Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

báo cáo: Thực trạng và giải pháp ngành chế biến thủy sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.27 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
DANH SÁCH NGƯỜI THAM GIA 1
1.Huỳnh Nữ Bảo Hiệp 1
2.Cao Thị Trúc Ly 1
3.Nguyễn Thị Nhài 1
4.Đào Thị Thúy Phương 1
5.Đoàn Thị Thanh Thảo 1
6.Vũ Thị Thanh Thảo 1
Ngành Nghề Kinh Doanh 9
Định Hướng Phát Triển 12
DANH SÁCH NGƯỜI THAM GIA
1. Huỳnh Nữ Bảo Hiệp
2. Cao Thị Trúc Ly
3. Nguyễn Thị Nhài
4. Đào Thị Thúy Phương
5. Đoàn Thị Thanh Thảo
6. Vũ Thị Thanh Thảo
1
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ VĂN HÓA DOANH NGHIỆP
I. Khái niệm:
 Trong xu thế hội nhập toàn cầu về kinh tế như ngày nay, chúng ta thấy rằng
trong bất kì lĩnh vực nào cũng đều có rất nhiều doanh nghiệp cùng tham gia sản
xuất kinh doanh. Trong số đó có rất nhiều doanh nghiệp có nguồn lực dồi dào và
phong phú, đã nổi tiếng từ lâu trên toàn cầu, trong khi các doanh nghiệp của
Việt Nam đa phần là tiềm lực yếu, thời giant ham gia thương trường chưa lâu,
nên có thể cạnh tranh được với các đối thủ trên thì các doanh nghiệp của Việt
Nam phải có một đặc điểm nổi bật làm cho người tiêu dùng luôn nhớ đến doanh
nghiệp, dù họ chưa có nhu cầu về sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp. Khi
họ có nhu cầu thì ngay lập tức họ nghĩ đến doanh nghiệp, thì đặc điểm đó chính


là văn hóa doanh nghiệp.
 Văn hóa doanh nghiệp là toàn bộ những giá trị mà doanh nghiệp tạo ra trong
quá trình sản xuất kinh doanh. Nó tác động đến tình cảm lý trí và hành vi của
các thành viên, là sợi dây liên kết các thành viên trong tổ chức lại và nhân lên
sức mạnh của doanh nghiệp.
 Văn hóa doanh nghiệp tạo cơ sở cho doanh nghiệp phát triển bền vững
 Văn hóa doanh nghiệp gắn với đặc điểm từng dân tộc, từng thời kỳ phát triển
cho đến từng người trong doanh nghiệp.
2
 Văn hóa doanh nghiệp là thái độ của mọi người trong quá trình sản xuất hay
trong giao tiếp. Nó thể hiện cả trong các sản phẩm hay dịch vụ của doanh
nghiệp cung cấp cho khách hàng, chi phối đến kết quả hoạt động cuối cùng của
doanh nghiệp.
II. Các đặc trưng của văn hóa doanh nghiệp:
1. Văn hóa doanh nghiệp là sản phẩm của những con người cùng làm việc trong
doanh nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững của donh nghiệp
2. Văn hóa doanh nghiệp xác lập nên một hệ thống các giá trị dưới dạng vật thể và
phi vật thể, được toàn thể những người làm việc trong doanh nghiệp chấp nhận,
chia sẻ, đề cao và ứng xử theo các giá trị đó nhằm đạt dược mục tiêu của doanh
nghiệp.
3. Văn hóa doanh nghiệp tạo được bản sắc riêng của doanh nghiệp giúp cho người
tiêu dùng phân biệt được doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác. Chính nhờ
bản sắc này mà doanh nghiệp có được sức mạnh và lợi thế cạnh tranh.
4. Văn hóa doanh nghiệp trở thành truyền thống, tức là có giá trị lâu bền được lưu
truyền qua nhiều thế hệ người làm việc trong doanh nghiệp.
III. Các loại hình văn hóa doanh nghiệp:
Văn hóa doanh nghiệp được nhận biết ở các khía cạnh khác nhau. Ở bề ngoài văn hóa
doanh nghiệp được thể hiện qua biểu tượng của doanh nghiệp (logo), kiểu kiến trúc
hay khẩu hiệu, …bên trong là những giá trị được các thành viên chia sẻ và chấp nhận.
Cuối cùng phần cốt lõi, là phần khó nhận biết nhất vì nó được hình thành từ từ qua thời

gian, thấm nhuần vào các thành viên trong doanh nghiệp một cách vô thức.
Dựa vào sự hình thành, văn hóa doanh nghiệp có thể nhận biết dưới ba dạng:
1. Văn hóa doanh nghiệp hướng vào cá tính của nhà lãnh đạo hay tập thể nhà
lãnh đạo, mà những người này biết làm cho mình nổi bật lên tất cả mọi hoạt
động của doanh nghiệp được thực hiện qua vai trò của nhà lãnh đạo đó.
2. Văn hóa tổ chức hướng vào một hoạt động hay nghề nghiệp như hãng hàng
không sử dụng hình ảnh chiếc máy bay…
3. Loại hình văn hóa tập trung vào cách cung ứng mang tính cộng đồng, mang
tính gia đình. Loại hình văn hóa này dựa trên cơ sở một sự xã hội hóa sâu rộng
những giá trị, chuẩn mực được chia sẻ rộng rãi như bột giặt Omo quyên góp
đồng phục trắng cho học sinh nghèo đến trường…
IV. Các bộ phận cấu thành văn hóa doanh nghiệp:
1. Triết lý hoạt động của doanh nghiệp

Mục tiêu của doanh nghiệp hướng tới sự phát triển lâu dài bền vững

Định hướng hoạt động của doanh nghiệp vào việc phục vụ lợi ích xã hội
thông qua việc phục vụ khách hàng

Đề cao giá trị con người , đặt con người vào vị trí trung tâm trong toàn bộ
mối quan hệ ứng xử trong doanh nghiệp.
2. Đạo đức kinh doanh
3

Xác định rõ mục tiêu kinh doanh

Xác định rõ quan hệ giữa lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của khách
hàng

Đạo đức kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải thực hiện nghĩa vụ với

Nhà Nước theo luật định.

Đòi hỏi các doanh nghiệp phải quan tâm đảm bảo lợi ích của những người
làm việc trong doanh nghiệp, tôn trong nhân phẩm của họ, tạo điều kiện
cho họ phát huy sáng kiến và tài năng. Chính điều này làm cho họ quan
tâm và gắn bó nhiều hơn đến doanh nghiệp, ra sức cống hiến và làm cho
doanh nghiệp được thuận lợi hơn.

