã thuộc về Bồ Ðào Nha.
Sự phân chia kể trên đã khiến cho 25 năm về sau, khi thám hiểm mỏm cực
nam của Nam Mỹ, Ferdinand Magellan đã bị cảnh cáo không nên vi phạm
lằn ranh và các giới hạn về lãnh thổ của nhà vua Bồ Ðào Nha. Nhưng khi
xẩy ra cuộc cạnh tranh về thám hiểm và khám phá các vùng đất mới, không
một thế lực nào khiến cho Hòa Ước Tordesillas hay Ðạo Luật Inter Caetera
được các quốc gia khác tôn trọng và Vua Francis của nước Pháp đã nói rằng
muốn được coi "di chúc" của ông Adam chia Tân Thế Giới cho Hoàng Ðế
Tây Ban Nha Charles V và Vua Bồ Ðào Nha. Rồi tới giữa thế kỷ 16, ông bộ
trưởng William Cecil của Nữ Hoàng Anh Elizabeth đã cảnh cáo vị đại sứ

Tây Ban Nha rằng "Giáo Hoàng không có quyền chia thế giới rồi phân phối
các vương quốc cho những người được ưa thích". Thế nhưng vào năm 1493,
các quyền lợi của Tây Ban Nha đã được coi trọng và việc phân vùng ảnh
hưởng đã ổn định. Christopher Columbus đã ở trên cực điểm của danh vọng.
Trong 10 năm, nhà hàng hải này thường qua lại giữa Tây Ban Nha và vùng
đất mới mà ông cho rằng sau đó là nước Trung Hoa.
Vào tháng 9 năm 1493, Christopher Columbus ra đi lần thứ hai và sau 21
ngày thuận gió, nhà hàng hải tới được phía bắc của quần đảo Windward mà
ông đặt tên là Dominica, theo tiếng Ý là ngày Chủ Nhật, ngày nhìn thấy đảo.
Sau đó Columbus đi theo đường vòng cung của các đảo Leeward tới tận
Puerto Rico và đặt tên cho các đảo lần lượt là Santa Maria de Guadalupe,
Santa Maria de Monserrate (Montserrat), Santa Cruz (nay là đảo St. Croix).
Khi đến đảo Hispaniola để thăm lại khu định cư Navidad gần Cape Haitien,
Columbus thấy rằng nơi này đã bị đốt trụi, 39 thủ thủ khi xưa đã bị giết chết.
Columbus liền lập ra một nơi định cư thứ hai trên đảo Hispaniola. Chính
trên các hải đảo miền Trung Mỹ này, các thủy thủ Tây Ban Nha đã được ăn
khoai lang (yam), gặp loại cây bông gòn, các thứ cây trái mới lạ. Christopher
Columbus cũng khám phá ra đảo Jamaica. Vào mùa xuân năm 1496, đoàn
tầu biển của Christopher Columbus trở về Tây Ban Nha và nhà hàng hải vẫn
thuyết phục Vua Tây Ban Nha rằng xứ Trung Hoa sắp ở trong tầm tay thám
hiểm.
Tới tháng 5 năm 1498, Christopher Columbus lại rời Tây Ban Nha, ra đi lần
thứ ba, lần này hướng về phía nam nhiều hơn. Trong kỳ thám hiểm này, nhà
hàng hải đã tới đảo Trinidad và đây là một khám phá địa dư mới. Vài ngày
sau, đoàn thám hiểm đặt chân lên đồng bằng Orinoco rồi Columbus khảo sát
Vịnh Paria và nhận ra rằng đây phải là một lục địa rất lớn: Christopher
Columbus đã tới vùng bờ biển phía bắc của Nam Mỹ.
Trong chuyến đi lần thứ tư vào mùa hè năm 1502, Christopher Columbus đã
tới Honduras mà ông tưởng lầm là bán đảo Mã Lai. Ðể tranh đua với Vasco
da Gama của Bồ Ðào Nha khi đó đã tìm thấy Ấn Ðộ, nhà hàng hải

Columbus cho tầu đi về phía nam, tới Nicaragua và Costa Rica. Trong cuộc
thám hiểm lần thứ tư này, Columbus đã gặp thất bại trong việc tìm đường
qua châu Á, trong các công cuộc định cư trên đảo Hispaniola và tại các nơi
khác.
Christopher Columbus đã chết vào ngày 20 tháng 5 năm 1506, vào tuổi 55,
tại Valladolid, trong cảnh nghèo khó. Di hài của nhà hàng hải lừng danh này
được chuyển tới an táng tại phần đất của một tu viện ở Seville vào năm
1513, nơi đã chôn cất người con Diego của ông.
Christopher Columbus là nhà hàng hải đã băng qua đại dương, tới các vùng
biển hoàn toàn xa lạ và nhờ bản năng tài giỏi, ông đã điều khiển đoàn tầu
vượt qua được những miền nước sâu, nước cạn, cũng như các vùng đá ngầm
và các đảo san hô để tới mục tiêu đúng lúc. Vì vậy người đời sau vẫn coi
ông Columbus là một trong các nhà hàng hải tài ba nhất của thời đại đó. Ý
tưởng táo bạo đi về hướng tây để tới châu Á cũng khiến cho Christopher
Columbus được coi là một con người cương quyết theo đuổi lý thuyết do
mình đặt ra.
Việc khám phá ra Tân Thế Giới của Christopher Columbus đã khiến cho ông
được xếp hạng với các nhân vật gây ảnh hưởng lớn lao nhất trong lịch sử của
Nhân Loại, chỉ sau các vị sáng lập ra các tôn giáo của Thế Giới.

×