Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Thuốc điều trị viêm gan mạn tính do virut B docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.37 KB, 5 trang )

Thuốc điều trị viêm gan mạn tính do virut B



Viêm gan virut B luôn là vấn đề có tính thời sự, nhất là ở các nước châu
Á và châu Phi. Viêm gan virut B (VGB) là một bệnh truyền nhiễm ở
người do virut viêm gan B (HBV) gây nên và là một bệnh để lại nhiều
hậu quả nghiêm trọng.
Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới, hơn 1/3 dân số thế giới đã từng bị
nhiễm HBV với khoảng 400 triệu người mang HBV mạn tính (HBsAg
dương tính). Hằng năm trên thế giới có khoảng hơn một triệu người tử vong
do biến chứng của VGB mạn tính, xơ gan, ung thư gan và bệnh gan giai
đoạn cuối. Mục đích điều trị VGB mạn tính là làm sạch virut, cải thiện quá
trình viêm và hoại tử ở gan. Tuy nhiên, để điều trị VGB mạn tính có kết quả
và thành công là một vấn đề hết sức nan giải.
Với mục tiêu trên, cho đến tháng 12/2006 đã có 4 loại thuốc điều trị HBV đã
được Cơ quan quản lý Thuốc và Thực phẩm Mỹ (FDA) công nhận là:
interferon, lamivudin, adeforvir và entercavir.
- Interferon: Interferon có hai loại a và b trong đó interferon a là thuốc sử
dụng khá rộng rãi trong điều trị VGB và viêm gan mạn tính hơn một thập kỷ
nay. Cơ chế tác dụng kháng virut của interferon a đã được biết khá rõ. Tuy
nhiên, tác dụng kháng virut này là không đặc hiệu và hiệu quả tác dụng cũng
còn hạn chế. Nhiều nghiên cứu cho thấy sử dụng interferon a liều 3-5 triệu
UI trong thời gian 4-6 tháng chỉ khoảng 30-40% chuyển đảo huyết thanh và
khoảng 10% mất HBV-DNA. Tuy nhiên, sau ngừng thuốc một thời gian gần
5% bệnh nhân tái phát, xuất hiện HBV- DNA trở lại, mặt khác interferona
nhiều tác dụng phụ, cần điều kiện bảo quản khá nghiêm ngặt (nhiệt độ từ 2 -
8oC), nên khi vận chuyển đi xa gặp nhiều khó khăn.
Hiện nay, người ta đã sản xuất và sử dụng peg interferona - 2a để điều
trị VGB, tuy nhiên giá thành đắt và có nhiều phản ứng phụ.
- Lamivudin: Là loại thuốc tương đồng nucleoside được sử dụng điều trị


viêm gan B mạn tính từ 10 năm nay. Lamivudin cũng tương tự như các chất
nucleoside gây ức chế quá trình tổng hợp DNA của virut. Sử dụng lamivudin
liều 100mg hằng ngày sau 12 tháng thấy tỷ lệ chuyển đảo huyết thanh là 16 -
18% (so với nhóm giả dược chỉ có 4 - 6% chuyển đảo huyết thanh).
Tuy nhiên, người ta nhận thấy rằng hiện tượng kháng thuốc xảy ra tỷ lệ
thuận với thời gian dùng thuốc. Sau 4 năm sử dụng tỷ lệ kháng thuốc lên tới
70% và hơn nữa, khả năng tái phát sau khi dùng thuốc là khá cao. Thuốc ít
độc, dùng kéo dài gây tốn kém.
- Adeforvir: Cũng là thuốc thuộc nhóm tương đương nucleoside được sử
dụng nhiều nước trên thế giới và được nhập vào Việt Nam từ tháng 11/2004.
Thuốc có tác dụng ức chế sự nhân lên của virut. Người ta nhận thấy tỷ lệ
kháng thuốc của adeforvir ngày càng cao và có những cơn bùng phát viêm
gan cấp và nặng trên bệnh nhân ngừng thuốc.
- Entercavir (tên thương mại của Baraclude) là một đồng đẳng
nucleoside, một chất guanosine có hoạt tính chọn lọc kháng lại HBV. Tên
hóa học của entecavir là 2 - amino – 1,9- dihydro - 9[(1S,3R,4S) – 4hydroxy
– 3 –(hydroxymethyl) – 2 menthylenecyclopentyl] 6 H – purin – 6 – one,
monohydrate. Công thức phân tử là C12H15N5O3-H2O trọng lượng phân tử
295,3 .
Entecavir được sử dụng trong điều trị viêm gan B từ đầu năm 2005, tỷ lệ
kháng thuốc chưa thấy công bố sau 2 năm điều trị. Song, cũng có một số ít
trường hợp kháng thuốc được phát hiện ở những ca đã kháng lamivudin
Đây là loại thuốc điều trị viêm gan B mạn tính bằng cách giảm số lượng
virut, giảm nguy cơ xơ gan và ung thư gan. Thuốc chống virut với cơ chế tác
dụng ức chế chọn lọc cả giai đoạn tổng hợp trong quá trình nhân bản (khởi
đầu, sao chép ngược và tổng hợp ADN) của HBV trong gan. Baraclude được
chỉ định điều trị cho người lớn có bằng chứng virut đang sao chép hoặc bị
tăng dai dẳng các aminotranserase huyết thanh (ALT hoặc AST), hay bệnh
đang hoạt động về phương diện mô học. Thời gian điều trị tùy theo đáp ứng,
thường là từ 24-48 tuần.

Gần đây, FDA chấp thuận đưa vào dược phẩm mới chống virut có tên gọi
telbivudin, thuốc có ít tác dụng phụ, sau 2 năm thử nghiệm đã tỏ ra có hiệu
quả. Thuốc một mặt chữa trị tốt hơn, mặt khác lại có tác dụng tốt với các
trường hợp đã kháng với các thuốc trước đó. Ngoài ra, ưu điểm của
telbivudin là có thể kết hợp với các dược phẩm cũ đã được sử dụng để điều
trị diệt virut viêm gan B tốt hơn. Thuốc hiện mới được bán ở Mỹ, trong
tương lai gần sẽ được bán rộng rãi ở các thị trường dược trên thế giới.
Việc phát hiện qua các triệu chứng như mệt mỏi, ngứa, sốt nhẹ, đau tức vùng
gan, nước tiểu sẫm màu và qua xét nghiệm chứng minh cần được chữa trị
kịp thời tránh chuyển sang mạn tính. Các thuốc trên đây thực chất không thể
chữa trị được dứt điểm bệnh gan đã mắc mà chỉ có vai trò ngăn chặn và hoặc
tái tạo một phần, giảm thiểu sự phá hoại của virut cải thiện các triệu chứng
bệnh lý mà thôi. Tốt nhất và trước tiên phải biết giữ gìn cho gan khỏe mạnh.

×