Đòi hỏi các doanh nghiệp phải quan tâm giải quyết các vấn đề môi trường

Đạo đức kinh doanh khuyến khích các doanh nghiệp quan tâm đến các vấn
đề xã hội – nhân đạo, quan tâm đến những người kém may mắn trong cuộc
sống.

Đạo đức kinh doanh cũng đòi hỏi các nhà doanh nghiệp xây dựng phong
cách giao tiếp ứng xử có văn hóa với công chúng.
4
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG VĂN HÓA DOANH NGHIỆP NGÀNH CHẾ BIẾN THỦY HẢI
SẢN ĐÔNG LẠNH
I. Thực trạng văn hóa doanh nghiệp ngành chế biến thủy hải sản đông lạnh:
1. Tầm quan trọng của ngành chế biến thủy hải sản đông lạnh:
Thuỷ sản là ngành hàng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế thế giới nói chung và
Việt Nam nói riêng. Đối với nước ta, thuỷ sản hiện đang cung cấp một nguồn thực
phẩm quan trọng cho tiêu dùng trong nước và góp phần không nhỏ trong tổng kim
ngạch xuất khẩu của nước nhà.
Với tiềm năng to lớn, để phát triển thuỷ sản, cùng với việc chủ động tiếp cận thị
trường, thực hiện công cuộc ”đổi mới” trong quản lý và sản xuất kinh doanh thuỷ sản,
Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ
sản đã vượt qua ngưỡng 2 tỷ đô la vào cuối năm 2002, ngày càng trở thành một ngành

quan trọng, góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước, tạo thêm nhiều việc làm và
tăng thu nhập cho người lao động, cải tạo bộ mặt nông thôn ven biển Việt Nam.
2. Thực trạng ngành chế biến thủy hải sản đông lạnh:
a) Sự phát triển của ngành thủy sản trong những năm gần đây:
Tổng sản lượng thủy sản đã tăng từ 0,81 triệu tấn trong năm 1985 lên 2,54 triệu tấn
trong năm 2003. Hiện nay sản lượng hải sản đánh bắt chiếm 56% tổng sản lượng, trong
khi đó tỷ lệ nuôi trồng thủy sản đang ngày càng gia tăng. Trong giai đoạn 1985 - 2003,
tổng giá trị sản lượng thủy sản của Việt Nam tăng 2,6 lần, trong số đó tổng giá trị sản
lượng nuôi trồng thủy sản tăng hơn 4,8 lần.
Đánh bắt hải sản: đã phát triển nhanh chóng vào cuối năm 1980 và đầu năm 1990. Tuy
nhiên, do hầu hết các tàu thuyền đánh bắt với kích cỡ nhỏ, nên phạm vi hoạt động đánh
bắt hải sản tập trung chủ yếu ở ven bờ. Gần đây, các hoạt động đánh bắt ven bờ đã suy
giảm rõ rệt. Ngành thủy sản chỉ có thể tăng sản lượng đánh bắt chủ yếu bằng cách mở
rộng các hoạt động đánh bắt xa bờ. Sự chuyển dịch từ đánh bắt ven bờ sang đánh bắt
xa bờ cũng đồng nghĩa với sự chuyển dịch từ đánh bắt với giá trị thấp sang đánh bắt
với giá trị cao. Tỷ lệ xuất khẩu trong tổng sản lượng đánh bắt hải sản tăng từ 20% năm
1998 lên 25% năm 2002. Tuy nhiên các chuyên gia thủy sản đều cho rằng Việt Nam
đang tiến gần đến ngưỡng giới hạn của sự tăng trưởng nguồn lợi hải sản.
Nuôi trồng thủy sản: khác với lĩnh vực đánh bắt hải sản, nuôi trồng thủy sản vẫn còn
có thể tiếp tục phát triển. Sự tăng trưởng nhanh chóng của nuôi trồng thủy sản chỉ diễn
ra từ đầu những năm 1990, và từ năm 1999, lĩnh vực này đã thực sự phát triển mạnh cả
về diện tích nuôi trồng và đa dạng hóa chủng loại sản phẩm. Những sản phẩm có thể
xuất khẩu như tôm sú, tôm hùm, tôm càng xanh và cá da trơn là các sản phẩm chủ đạo,
trong đó tôm sú đen và cá da trơn là hai mặt hàng xuất khẩu chính. Những sản phẩm
5
khác vẫn còn bị hạn chế về sản lượng, hoặc khả năng cạnh tranh còn yếu trên thị
trường thế giới.
b) Việc làm
Theo cuộc Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản được tiến hành trong năm
2001, thì số hộ gia đình và tỷ trọng các hộ gia đình tham gia vào nuôi trồng thuỷ sản,

đặc biệt là ở các vùng ven biển đã gia tăng một cách rõ rệt. Tính đến thời điểm ngày 1
tháng 10 năm 2001, toàn quốc có 509.000 hộ, chiếm 3,7% số hộ gia đình được phỏng
vấn có thu nhập chính từ nông – ngư nghiệp. Tỷ lệ cao nhất thuộc về vùng đồng bằng
sông Cửu Long. Năm 2001, số hộ gia đình nông - ngư nghiệp đã tăng 2,2 lần so với
năm 1994. Đặc biệt, số người làm ngư nghiệp ở vùng đồng bằng sông Cửu Long đã
tăng cao nhất là 4,2 lần, miền Nam Trung Bộ l,7 lần, miền Đông Nam Bộ 1,5 lần.
Trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản có tất cả là 2 triệu hộ gia đình với 3 triệu lao động
đang tham gia cả việc nuôi trồng hoặc đánh bắt thủy sản. Về quy mô sản xuất, các hộ
gia đình đã có xu hướng tập trung và mở rộng thành các trang trại. Trước đây, các hộ
gia đình chỉ đầu tư ít, nuôi trồng chủ yếu tại những vùng ngập sẵn có. Tại thời điểm
của cuộc điều tra này, toàn quốc có 16.951 hộ gia đình nông - ngư nghiệp đã đạt tiêu
chuẩn trang trại, tức là có diện tích nuôi trồng hơn 2 ha và doanh thu hơn 40 triệu
đồng/năm. Số lượng các trang trại nuôi trồng thủy sản đã tăng một cách rõ rệt trong
hơn một thập kỷ qua. Các trang trại nuôi trồng đã được phân bổ theo 8 vùng sinh thái,
trong đó khu vực đồng bằng sông Cửu Long có 12.806 trang trại, chiếm khoảng 71,3%
tổng số, miền Nam Trung Bộ có l.297 trang trại (7,2%), và miền Đông Nam Bộ có
1.191 trang trại (7%). Các tỉnh ven biển như Bạc Liêu, Cà Mau, Bến Tre, Sóc Trăng,
Kiên Giang, Bình Định, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Quảng Ninh, Hải Phòng và Nam
Định đã gia tăng số các trang trại nuôi trồng thủy sản của mình với một tốc độ chưa
từng thấy. Nghề kinh doanh chính của các trang trại này là nuôi tôm và cá. Nông - ngư
nghiệp trước đây chỉ là việc làm thêm của nhiều hộ gia đình ở nông thôn, hiện nay đã
trở thành nghề chính mang lại thu nhập cao và sản lượng cao cho toàn ngành.
c) Đầu tư
Các con số thống kê của Bộ Thủy sản đã cho thấy có sự gia tăng đáng kể về đầu tư cho
ngành này trong giai đoạn 1986 - 2003. Trong giai đoạn 1986 - 1990, mức đầu tư trung
bình hàng năm là 170,6 tỷ đồng và giai đoạn tiếp theo 1991 - 1995, con số đó đã tăng
lên 565,9 tỷ đồng, còn đến giai đoạn 1996 - 2000 mức đầu tư trung bình hàng năm là
1.837,1 tỷ đồng, tăng gấp ba lần so với giai đoạn trước. Mức đầu tư bình quân hàng
năm trong giai đoạn 2001 -2003 lại một lần nữa tăng lên gấp hơn ba lần so với giai
đoạn 1996 - 2000, đạt mức 5.732,9 tỷ đồng. Trong đó năm 2003, mức đầu tư của toàn

