Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

ÐIỀU TRỊ CAN THIỆP BỆNH ÐỘNG MẠCH VÀNH ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.57 KB, 6 trang )

ÐIỀU TRỊ CAN THIỆP BỆNH ÐỘNG MẠCH VÀNH

TÓM TẮT
Ðể điều trị can thiệp bệnh hẹp động mạch vành, người ta có thể nong ÐM
vành bằng bong bóng, bằng cách đặt giá đỡ tại chỗ, hoặc mổ bắc cầu ÐM
vành. Nếu ÐM vành hẹp dưới 70%, chỉ cần điều trị nội khoa. Nếu ÐM vành
hẹp trên 70% hoặc hẹp ở 2 nơi khác nhau thì nên nong bằng bong bóng và
đặt giá đỡ tại chỗ. Nếu ÐM vành hẹp nhiều nơi thì nên mổ bắt cầu ÐM vành.
Trước khi điều trị can thiệp, cần chụp ÐM vành để xác định tình trạng hẹp,
cần loại trừ các yếu tố nguy cơ cao như: Cao HA, tiểu đường, rối loạn lipid,
hút thuốc lá nhiều. Những biến chứng có thể gặp khi điều trị can thiệp bệnh
hẹp động mạch vành là vỡ ÐM vành, chèn ép tim, nhồi máu cơ tim cấp, loạn
nhịp tim, hẹp ÐM vành trở lại.
Do đó cần có chỉ định đúng và cần chuẩn bị bệnh nhân thật kỹ trước khi thực
hiện điều trị.
SUMMARY
INTERVENTIONAL TREATMENT OF CORONARY STENOSIS
Nguyen Hoai Thu * Y hoc TP. Ho Chi Minh 1999 * Vol. 3 * No. 2:. 67-71
Interventional treatment of coronary stenosis includes: Balloon angioplasty,
Coronary stenting, Bypass surgery.
Medical treatment is prefered for the under-70% stenotic lesions. In case of
above 70% stenotic lesions or 2 focal stenotic lesions, they perform the
balloon angioplasty or coronary stenting. The bypass surgery is the treatment
of choice in case of diffuse stenotic lesions.
It is necessary to prepare carefully the patients before treatment:
- Coronary angiograms should be evaluated for the percent of stenosis, the
number of vessels involved, focal versus diffuse disease, coronary anatomy.
. .
- High blood pressure, diabetes, lipid disorders, heavy smoking. . . are the
high risk factors.
The complications of interventional treatment of coronary stenosis can be:


rupture of vessel, cardiac tamponade, acute myocardial infart, arythmia,
recurrent stenosis.
Mở ĐầU
Kỹ thuật chụp động mạch vành, thông tim, nong động mạch và đặt Stent đã
phát triển nhanh chóng và vượt bậc theo thời gian. Từ những năm đầu thập
niên 80, tại các nước phát triển, những kỹ thuật điều trị can thiệp bắt đầu
được ứng dụng và đã tạo ra nhiều kỳ tích trong chữa trị bệnh mạch vành.
Khoảng 3 năm trở lại đây, kỹ thuật đặt Stent mới bắt đầu được thực hiện và
ngày càng trở nên thông dụng ở Hoa kỳ. Cho đến nay thì đây là 1 trong
những phương pháp điều trị tối ưu nhất có thể giải quyết được bệnh lý động
mạch vành
(1, 3,7)
.
CHỈ ÐỊNH CHỤP, NONG VÀ ÐẶT STENT
Chỉ định chụp
( 4,6,8,9)

Những bệnh nhân trên 40 tuổi nhất là nam giới có 1 trong những yếu tố nguy
cơ như: cao huyết áp, tiểu đường, rối loạn Lipid, hút thuốc lá nhiều, tiền căn
gia đình có người bị tim mạch nhất là bệnh mạch vành.
Những người người mập phì và nhất là những người ít vận động cũng nằm
trong nhóm nguy cơ cao. Càng có nhiều yếu tố nguy cơ thì càng làm tăng
khả năng bị bệnh mạch vành. Rối loạn chuyển hóa Lipid được biểu hiện
bằng tăng Cholesterol, tăng Tryglyceride và LDL, giảm HDL và ApoA1. . .
Những người có dấu hiệu nhồi máu cơ tim cấp hay bán cấp. Có những cơn
đau thắt ngực điển hình và có thể không điển hình, ECG có sóng Q, sóng
Pardee, Men SGOT, CK, LDH, Troponin T tăng cao.
Những người bị bệnh mạch vành thường kèm theo cao huyết áp, tiểu đường,
bệnh hô hấp mạn tính và những bệnh lý nặng khác nên người ta luôn chú ý
tới những xét nghiệm tối thiểu cần làm để chụp, nong và đặt stent là: Phim

phổi, ECG, ECG gắng sức, nghiệm pháp Dobutamine, Echo tim, Các xét
nghiệm về men tim, các xét nghiệm chụp động mạch thông thường (Công
thức máu, đường huyết, chức năng gan, thận )
Chú ý đề phòng những yếu tố nguy cơ cao và chống chỉ định chụp hay nong
trong trường hợp: Bệnh mạch vành quá nặng, kèm theo những bệnh lý khác,
có khả năng không đặt được stent, chỉ chụp để chẩn đoán hay chẩn đoán
phân biệt
Nhiều khi người ta chia ra chụp động mạch vành để chẩn đoán và để điều trị:
Chụp để chẩn đoán trên những bệnh nhân có đau thắt ngực với ECG nghỉ
ngơi và gắng sức bình thường, cơn đau thắt ngực không điển hình, đau thắt
ngực nhẹ và tiền căn gia đình có bệnh mạch vành, đau ngực không phân loại
được, những người không có triệu chứng lâm sàng rõ nhưng có ECG bất
thường hay suy tim không rõ nguyên nhân Chụp mạch vành để điều trị
trên những người có đau thắt ngực mất hồi phục, đau thắt ngực ổn định gần
đây tăng lên, gần đây đau thắt ngực
tăng lên trầm trọng, đau thắt ngực trạng thái nghỉ hay thiểu năng vành, khó
thở lúc đau ngực, đa nhồi máu, thời gian ngắn ở người trẻ tuổi, biến chứng
bệnh mạch vành, phình động mạch, bệnh van tim với đau thắt ngực
Phép thông tim (Cardiac Caheterization )là phương pháp tốt nhất để xác định
lượng máu do tim bơm ra, dùng để đo áp lực động mạch chủ, động mạch
phổi và các buồng tim. Thông thường người ta dùng từ "chụp mạch vành"
bao gồm cả chụp cản quang nhĩ trái(ventriculography) và đo áp lực động
mạch.
Chỉ định tạo hình lòng mạch bằng nong với bong bóng hay đặt Stent
(2,
9,10)

Quyết định can thiệp tùy thuộc vào tổn thương gây hẹp lòng mạch.
Nếu hẹp dưới 50-70% thường điều trị nội khoa, không can thiệp.
Hẹp trên 70% ở 1 hay hai nơi khác nhau nên nong lòng mạch và đặt Stent

Hẹp nhiều nơi có chỉ định bắc cầu động mạch vành.

×