Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Người lái đò sông Đà - Một thiên tùy bút có thần pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.84 KB, 7 trang )

Người lái đò sông Đà - Một thiên tùy bút có thần

Sông Đà - một trận đồ tự nhiên hùng vĩ, được xây dựng bằng hai chất liệu nước và
đá, lỏng và cứng, cuồn cuộn tuôn dài, nhấp nhô ngang dọc mà tạo hoá đã ban cho
vùng Tây Bắc nước Nam ta. Công trình tự nhiên ấy đã và đang biến đổi theo thời
gian. Còn một công trình Sông Đà nghệ thuật được xây dựng bằng ngôn ngữ mà
Nguyễn Tuân đã để lại cho lịch sử văn học Việt Nam, để lại cho đời trên trang tuỳ
bút thì mãi mãi vẫn còn nguyên vẹn, vẹn nguyên.

Đọc Người lái đò Sông Đà, ta như gặp được một cây đại bút "thông tạo hoá" và
một ông đò cũng "thấu càn khôn". Cả hai đều thấu hiểu sự ảo diệu của tự nhiên,
đều nắm vững quy luật xung - hợp, sinh - khắc chế hoá lẫn nhau của vũ trụ. Trên
trang tuỳ bút, Sông Đà vừa cất giấu, vừa phô bày vẻ đẹp tuyệt mỹ của tạo hoá -
một vẻ đẹp vừa hung hãn, như hoang dại lại như tình tứ mộng mơ. Ông đò Lai
Châu vừa là người lao động lực lưỡng, gân guốc, vừa là nghệ sĩ tài ba. Nhiều lúc
ta như thấy Nguyễn Tuân hoá thân vào ông đò Lai Châu. Tay lái của ông đò cảm
đâu là ứng đó, ứng đâu là hành đó không sớm cũng không muộn, qua bao thác
ghềnh vẫn cứ bình an. Phải chăng trời đã cho ông tuệ nhãn? Thân hình ông khoẻ
mạnh "gọn quánh như chất sừng, chất mun". Ông còn là nghệ sĩ tài hoa trong nghệ
thuật vượt thác qua ghềnh. Chất nghệ sĩ trong ông là ở cánh tay chèo lái là ở đôi
chân giữ thế tạo đà cứ như là vũ điệu vừa nhịp nhàng vừa ăn ý với bản nhạc giao
hưởng của nước sông, của đá núi, của gió ngàn. Nhưng cái chính của chất nghệ sĩ
trong ông là lòng yêu đời, yêu nghề, say mê khám phá sự huyền diệu cứ bay lên
với đôi cánh lãng mạn. Miêu tả ông lái đò Lai Châu, Nguyễn Tuân muốn gửi đến
người đọc những thông điệp gì? Cuộc sống không phải lúc nào cũng như khúc
sông phẳng lặng mà có lúc, nhiều lúc thác ghềnh. Sống là phải biết chấp nhận,
phải bơi lội, chèo lái để vượt qua thác, băng qua ghềnh chứ không phải là kéo
thuyền lên bờ để ngắm nhìn để chờ đợi? Những đoạn văn Nguyễn Tuân miêu tả
ghềnh thác ở Sông Đà làm cho người đọc vừa sợ lại vừa yêu, vừa muốn lánh xa lại
vừa muốn lăn vào. Đây là ghềnh Hát Loóng dài hàng cây số: "Nước xô đá đá xô
sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ


xuýt". Và đây nữa: " còn xa lắm mới đến cái thác dưới nhưng đã thấy tiếng
nước réo gần mãi lên, réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi
lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó
rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre
nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa." "Sóng thác đã đánh đến đòn độc hiểm
nhất Mặt sông trong tích tắc loé sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa
xuống mà châm lửa vào đầu sóng Ông đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông
thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này".
Nguyễn Tuân vừa biết dùng người, viết câu hay, tả cảnh hợp, tả tình sâu nên cuốn
hút người đọc và tôn vinh vẻ đẹp của con người, của thiên nhiên. Văn của Nguyễn
Tuân đúng là như thế vừa "chân nhân" vừa "chân trí" - một thứ văn ngang dọc. Tai
nghe tiếng nước, mắt ngắm xoáy sâu, câu văn đã dứt mà âm thanh vẫn còn vang
vọng, khí văn vẫn còn phảng phất như khói mây. Vượt qua 73 thác ghềnh, ông đò
Lai Châu vẫn đĩnh ngộ thông tuệ, không để luỵ tâm, không làm tổn trí. Đi thuyền
không sợ thác ghềnh vừa là dũng lược vừa là mưu lược của Nguyễn Tuân và ông
đò Lai Châu. Nguyễn Tuân quan sát ông đò chèo lái con thuyền then vuốt đuôi én,
giống như thầy trò Khổng Tử xem người đàn ông bơi ở Lã Lương. Nguyễn Tuân
cùng với người lái đò Sông Đà vừa tìm kiếm vừa khám phá, vừa chinh phục lại
vừa tôn vinh. "Thạch trận" trên Sông Đà. Cách xa Nguyễn Tuân, cách xa chúng ta
mấy trăm năm về trước, Nhà Bác học, Nhà Danh nhân văn hoá Lê Quý Đôn cũng
đã viết về sông Đà. Bên cạnh những ghềnh thác hiểm trở, Lê Quý Đôn còn cho ta
biết nhiều tư liệu kỳ thú: "Hạ lưu Vạn bờ có núi Ngải trước mặt trông ra sông Đà,
đối ngạn là xứ Ngòi Lạt, trên núi có cây Ngải Tiên. Mùa xuân hoa rụng xuống
nước, cá uống nước này liền vượt được Long Môn hoá rồng sông Đà nước sông
trong suốt, chảy xuống các động Phà Tây, Hảo Tề thuộc châu Quỳnh Nha
Đường sông thác ghềnh hiểm trở, gồm 83 thác có tiếng mà Vạn bờ là thác nguy
hiểm thứ nhất" (Kiến văn tiểu lục - trang 345)