ngành thủy sản đạt mức kỷ lục là 6.316 tỷ đồng.
Nguồn vốn trong nước chiếm khoảng 86% trong tổng vốn đầu tư, trong đó nguồn vốn
huy động từ dân chiếm khoảng 18,6%. Xét dưới góc độ phân bổ nguồn vốn cho các
lĩnh vực, bắt đầu từ năm 2001, đầu tư cho các nhà máy chế biến sản phẩm thủy sản
chiếm khoảng 30,5% quỹ đầu tư. Các khoản đầu tư lớn khác là đầu tư cho khai thác hải
sản chiếm 27,9%, và nuôi trồng thủy sản chiếm 25,5%. Hơn nũa, 16,2% tổng vốn đầu
6
tư cho lĩnh vực thủy sản là dành cho lĩnh vực dịch vụ. Gần đây, xu hướng phân bổ vốn
đầu tư đã thay đổi đáng kể (xem bảng 2). Rõ ràng là đã có sự đầu tư nhiều hơn vào lĩnh
vực nuôi trồng thủy sản.
Đầu tư cho lĩnh vực thủy sản là rất có hiệu quả. Từ năm 1996 - 2000, đầu tư cho ngành
đã góp phần làm tăng tỷ trọng của ngành thủy sản trong GDP của Việt Nam từ 3% lên
3,2%, mặc dù tỷ lệ đầu tư cho ngành trong tổng vốn đầu tư phát triển lại rất thấp, chỉ
chiếm 1,8%. Tuy nhiên, nhu cầu về đầu tư phát triển cho ngành này vẫn còn rất lớn.
Thực tế cho thấy rằng ở nhiều tỉnh, đầu tư vào cơ sở hạ tầng và dịch vụ là không đủ
mạnh để hỗ trợ cho sự tăng trưởng của ngành thủy sản.
d) Sự phát triển của ngành chế biến thủy sản
Ngành chế biến thủy sản đã phát triển mạnh mẽ cả về công suất lẫn công nghệ chế
biến. Đến năm 2003, ngành đã có trên 300 nhà máy chế biến thủy sản, trong đó có 60%
nhà máy đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, giúp các nhà xuất khẩu Việt Nam
đáp ứng được các yêu cầu nghiêm ngặt về chất lượng và an toàn thực phẩm của EU và
của Mỹ. Những điều kiện thuận lợi này đã tác động tích cực tới việc thâm nhập thị
trường và mở rộng qui mô xuất khẩu. Từ tháng 11 năm 1999, các sản phẩm thủy sản
của 18 công ty đã lọt vào danh sách I xuất khẩu tới EU, tức là được cấp EU code. Năm
2002, số doanh nghiệp có EU code lên tới 62. Hiện nay Việt Nam đã có 100 doanh
nghiệp có EU code. Ngoài ra còn có 53 doanh nghiệp khác đang được đề nghị cấp EU
code. Cũng trong thời gian này, 126 doanh nghiệp đã nhận được chứng chỉ phân tích
mối nguy hiểm kiểm soát điểm tới hạn (HACCP) để xuất khẩu vào Mỹ. Doanh thu của
các doanh nghiệp này chiếm 80% tổng giá trị xuất khẩu. Những doanh nghiệp khác
đang tiến hành nâng cấp doanh nghiệp mình để đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn vệ sinh của

ngành. Các nhà chế biến thủy sản đang tập trung ở khu vực phía nam Việt Nam. Phần
lớn các doanh nghiệp này là các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước trực thuộc Uỷ
ban nhân dân tỉnh.
e) Cạnh tranh nhiều hơn
Trong những năm 80 và đầu những năm 90, chỉ có một doanh nghiệp được phép xuất
khẩu sản phẩm thủy sản, đó là Tổng công ty Xuất nhập khẩu thủy sản Seaprodex, một
doanh nghiệp nhà nước thuộc Bộ Thủy sản. Nhờ một lọat cải cách kinh tế của Chính
phủ vào đầu năm 90, Seaprodex đã bị xóa bỏ thế độc quyền trong xuất khẩu hàng thủy
sản vào năm 1994, và rồi từ đó tất cả các loại hình doanh nghiệp trong ngành này đều
được phép xuất khẩu. Số các doanh nghiệp xuất khẩu đã gia tăng mạnh mẽ. Theo bảng
3 cho thấy, năm 1980 mới chỉ có 30 nhà máy, và năm 1990 số nhà máy đã tăng lên gấp
3 lần so với năm 1980, và tăng lên thành 240 nhà máy vào năm 2000, sau đó giảm
xuống chút ít, còn 235 nhà máy vào năm 2002. Quan trọng hơn là phải nói đến sự tham
gia của các khu vực tư nhân và nước ngoài vào lĩnh vực này. Hoạt động mạnh của các
doanh nghiệp tư nhân năm 2002 đã được thể hiện một phần qua bảng 4, vị trí đầu bảng
là một doanh nghiệp tư nhân - doanh nghiệp Kim Anh, chứ không phải là một chi
nhánh của Seaprodex. Tăng cường tính cạnh tranh đã khuyến khích những người nông
dân, họ vốn bị phụ thuộc vào những nhà thu mua nguyên liệu có sức mạnh chi phối thị
7
trường. Thị phần của Tổng công ty Seaprodex đã giảm (xem Minot, 1998). Trong 2
năm 2001 - 2002, Seaprodex đã xuất khẩu được 337 triệu USD chiếm khoảng 9% trong
tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam.
II. Một số doanh nghiệp chế biến thủy hải sản tiêu biểu:
1. Công ty Cổ phần Kinh Doanh Thủy Hải Sản Sài Gòn
Với tên giao dịch là SAI GON AQUATIC PRODUCTS TRADING JOINT
STOCK COMPANY (APT Co)
là một doanh nghiệp Nhà nước, được thành lập từ năm 1976, hoạt động theo mô hình
Công ty Cồ phần từ ngày 01/01/2007, chuyên sản xuất chế biến và kinh doanh các mặt
hàng thủy hải sản tươi sống và chế biến.
Với tổng số lao động trên 2.000 người, hàng năm APT Co sản xuất, chế biến và kinh

