Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

UNG THƯ TUYẾN GIÁP VÀ TCHERNOBYL doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.66 KB, 5 trang )

UNG THƯ TUYẾN GIÁP VÀ TCHERNOBYL


Professseur André Aurengo, Médecine nucléaire et Biophysique, Membre de
l’Académie nationale de médecine
Ở Ukraine, Biélorusie và Nga, tai nạn vào tháng tư năm 1986, đã phá hủy
trung tâm nguyên tử Tchernobyl, đã gây nên khoảng 5000 ung thư tuyến
giáp, xảy ra nơi các trẻ em hay trong tử cung vào lúc tai nạn ; Trong số các
nạn nhân này, có khoảng 15 trường hợp tử vong. Ở Pháp, ngày nay “mây”
phóng xạ (nuage radioactif) vẫn còn là đối tượng gây tranh cãi, và mặc dầu
những lời chối bỏ liên tiếp của các nhà khoa học, sự gia tăng đều đặn của
các ung thư tuyến giáp vẫn được quy một cách hệ thống vào những hậu quả
của Tchernobyl. Hiện nay chúng ta không có một tiêu chuẩn sinh học nào
cho phép quy một ung thư là do phóng xạ hay không, nhưng nhiều sự kiện
cho thấy rằng sự gia tăng ung thư tuyến giáp ở Pháp không phải là do
Tchernobyl.
MỘT THÀNH KIẾN
Sự gia tăng này đã bắt đầu 10 năm trước khi tai nạn Tchernobyl và đã không
gia tăng từ năm 1986; ta gặp sự gia tăng này trong tất cả các nước phát triển
(bị lây nhiễm hay không bởi tai nạn), nơi đây người ta thực hiện siêu âm ; sự
gia tăng này chỉ liên quan đến những người lớn, trong khi một “hậu quả
Tchernobyl” chỉ liên quan đến các trẻ em rất nhỏ tuổi hay trong tử cung vào
năm 1986; Iode phóng xạ chỉ gây ung thư tuyến giáp nơi trẻ em. Đó là điều
được chứng tỏ bởi những công trình nghiên cứu được thực hiện trên 45.000
người trưởng thành được điều trị hay thăm dò bằng iode 131, hay quá trình
theo dõi của những người bị phát xạ (irradiés) ở Hiroshima và Nagasaki. Các
trẻ em của Liên Xô trước đây đã bị ung thư tuyến giáp sau Tchernobyl, 80%
dưới 5 tuổi và 98% dưới 10 tuổi vào năm 1986. Những ung thư tuyến giáp
này chỉ được quan sát đối với những liều lượng tuyến giáp trên khoảng 100
miligray (mGy, đơn vị liều lượng phát xạ). Thế mà, nhờ nhiều đo lường
được thực hiện vào năm 1986 bởi Service central de protection chống lại các