Nguyễn Tuân đã không còn để pha màu, chế bản, tạo hình tôn vinh những mẫu
đẹp cho đời đã 20 năm nay nhưng trên những trang viết chứa học thuật, tụ tinh hoa,

phong độ Nguyễn Tuân vẫn như núi đứng, tinh thần Nguyễn Tuân vẫn như mây
bay. Những bản nhạc của nước của đá, của thác của ghềnh, người đọc, người học
lắng nghe để mà nghĩ tới cái âm vang sâu thẳm nơi cõi lòng tác giả? Ghềnh sông
dài, thác sông lớn, xoáy nước sâu đã khơi dậy những gì tiềm ẩn nơi sâu kín nhất, u
linh nhất của tác giả và ông đò Lai Châu. Ghềnh và thác trong tự nhiên cũng là
ghềnh và thác trong cuộc sống đã bung nở trong nhãn tuệ của Nguyễn Tuân để
Nguyễn Tuân gửi tới người đọc, người học qua thiên tuỳ bút có thần.

Tìm hiểu người lái đò sông đà
I/ Tìm hiểu chung:

1. Tác phẩm: Người lái đò sông Đà:

+ Thể loại: Tùy bút : Xem phần Tri thức đọc- hiểu ( trang 159 - SGK )
+ Xuất xứ: Bài tùy bút được in trong tập Sông Đà (1960).
+ Hoàn cảnh ra đời:Thành quả thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào
hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi.
+ Tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo của NT: uyên bác, tài hoa, không
quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn
bề, nhằm tìm ra những chữ nghĩa xác đáng nhất.
+ Cho thấy diện mạo của một NT mới mẻ, khao khát được hòa nhịp với đất nước
và cuộc đời (không giống với NT trước CM, con người chỉ muốn xê dịch cho
khuây cảm giác “thiếu quê hương”)
+ Cảm hứng chủ đạo: Nhiệt tình ca ngợi Tổ quốc, ca ngợi nhân dân của một nhà
văn mà trái tim đang tràn đầy niềm hứng khởi khi thấy nay mình đã có đất nước,
mình đã không còn “thiếu quê hương”.

II/ Đọc - hiểu văn bản:

1. Hình tượng con sông Đà


a. Một con sông hung bạo:

- Quan sát công phu, tìm hiểu kĩ càng để khắc họa sự hung bạo trên nhiều dạng vẻ:

+ Lòng sông có quãng hẹp như chiếc yết hầu bị đá bờ sông dựng vách thành…
+ Trong khung cảnh mênh mông hàng cây số của một thế giới đầy gió gùn ghè, đá
giăng đến chân trời và sóng bọt tung trắng xóa.
+ Những cái hút nước xoáy tít lôi tuột mọi vật xuống đáy sâu.
+ Những trùng vi thạch trận sẵn sàng nuốt chết con thuyền và người lái.
+ Âm thanh luôn thay đổi: oán trách nỉ non à khiêu khích, chế nhạo à rống lên.

- Vận dụng ngôn ngữ , kiến thức của các ngành, các bộ môn trong và ngoài nghệ
thuật để làm nên hàng loạt so sánh liên tưởng, tưởng tượng kì lạ, bất ngờ.