doanh 30.000 tấn thuỷ hải sản các loại, tổng doanh thu 1.000 tỷ đồng. Trong đó, kim
ngạch xuất khẩu trên 30 triệu USD xuất qua các nước Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Hồng
Kông, Trung Quốc, Úc, EU (Pháp, Tây Ban Nha, Hà Lan, Đức, Ý), các nước Asean.
Hàng hải sản chế biến đông lạnh và hàng khô của Công ty có khả năng cạnh tranh cao
về chất lượng và giá cả tại các thị trường Nhật, Mỹ, EU, Hàn Quốc. Công ty cũng chú
trọng đẩy mạnh chương trình kinh doanh nội địa với mạng lưới tiêu thụ trên 350 điểm
được phân bổ trên phạm vi cả nước: TP.HCM, Hà Nội, Đà Nẵng, các tỉnh cao nguyên,
các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, các tỉnh miền Đông.
APT Co luôn đảm bảo hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO,
HACCP, đạt Code EU và tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm.
Với các nhà máy mới được xây dựng theo tiêu chuẩn HACCP và EU, máy móc thiết bị
tiên tiến ở Khu Công Nghiệp và vùng nguyên liệu, với đội ngũ cán bộ quản lý kinh
nghiệm, lực lượng công nhân lành nghề có ý thức tổ chức, với phương châm chất
lượng và phục vụ đáp ứng mọi yêu cầu khách hàng, đây là một điều kiện thuận lợi để
APT Co có thể mở rộng và phát triển thị trường mới. Ngoài ra, việc xây dựng nhà máy
tại vùng nguyên liệu sẽ tạo điều kiện cho Công Ty thực hiện quy trình khép kín trong
lãnh vực nuôi trồng : “ Trại ươm giống – Trại nuôi – Nhà máy SX thực phẩm nuôi
trồng – Nhà máy SXCB – Xuất khẩu “, giúp APT Co kiểm tra được sản phẩm theo tiêu
chuẩn sản phẩm sạch, đồng thời hạ giá thành, nâng cao nâng cao năng lực cạnh tranh.
Năm 2008, APT Co tiếp tục theo đuổi các định hướng:
+ Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu song song với củng cố, khôi phục thị trường nội địa
+ Tiếp tục phát triển hoạt động nuôi trồng theo hướng chủ động quỹ đất, thực hiện mô
hình khép kín: Xây dựng Trại ươm giống, Trại nuôi cá thương phẩm, Nhà máy chế
biến thực phẩm nuôi trồng thủy sản, Nhà máy chế biến thủy sản.
+ Tìm mọi biện pháp mở rộng hoạt động thương mại dịch vụ, khai thác tốt các cơ sở
vật chất, nhà xưởng, mặt bằng góp phần tăng lợi nhuận.
8
Đối với xuất khẩu, APT Co tiếp tục chiến lược đa dạng hoá mặt hàng, đa phương hoá
thị trường, duy trì và phát triển thêm khách hàng ở thị trường truyền thống (Nhật, Mỹ,
Hàn Quốc), đồng thời tìm mọi biện pháp mở rộng khách hàng, thị trường mới ở các

nước: EU (Đông và Tây Âu), Nam Mỹ, Asean, Trung Quốc, các nước Trung Đông,
Châu Phi. Về mặt hàng, APT Co sẽ tập trung 3 nhóm mặt hàng chiến lược là:
+ Sản phẩm nuôi trồng
+ Hàng đông lạnh chế biến
+ Đồ hộp
Song song với hoạt động xuất khẩu, APT Co tiếp tục đẩy mạnh chương trình kinh
doanh nội địa về mặt hàng, mạng lưới, tiếp thị, … với mục tiêu lâu dài là phát triển cân
đối giữa xuất khẩu và kinh doanh nội địa, phấn đấu đạt doanh thu hàng sản xuất chế
biến nội địa ở mức 100 tỷ đồng/năm.
Với phương châm luôn luôn cải tiến, đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, thoả mãn
mọi nhu cầu của khách hàng, APT Co rất mong nhận được sự hợp tác của Quý khách.
Ngành Nghề Kinh Doanh
* Nuôi trồng thủy hải sản. Mua bán vật tư ngành nuôi trồng thủy sản. Mua bán, chế
biến thủy hải sản. Sản xuất, mua bán thức ăn gia súc. Chế biến nước mắm, nước chấm.
Sản xuất nước đá.
* Gia công hàng may mặc, các sản phẩm bằng kim loại. Sản xuất mua bán gaz NH3.
* Sản xuất các loại cấu kiện từ panel nhựa xốp, gia công lắp ráp các nhà kho chứa, kho
lạnh, khung nhà tiền chế, các loại vách ngăn cách nhiệt, các tấm trần bằng cấu kiện
panel và tole tráng nhựa, các loại bao bì, các loại hộp thực phẩm và thức ăn bằng nhựa
xốp. Mua bán bao bì, panel nhựa xốp
* Mua bán xăng, dầu, nhớt các loại
* Kinh doanh ăn uống các mặt hàng thủy hải sản tươi sống và chế biến.
* Mua bán cấu kiện, thiết bị lạnh. Mua bán thực phẩm, công nghệ phẩm, kim khí, điện
máy, xe máy, vật tư phục vụ sản xuất, nông sản, phương tiện vận chuyển chuyên dùng.
* Mua bán thiết bị, máy móc, vật tư, nguyên liệu ngư lưới cụ,rượu
* Ăn uống, nhà nghỉ, massage, xông hơi, sân tennis.
* Dịch vụ bảo quản hàng đông lạnh xuất khẩu, sửa chữa cơ điện lạnh.
* Cano lướt ván, chèo thuyền, câu cá giải trí, cho thuê kho, bãi.
Lĩnh vực hoạt động:
9