tia bức xạ ion hóa lên các thực phẩm, ta đã có thể chia nước Pháp thành 4
vùng trong nó những liều trung bình nhận được giảm từ đông sang tây.
Những liều tối đa đối với tuyến giáp là từ 7 đến 16 mGy.
NHIỀU UNG THƯ HIỀN TÍNH
Đúng là có một sự gia tăng các trường hợp ung thư tuyến giáp, nguyên nhân
thật sự ở đâu ? Phần lớn các chuyên gia nghĩ rằng sự gia tăng này chủ yếu là
do sự phát triển của siêu âm, của tế bào học (cytologie) và sự tiến bộ của các
thực hành ngoại khoa. Ngay trước khi xảy ra tai họa Tchernobyl, ta đã biết
rằng nơi 6 đến 28% những người trưởng thành, có những ung thư tuyến giáp
rất nhỏ, không phát triển và phần lớn không được nhận biết. Nếu ta tìm kiếm
chúng bằng siêu âm (cho phép phát hiện một nốt tuyến giáp kích thước vài
milimet), thì ta sẽ tìm thấy, thế mà các thống kê bị thổi phồng lên bởi những
ung thư nhỏ không nghiêm trọng này. Ngoài ra, trong khi những phương
pháp điều trị đã ít thay đổi, tỷ lệ tử vong do ung thư tuyến giáp giảm, một
cách yếu ớt nhưng đều đặn. (LE FIGARO 21/5/2010)
6/ UỐNG NƯỚC ĐỂ BẢO VỆ THẬN
Ngày quốc tế về thận (Journée du rein) nhắc nhở chúng ta làm sao ngăn
ngừa các căn bệnh của thận vốn âm thầm quá lâu.
NEPHROLOGIE. Mỗi năm, do chẩn đoán muộn, hàng triệu người trên thế
giới chết sớm vì suy thận mãn tính hay vì những biến chứng của nó. Thế mà
bệnh thận, nói chung tiến triển âm thầm không triệu chứng rất lâu trước khi
được khám phá, nhất là do một bệnh đái đường hay một cao huyết áp, có thể
được làm chậm lại với điều kiện được phát hiện kịp thời. Chính trong bối
cảnh này mà Liên đoàn quốc tế của các cơ sở về thận đã quyết định phát
động mỗi năm, vào ngày 11 tháng ba đối với năm 2011, ngày thế giới về
thận (Journée mondiale du rein), nhằm nhắc lại các chiến lược phòng ngừa
và điều trị những căn bệnh mà người ta chỉ nhắc đến rất hiếm hoi trong giới
truyền thông. Hôm nay, trong bối cảnh này, một hội nghị được tổ chức ở
Académie de médecine về đề tài, thận, nước và sức khỏe. Thận bài tiết nước,
trước hết đuợc lọc bởi các vi cầu thận, vận chuyển các chất cặn bã của cơ thể

hòa tan trong huyết thanh và lưu thông trong các huyết quản. Nhà máy hóa
học, mà đại biểu là các ống thận (tubules rénaux) sau đó sẽ biến đổi hoàn
toàn thành phần của nước tiểu nguyên phát (urine primitive) này để cô đọng
các chất phế thải trong một thể tích nhỏ nước và thích ứng sự phế thải vài
ion sinh tử như sodium, potassium, calcium… tùy theo nhu cầu của cơ thể,
đồng thời có tính đến hoạt động của các cơ quan, chế độ ăn uống, môi
trường. Trong trường hợp suy thận, cơ quan này không còn có thể làm tròn
chức năng, với nguy cơ tích lũy nước và các sản phẩm độc trong cơ thể. Mỗi
phút, 600 ml nước đến trong thận. Thận lọc 20%, hoặc 170 lít mỗi ngày, tái
hấp thụ 99%, 1% còn lại tạo thành nước tiểu. “Nước được liên kết chặt chẽ
với bệnh thận, BS Brigitte Lantz , tổng thư ký của Fondation du rein (Paris)
đã giải thích như vậy. Những người không uống đủ nước, một mặt có nguy
cơ gia tăng bị sỏi thận. Điều căn bản là uống mỗi ngày 1 lít rưởi đến 2 lít
nước. Mặt khác nước robinet có chất lượng rất tốt. Những người già mất
cảm giác khát và thường uống ít, ngay cả khi trời nắng. Khi đó họ bị đe dọa
mất nước (déshydratation). Đó là một trong những lý do họ đã là những nạn
nhân chủ yếu của mùa hè đỏ lửa năm 2003. “Một sự cung cấp nước không
đủ có thể dẫn đến nơi những người già một sự suy thận chức năng, BS Lantz
nói thêm như vậy. Do đó cần phải khuyến khích họ uống nước.
3 TRIỆU BỆNH NHÂN Ở PHÁP
Ngược lại, những người bị suy thận mãn tinh và được điều trị bằng thẩm
tách (dialyse) không thể uống cho đã khát. Việc mất chức nằng thận gây nên
sự ứ trong cơ thể những chất dịch được uống vào, mà chỉ có thẩm tách mới
có thể loại bỏ nhằm tái lập sự quân bình. Sự mất quân bình có nghĩa là lên
cân, phù nề, cao huyết áp, các biến chứng tim mạch và não. Ở Pháp, gần 3
triệu người bị một bệnh thận, 37.000 người đang được thẩm tách và 31.000
người đã được ghép thận. Mỗi năm, 8000 bệnh nhân mới được thẩm tách.
Fondation du rein đã được thành lập vào tháng ba năm 2002 theo sáng kiến
của nhiều société savante và các hiệp hội trong mục đích thông tin công
chúng.

×