+ Hình dung một cảnh tượng rất đỗi hoang sơ bằng cách liên tưởng đến hình ảnh
của chốn thị thành, có hè phố, có khung cửa sổ trên “cái tầng nhà thứ mấy nào vừa
tắt phụt đèn điện”.
+ Tả cái hút nước quãng Tà Mường Vát: “nước thở và kêu như cửa cống cái
bị sặc…ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.”
+ Lấy hình ảnh “ô tô sang số nhấn ga” trên “quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ
vực” để ví von với cách chèo thuyền vượt qua chỗ nguy hiểm
+ Tưởng tượng về cú lia ngược của chiếc máy quay từ đáy cái hút nướcà cảm thấy
có một cái thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối
đúc dày.
+ Dùng lửa để tả nước.
->Biểu tượng về sức mạnh dữ dội và
vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên đất nước.
->Bậc kì tài trong lĩnh vực sử dụng
ngôn từ (sự phá cách mà ngoại trừ các tay bút thực sự tài hoa, không ai làm nổi)


b. Một con sông Đà trữ tình:

- Viết những câu văn mang dáng dấp mềm mại, yên ả, trải dài như chính dòng
nước: con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình,

- Dụng công tạo ra một không khí mơ màng, khiến người đọc có cảm giác như
được lạc vào một thế giới kì ảo.

+ Con sông giống như một cố nhân lâu ngày gặp lại.
+ Nắng cũng “giòn tan” và cứ hoe hoe vàng mãi cái sắc Đường thi “yên hoa tam
nguyệt”
+ Mũi thuyền lặng lẽ trôi trên dòng nước lững lờ như thương như nhớ.
+ Con hươu thơ ngộ trên áng cỏ sương như biết cất lên câu hỏi không lời.
+ Bờ sông hoang dại và hồn nhiên như một bờ tiền sử, phảng phất nỗi niềm cổ tích.
Ø Sự tài hoa đã đem lại cho áng văn.
những trang tuyệt bút.
Ø Tạo dựng nên cả một không gian.
trữ tình đủ sức khiến người đọc say đắm, ngất ngây.

2. Hình tượng người lái đò trong cuộc chiến đấu với con sông Đà hung bạo:

- Tính chất cuộc chiến: không cân sức

+ Sông Đà: sóng nước hò reo quyết vật ngửa mình thuyền; thạch trận với đủ 3 lớp
trùng vi vây bủa, được trấn giữ bởi những hòn đá ngỗ ngược, hỗn hào và nham
hiểm à dữ dội, hiểm độc với sức mạnh được nâng lên hàng thần thánh.
+ Con người: nhỏ bé, không hề có phép màu, vũ khí trong tay chỉ là chiếc cán
chèo trên một con đò đơn độc hết chỗ lùi.


- Kết quả: Thác dữ đã không chặn bắt được con thuyền; con người chiến thắng sức
mạnh thần thánh của tự nhiên.

+ Con người cưỡi lên thác ghềnh, xé toang hết lớp này đến lớp kia của trùng vi
thạch trận; đè sấn được sóng gió, nắm chặt cái bờm sóng mà thuần phục sự hung
hãn của dòng sông.
+ Những thằng đá tướng phải lộ sự tiu nghỉu, thất vọng qua bộ mặt xanh lè.

- Nguyên nhân làm nên chiến thắng: sự ngoan cường, dũng cảm, tài trí, chí quyết
tâm và nhất là kinh nghiệm đò giang sông nước, lên thác xuống ghềnh.

* Nhận xét:

+ Thiên nhiên: vàng; con người lao động: vàng mười à trong cảm xúc thẩm mĩ của
tác giả, con người đẹp hơn tất cả và quý giá hơn tất cả.
+ Con người được ví với khối vàng mười quý giá lại chỉ là những ông lái, nhà đò
nghèo khổ, làm lụng âm thầm, giản dị, vô danh.
+ Những con người vô danh đó đã nhờ lao động, nhờ cuộc đấu tranh chinh phục
thiên nhiên mà trở nên lớn lao, kì vĩ, hiện lên như đại diện của Con Người.
Ø Nét độc đáo trong cách khắc hoạ:

- Tô đậm nét tài hoa nghệ sĩ.

- Tạo tình huống đầy thử thách để
nhân vật bộc lộ phẩm chất.

- Sử dụng ngôn ngữ miêu tả đầy cá
tính, giàu chất tạo hình.

=>Khúc hùng ca ca ngợi con người,

ca ngợi ý chí của con người, ca ngợi lao động vinh quang đã đưa con người tới
thắng lợi trước sức mạnh tựa thánh thần của dòng sông hung dữ. Đó chính là
những yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc và của những người
lao động nói chung.

III/ Tổng kết

+ Nội dung : Ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây bắc.
+ Thể hiện những nét đặc sắc của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: Tài hoa
uyên bác. Tinh thần lao động NT nghiêm túc, say mê.



×