Sản xuất chế biến và kinh doanh các mặt hàng thủy hải sản, nông sản, thực phẩm, nước
mắm, thức ăn gia súc, công nghệ phẩm, kim khí điện máy,…Kinh doanh ăn uống, dịch
vụ vui chơi giải trí.
- Nuôi trồng thủy sản nước lợ, nước ngọt
- Kết hợp với các tỉnh, địa phương có nguồn nguyên liệu khai thác thủy hải sản.
- Nhập khẩu thức ăn nuôi trồng thủy sản, nông ngư cụ.
- Nhập khẩu các mặt hàng kim khí điện máy, điện gia dụng, hàng tiêu dùng.
Kim ngạch xuất khẩu hàng năm: 45-50 triệu USD.
Thị trường chính:
Mỹ, Eu, Nhật, Hàn Quốc, Nga, Trung Quốc, Singapore, Hong Kong, Thái Lan,
Malaysia, Đài Loan, Trung Đông
2. Tên Doanh nghiệp: Công ty Cổ phần Đầu tư Thương mại Thuỷ sản
Tên giao dịch: INCOMFISH
Địa chỉ: Lô A 77/1 Ðường số 7, KCN Vĩnh Lộc, Quận Bình Tân, TP. Hồ Chí Minh
Tỉnh, Thành phố: Hồ Chí Minh
Điện thoại: (84) 8 7653142/7653145
Fax: (84) 8 7652162/7653136
E-mail: mailto:
Website:
Công ty cổ phần Đầu tư Thương mại Thủy sản (INCOMFISH) được thành lập
01/9/1999 với lĩnh vực hoạt động chính là đầu tư, kinh doanh xuất nhập khẩu hàng
thủy sản đông lạnh.
Là Công ty được thành lập trên cơ sở đóng góp của các cổ đông là thể nhân và pháp
nhân mới dưới hình thức Công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp.
Đến năm 2001, căn cứ theo kế hoạch định hướng khi thành lập đảm bảo phát triển
Công ty bền vững và lâu dài, đồng thời để chủ động nguồn cung cấp sản phẩm cho
xuất khẩu, Công ty đã triển khai dự án xây dựng Nhà máy chế biến thủy sản đông lạnh
tại Khu công nghiệp Vĩnh Lộc – Tp. Hồ Chí Minh.
Sau hơn một năm xây dựng từ năm 2001 đến tháng 6/2002, Nhà máy chế biến thủy sản
đông lạnh xuất khẩu với công suất sản xuất ổn định các mặt hàng có giá trị gia tăng là

6.500 tấn/năm đã đi vào sản xuất thử, sau đó đi vào sản xuất chính thức từ đầu năm
2003 cho đến nay.
Nhà máy Incomfish được đầu tư để chế biến thủy sản, thực phẩm với đa dạng sản
phẩm, được trang bị máy móc thiết bị với công nghệ tiên tiến và đồng bộ.

10
Ngay từ khi bắt đầu hoạt động, Incomfish đã áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng
xuyên suốt quá trình sản xuất để đảm bảo đạt tiêu chuẩn cao về chất lượng và an toàn
vệ sinh thực phẩm như: HACCP, BRC (Brittish Retail Consortium), ISO 9001:2000,
IFS (Intrenational Food Standard), ACC (Aquaculture Certificate Council), MSC
(Marine Stewardships Council). Công ty cũng đang xúc tiến để đạt chứng nhận tiêu
chuẩn SA 8000 về lao động vào cuối năm 2008. Với các Chứng nhận này, sản phẩm
của Công ty có thể đi vào tất cả các hệ thống siêu thị trên toàn cầu.
Ngoài đội ngũ quản lý chất lượng được đào tạo chuyên nghiệp, Incomfish còn quy tụ
được đội ngũ nhà quản lý gồm những người quản trị Công ty đã kinh qua lĩnh vực chế
biến, xuất khẩu thủy sản, có hơn 25 năm kinh nghiệm trên thương trường quốc tế.

Với mặt hàng chủ lực là các sản phẩm giá trị gia tăng trực tiếp vào siêu thị Châu Âu,
Nhật Bản, Hoa Kỳ và một số thị trường đặc biệt khó tính khác, … đã tạo cho Incomfish
có lợi thế cạnh tranh cao so với các nhà máy khác trong nước và khu vực.

Incomfish được phép xuất khẩu sản phẩm thủy sản vào thị trường EU với các code: DL
189, DL 368, NM 188 và HK 187. Bên cạnh đó, Công ty còn cung cấp thực phẩm cho
cộng đồng Hồi giáo trên toàn thế giới thông qua giấy chứng nhận Halal do tổ chức Hồi
giáo quốc tế cấp.

Công ty là thành viên của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP)
và Phòng công nghiệp và thương mại Việt Nam (VCCI).
Vào ngày 29/11/2006, Công ty đã được cấp giấy chứng nhận số 47/TTGDHN-ĐKGD
về việc được đăng ký giao dịch cổ phiếu phổ thông tại Trung tâm Giao dịch Chứng

khoán Hà Nội và đã giao dịch phiên đầu tiên ngày 18/12/2006 và sau đúng một năm
giao dịch tại Hà nội, Công ty đã chuyển vào giao dịch tại Sở Giao dịch Chứng khoán
Tp. Hồ Chí Minh (HoSE) theo Quyết định số 170/QĐ-SGDHCM ngày 11/12/2007 của
HoSE.
Tầm nhìn
Trở thành nhà cung cấp thủy sản giá trị gia tăng hàng đầu Việt Nam và khu vực Đông
Nam Á
Sứ mệnh
Được lãnh đạo bởi một đội ngũ có kinh nghiệm trong ngành công nghiệp chế biến thủy
sản và thành thạo trong phát triển, tiếp thị sản phẩm, với tiêu chí "Chất lượng hôm
nay - Thị trường ngày mai". INCOMFISH cam kết sẽ phát huy tối đa năng lực của
mình để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của khách hàng cũng như của người tiêu
dùng trong và ngòai nước, không ngừng học hỏi kinh nghiệm, chuyên môn nhằm sản
xuất ra các sản phẩm có chất lượng tốt nhất, phù hợp với các tiêu chuẩn cao nhất về an
tòan vệ sinh thực phẩm và tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường.
Giá trị cốt lõi
- CON NGƯỜI LÀ MỤC TIÊU CHO MỌI NỖ LỰC
11
- ĐẶT CHẤT LƯỢNG & AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM LÊN HÀNG ĐẦU
- QUAN TẤM TỐI ĐA BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
- LẤY TRUNG THỰC LÀM THƯỚC ĐO MỌI HOAT ĐỘNG
- ĐẢM BẢO CHỮ TÍN - GIAO HÀNG ĐÚNG HẠN
- QUÁN TRIỆT PHƯƠNG CHÂM “CHẤT LƯỢNG HÔM NAY - THỊ
TRƯỜNG NGÀY MAI”
Vị thế của Công ty INCOMFISH trong ngành thủy sản VN
Incomfish là một trong những công ty thủy sản được đầu tư trang thiết bị hiện đại,
đồng bộ với kỹ thuật tiên tiến thế giới; đội ngũ cán bộ quản lý và kỹ thuật chuyên môn
có hơn 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực chế biến, xuất nhập khẩu thủy sản … góp
phần quan trọng trong việc hiện đại hóa, tăng sản lượng và giá trị ngoại tệ xuất khẩu
cho ngành thủy sản Việt Nam.

Lợi thế của ICF là đã hội tụ được đội ngũ quản lý đã kinh qua lĩnh vực chế biến, xuất
khẩu thủy sản, có nhiều năm kinh nghiệm trên thương trường quốc tế; nhà máy được
trang bị máy móc thiết bị với công nghệ tiên tiến và đồng bộ với kết cấu nhà xưởng; cơ
cấu sản phẩm có tính cạnh tranh cao với các sản phẩm được chế biến có giá trị gia tăng
đưa thẳng vào siêu thị Châu Âu, Nhật Bản, Mỹ; đa dạng nguồn nguyên liệu trong và
ngoài nước, giảm được rủi ro về mùa vụ. Cơ sở hạ tầng, công nghệ, trang thiết bị tốt,
sản phẩm đa dạng, giá thành cạnh tranh, nguồn nguyên vật liệu ổn định, phong phú,
mặt hàng gia công xuất khẩu ổn định, có nhiều tiềm năng tăng trưởng, vị trí kinh doanh
thuận lợi.
Hiện nay, thị trường chủ yếu của Incomfish là Châu Âu và Nhật Bản nên việc đánh
thuế chống phá giá của Mỹ không ảnh hưởng lớn đến họat động sản xuất kinh doanh
của Incomfish. Hơn nữa, Incomfish đang là công ty trong nhóm công ty Việt Nam chịu
thuế chống phá giá với mức thuế thấp nên tác động của các vụ kiện chống bán phá giá
tôm và cá da trơn không ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của Công ty.
Bên cạnh đó công ty được miễn kiểm tra khi xuất khẩu hàng vào thị trường Nhật Bản.
Ngày 26/07/2007, hiệp hội Chế biến Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) đã có
thông báo về việc thông báo danh sách 56 doanh nghiệp, trong đó có INCOMFISH
được miễn kiểm tra khi xuất khẩu hàng thủy sản vào thị trường Nhật Bản. Công ty là
doanh nghiệp đã xuất khẩu nhiều lô hàng liên tiếp vào thị trường Nhật Bản mà không
bị phát hiện nhiễm hóa chất, kháng sinh tính từ 01/01/2007 đến nay.
Định Hướng Phát Triển
Với phương châm “chất lượng hôm nay, thị trường ngày mai” Incomfish đã định
hướng chiến lược lấy chất lượng làm tiêu chí phát triển lâu dài và bền vững. Công ty đã
không ngừng nâng cao vai trò quản lý chất lượng sản phẩm để thỏa mãn yêu cầu ngày
càng cao của người tiêu dùng trong và ngoài nước.
12
Để không ngừng đa dạng hóa sản phẩm, đa phương hóa thị trường, Công ty đã có kế
hoạch đầu tư xây dựng hạ tầng Cụm công nghiệp, hợp tác đầu tư xây mới Nhà máy
đông lạnh ở tỉnh Đồng Tháp trong chương trình hợp tác kinh tế, xã hội giai đoạn từ
năm 2007 - 2010 giữa Tp. Hồ Chí Minh và tỉnh Đồng Tháp. Dự án đang trong quá

trình xây dựng và dự kiến Nhà máy sẽ đi vào hoạt động trong tháng 10/2008, góp phần
đáp ứng nhu cầu rất lớn ngày càng tăng của người tiêu dùng trên toàn thế giới hiện tại
và trong tương lai.
Thực hiện Nghị quyết của Đại hội đồng Cổ đông thường niên năm 2006, tổ chức ngày
20/4/2007 và Đại hội bất thường ngày 10/8/2007 nhằm mở rộng hoạt động sản xuất
kinh doanh, Công ty đã thành lập Công ty Incomfish khu vực Hoa Kỳ và Bắc Mỹ (đặt
tại Hoa Kỳ) và khu vực Châu Âu (đặt tại Bỉ) để chế biến, đóng gói, phân phối các sản
phẩm của Công ty tại hai thị trường lớn nhất thế giới hiện nay. Công ty Incomfish EU
đã đi vào hoạt động từ cuối năm 2007, Công ty Incomfish US đã có Giấy phép hoạt
động của nước sở tại và đã bước đầu triển khai các thủ tục cần thiết liên quan để chính
thức đi vào hoạt động trong tháng 10/2008.
Ngoài ra, với chiến lược phát triền về trung và dài hạn, Công ty cũng đã quyết định đầu
tư vào lĩnh vực bất động sản, thương mại với việc góp vốn vào các dự án như Linh
Xuân đang lập Báo cáo khả thi và Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Saga để xây
dựng cao ốc văn phòng cho thuê tại số 32 đường Mạc Đĩnh Chi, Phường Đakao, Quận
1, Tp. Hồ Chí Minh. Đây là một vị trí mang tính chiến lược tọa lạc tại trung tâm thành
phố Hồ Chí Minh.
Nhãn hiệu thương mại
Ngoài những nhãn hiệu của khách hàng, Công ty còn có các nhãn hiệu truyền thống đã
được các khách hàng biết đến là SHRIMP ONE; LEADER FISH; UNCLE
HUNDREDS, SAIGON PACIFIC;… đến nay vẫn duy trì và phát triển tốt các nhãn hiệu
thương mại này đối với thị trường trên thế giới và trong tương lai không xa sẽ phát triển
các thương hiệu này tại thị trường trong nước. Các nhãn hiệu này đã được Công ty đăng
nhãn hiệu hàng hóa ngay từ năm 2002, 2003.
Chính sách chất lượng
Với phòng kiểm nghiệm riêng cùng các thiết bị kiểm tra đảm bảo thực hiện việc kiểm
tra phân tích sinh - hóa - lý, kháng sinh trên nguyên liệu, dây chuyền sản xuất và thành
phẩm, INCOMFISH cam kết quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm bằng
13
cách thực hiện nghiêm ngặt các quy định HACCP, GMP và SSOP trong suốt tiến trình

mua nguyên liệu, chế biến, đóng gói và phân phối sản phẩm, đảm bảo chất lượng từ
vùng khai thác nguyên liệu đến bàn ăn.

Chính sách về môi trường
INCOMFISH ý thức được trách nhiệm đối với môi trường và luôn xem xét các vấn đề
này trong quá trình chế biến. Chúng tôi cam kết tuân theo các quy định của pháp luật
về môi trường thông qua việc giảm thiểu các tác động đến môi trường bằng cách sử
dụng một cách có hiệu quả và tiết kiệm nguồn nguyên liệu tài nguyên thiên nhiên, giảm
lượng chất thải, chất ô nhiễm trong các hoạt động.
INCOMFISH luôn luôn xác định tầm quan trọng về nhân lực trong quá trình phát triển
của công ty và là một trong những mục tiêu hàng đầu của chúng tôi để đảm bảo việc
kinh doanh và nâng cao uy tín của công ty, thông qua đó chúng tôi cam kết phục vụ
khách hàng bằng các dịch vụ tốt nhất mà chúng tôi có.
Sản phẩm:
• Sản phẩm tươi, sống
• Sản phẩm đông lạnh
• Sản phẩm giá trị gia tăng
• Sản phẩm chế biến ăn liền
• Sản phẩm khô
• Sản phẩm ngâm tẩm
3. Công ty Cổ phần Thuỷ đặc sản
Tên giao dịch: SEASPIMEX – VIETNAM
Địa chỉ: 1004A Đường Âu Cơ, Phường Phú Trung, Quận Tân Phú, TP. Hồ Chí Minh
Tỉnh, Thành phố: Hồ Chí Minh
Điện thoại: (84) 8 9741135/8615252/9741136
Website:
Công ty XNK Thủy Đặc Sản - SEASPIMEX VIETNAM - được thành lập ngày 01-
09-1983 – đánh dấu một bước phát triển lớn mạnh của Tổng công ty Thủy Sản VIET
NAM - SEAPRODEX - nói riêng và Ngành thủy sản lúc bấy giờ nói chung.


Với sự đầu tư đúng mức, với 29 năm kinh nghiệm trên thị trường thế giới và thị trường
nội địa, chắc chắn Công ty Cổ Phần Thủy Đặc Sản sẽ đạt được những thành công vượt
bậc về cung cấp hàng hóa chất lượng, dịch vụ kịp thời, nhanh chóng, tiện ích.
Lĩnh vực sản xuất:
Chuyên sản xuất và sản xuất thực phẩm đông lạnh,tiệt trùng và khô từ hải sản và xúc
sản,nông sản.
- Kinh doanh và phân phối thị trường trong và ngoài nước các sản phẩm thực phẩm
của công ty.
14
- Nuôi trồng thủy sản.
- Kinh doanh dịch vụ :cho thuê kho lạnh,sân bãi,ủy thác xuất nhập khẩu .
- Liên kết đào tạo
BẢN SẮC THƯƠNG HIỆU
- Đáng tin cậy.
- Tận tụy.
- Giàu kinh nghiệm.
- Chuyên nghiệp.
- Sẵn sàng thích ứng.
TẦM NHÌN
- Phát triển vượt bậc về quy mô lẫn độ chuyên sâu, trở thành doanh nghiệp dẫn đầu
trong lĩnh vực Thủy hải sản và Thực phẩm chế biến trong nước, vươn ra chinh phục
khu vực châu Á lân cận.
- Trở thành một doanh nghiệp kinh doanh đa ngành nghề lấy lĩnh vực chủ đạo là Sản
xuất và Kinh doanh Thủy hải sản - Thực phẩm chế biến làm nòng cốt.
4. Tên Doanh nghiệp: Công ty Cổ phần Thuỷ sản số 1
Tên giao dịch: SEAJOCO VIETNAM
Được thành lập từ năm 1988, Xí Nghiệp Mặt Hàng Mới hay Factory No.1 là một
doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu Thủy sản đầy uy tín. Đến tháng 7/2000, xí
nghiệp được cổ phần hóa và đổi tên là Công ty Cổ Phần Thủy sản Số 1 (Tên giao
dịch: SEAJOCO VIETNAM).


Giữ vững và phát huy truyền thống “Uy tín, Chất lượng”, công ty chúng tôi không
ngừng nỗ lực đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ quản lý, năng lực cán bộ, tay
nghề công nhân để trở thành một trong những nhà sản xuất và cung cấp thủy sản
hàng đầu của Việt Nam.

Chúng tôi có hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn Quốc tế ISO 9001-2000 và
tiêu chuẩn thực phẩm tòan cầu BRC trên cơ sở áp dụng HACCP, GMP và SSOP. Cả
hai phân xưởng sản xuất của công ty đều đạt tiêu chuẩn An Tòan Vệ sinh Công
Nghiệp do Bộ Thủy sản cấp và có giấy phép xuất vào thị trường Châu Âu DL01 &
DL157.

Sản phẩm của chúng tôi rất đa dạng và đa số là các mặt hàng chế biến giá trị cao từ
tôm, mực, bạch tuộc, ghẹ, cá. Sản phẩm của chúng tôi được xuất đi và luôn làm hài
lòng các bạn hàng Nhật Bản, Châu âu (Pháp, Bỉ, Hà lan…), Mỹ, Úc… Sản phẩm của
chúng tôi cũng được tiêu thụ mạnh trong nước thông qua các hệ thống siêu thị, nhà
hàng như: METRO, LOTTERIA…
Với phương châm
15

“Chất lượng – Uy tín : Sự sống còn của công ty”
“ Hợp tác cùng chia sẻ lợi nhuận”
Tài sản & Cơ sở vật chất
1. Vị trí: Nằm ở Quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh, cách các vùng nguyên liệu
lớn: Vũng Tàu, Long An, Bến Tre, Tiền Giang, Phan Thiết từ 2-6 giờ xe.
2. Tổng diện tích 13.419 m2 Trong đó diện tích nhà xưởng 4.500 m2 (gồm 2 phân
xưởng sản xuất)
3. Vốn điều lệ 35 tỷ VNĐ.
4. Công suất cấp đông 15 tấn thành phẩm / ngày. (Gồm 1 hệ thống băng chuyên
IQF, 2 tủ đông gió, 4 tủ đông tiếp xúc, 2 hầm đông)

5. Công suất kho lạnh: 1200 tấn
6. Các máy móc chuyên dùng trong chế biến thủy sản như: máy xay, máy trộn, máy
hấp, máy dò kim lọai…
7. Hệ thống xử lý nước 250 m3/ngày. Máy làm đá vảy 20 tấn / ngày.
8. Phòng thí nghiệm sinh – hóa: kiểm nghiệm nguồn nguyên liệu, nguồn nước và
sản phẩm hàng ngày theo tiêu chuẩn ngành, quốc gia và theo yêu cầu của khách
hàng.
Ngoài ra, chúng tôi còn có một nguồn tài sản vô cùng quí báu, đó là:
- Hơn 600 kỹ sư và công nhân lành nghề, tận tâm
- Chứng chỉ ISO 2001, BRC, HACCP
- Chứng nhận An Tòan Vệ sinh Công Nghiệp do Bộ Thủy Sản cấp
- Giấy phép xuất khẩu vào thị trường Châu Âu: DL01 & DL157
Sản phẩm
Sản phẩm tẩm bột
Sản phẩm giá trị gia tăng
Tôm, cá, ghẹ.
Kết luận:
16
CHƯƠNG III:
GIẢI PHÁP NÂNG CAO VĂN HÓA DOANH NGHIỆP NGÀNH CHẾ BIẾN
THỦY HẢI SẢN
1. Trước hết cần bổ sung, hoàn thiện văn hóa doanh nghiệp tạo cơ sở vững
chắc cho sự phát triển của doanh nghiệp

2. Cần nâng cao nhận thức về văn hóa doanh nghiệp trong doanh nghiệp:
 Trước hết các phương tiện thông tin đại chúng nên tiến hành phổ cập các
kiến thức về văn hóa doanh nghiệp. Nhằm định hướng hành vi của nhân
viên.
 Tổ chức các lớp học cho nhân viên về văn hóa của doanh nghiệp, chọn lựa
dịch và xuất bản một số sách có uy tín của nước ngoài về đề tài này… Nên

lưu ý là sách cho doanh nghiệp cần ngắn gọn, nhiều tình huống thực tế, kiểu
Cẩm nang về đạo đức kinh doanh chẳng hạn… Các Trường Cao đẳng, Đại
học khối Kinh tế cũng cần đưa nội dung về đạo đức kinh doanh vào chương
trình đào tạo của mình, có thể dưới dạng một môn riêng hay gài vào các môn
học khác như quản trị nhân sự, nghiệp vụ kinh doanh… Vì bản quyền của
các sách kinh doanh thường đắt và dịch thuật không dễ dàng, nên có thể
tranh thủ sự trợ giúp của các tổ chức nước ngoài để đảm bảo hiệu quả cho
việc làm này.
3. Cần có những biện pháp khuyến khích nhân viên trong doanh nghiệp nâng
cao văn hóa cũng như đạo đức của mình:
 Chúng ta cần ý thức rằng, không có ranh giới cố định nào về đạo đức mà đạo
đức là một phạm trù mà con người luôn cần vươn lên để đạt đến nó. Rất khó
kiểm soát đạo đức vì nó vượt xa hơn việc tuân thủ pháp luật rất nhiều.
 Với đạo đức trong văn hóa doanh nghiệp cũng như trong kinh doanh, vấn đề
còn phức tạp hơn vì việc tuân thủ đạo đức trong ngắn hạn thường không đem
lại lợi nhuận cho doanh nghiệp, trong khi lợi nhuận mới là mục đích chính
của doanh nghiệp. Vì vậy, các cơ quan hữu quan cần có những biện pháp để
khuyến khích doanh nghiệp có thành tích, có thể đưa việc có thành tích trong
đạo đức kinh doanh là một tiêu chuẩn để xét. Các cơ quan thông tin đại
chúng có thể đăng bài tôn vinh những doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn này…
Ngược lại, các cơ quan quản lý cũng cần có biện pháp phạt những doanh
nghiệp vi phạm đạo đức kinh doanh với mức phạt tương xứng. Không thể
tiếp tục tình trạng doanh nghiệp buộc người lao động làm thêm giờ 16 -
20h/ngày hàng tuần liền đến mức lao động ngất xỉu mà chỉ bị phạt vài triệu
VND; Các doanh nghiệp vi phạm quy định bảo vệ môi trường như xả hóa
chất ra sông làm cá chết hàng loạt, người dân không có nước sinh hoạt…mà
lại được cho phép tiếp tục hoạt động trong khi tìm biện pháp xử lý….
17
 Cũng như văn hóa, đạo đức nói chung và đạo đức kinh doanh nói riêng là
những phạm trù phức tạp, cần nhiều thời gian và công sức để hoàn thiện và

phát triển. Là một quốc gia đang phát triển, mới tham gia vào tiến trình toàn
cầu hóa, những phạm trù như văn hóa kinh doanh, đạo đức kinh doanh còn
khá mới mẻ ở Việt nam. Được biết trong thời gian tới, chính phủ Việt Nam
đang có chủ trương nâng cao trình độ nhận thức cho người dân và doanh
nghiệp về các vấn đề có liên quan đến hội nhập KTQT và toàn cầu hóa. Bộ
Giáo dục và Đào tạo cũng đang khuyến cáo các trường Đại học và Cao đẳng
cần đổi mới chương trình đào tạo cho phù hợp với trình độ chung trên thế
giới. Có được những yếu tố thuận lợi này và truyền thống đạo đức lâu đời
của người Việt Nam, hy vọng là trong thời gian tới, nhận thức của người VN
về DDKD sẽ nhanh chóng được nâng cao, góp phần duy trì sự phát triển bền
vững và nâng cao chất lượng đời sống cho người dân Việt Nam .
4. Cần kiểm soát chặt chẽ các thông tin trong nhân viên nhằm ngăn chặn sự
chống phá ngầm của một số nhân viên và của các đối thủ cạnh tranh
18

×