Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

CAO HUYẾT ÁP TRONG THAI KỲ VÀ PHÁI TÍNH THAI NHI pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.7 KB, 11 trang )

CAO HUYẾT ÁP TRONG THAI KỲ VÀ PHÁI TÍNH THAI NHI

TÓM TẮT
Cao huyết áp trong thai kỳ luôn là mối hiểm họa lớn cho thai nhi và thai phụ.
Một số các nghiên cứu về sự liên hệ giữa cao huyết áp và phái tính của thai
nhi, vẫn còn những ý kiến chưa thống nhất với nhau. Nghiên cứu hồi cứu
trên 6566 trường hợp đơn thai sống, không dị tật, bao gồm 665 trường hợp
huyết áp cao, 5901 trường hợp có huyết áp bình thường, và có thời gian chờ
sanh từ 2 ngày trở lên, tính từ ngày nhập viện đến ngày sanh, trong thời gian
2 năm từ 01/01/1996 đến 31/12/1997. Nghiên cứu loại trừ những trường hợp
có chẩn đoán không rõ ràng, hay hồ sơ không đầy đủ, hay đa thai. Kết quả
nghiên cứu góp phần khẳng định sự phân bố giữa thai nhi trai: gái là do cơ
hội đơn thuần, mà không có sự liên hệ với huyết áp cao trong thai kỳ. Dù
còn nhiều ý kiến chưa thống nhất về sự liên hệ giữa cao huyết áp và phái
tính của thai nhi, giả thiết này cần được kiểm định thêm bằng những nghiên
cứu so sánh tiền cứu.
SUMMARY
HYPERTENSIVE PREGNANCY AND OFFSPRING GENDER
Nguyen Thi Tu Van * Y hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 3 - N
o
1 - 1999: 160-
164
Hypertension disorder of pregnancy is a major cause of fetal and maternal
morbidity and mortality. Previous literature searched for data on the sex
ratios of offspring associated with placental pathology and pregnancy
induced hypertension, but unequivocal evidence of this association is
currently unavailable. The gender of offspring associated with hypertensive
pregnancy was studied in order to investigate whether this may throw light
on the causes of the pathology. A retrospective review analyzed collected
data on 6566 singleton pregnancies, without fetal anomalies, after 2-day
hospitalized, including hypertensive (n = 665) and normotensive (n = 5901)


status, admitted during a 2-year period from January 1, 1996 to December
31, 1997. Exclusions were mainly women with unclear diagnosis, or
incomplete records, or multiple births. The results showed that no significant
fetal gender effect on hypertensive condition. Although clinical suspicion of
offspring gender associated with hypertensive pregnancy remains a
controversial issue; the point should be tested by further prospective
comparative investigations.
ÐẶT VẤN ÐỀ
Cao huyết áp do thai vẫn còn là vấn đề lớn tại các nước đang phát triển
(5)
, có
thể dẫn tới hội chứng HELLP, hay sản giật, luôn là mối hiểm họa lớn cho
thai nhi và thai phụ, nên có rất nhiều nghiên cứu đâ được làm về vấn đề này,
đặc biệt trong lĩnh vực điều trị, tiên lượng, dự phòng bệnh.
Cao huyết áp do thai được coi như là một sự rối loạn chức năng các tế bào
nội mạch
(4)
, nhiều cơ quan bị rối loạn, các bất thường ở nhau thai và gia tăng
đề kháng các mạch máu, làm thiếu máu ở bánh nhau kéo dài, dẫn đến tế bào
nội mạch càng bị tổn thương, và gây nên sự rối loạn chuyển hóa
prostaglandin. Các giả thuyết gần đây cho rằng có thể có các rối loạn hệ
thống miễn nhiễm của người mẹ gây ra bởi sự làm tổ của nhau thai; do đó
Orvieto-R và cộng sự
(8)
đề cập đến việc tạo ra miễn nhiễm thụ động bằng
cách tiêm mạch immunoglobulin cho người mẹ. Nói chung, cao huyết áp do
thai, dù chưa rõ nguyên nhân, nhưng đa số các tác giả đều cho rằng có vai
trò của bánh nhau trong cao huyết áp do thai, hoặc là một trong những
nguyên nhân, hoặc là một hậu quả của bệnh, và sau đó tác động trở lại làm
nặng thêm tình trạng bệnh.

Trên quan niệm dịch tể học, cao huyết áp do thai cũng được đánh giá đúng
mức tầm quan trọng của nó trong các chương trình bảo vệ sức khỏe của phụ
nữ có thai và thai nhi. Một số các nghiên cứu, tuy chưa nhiều, về các yếu tố
liên quan với cao huyết áp trong thai kỳ, được tiến hành nhiều nơi cho
những kết quả tương tự nhau, như bệnh thường xảy ra ở phụ nữ có thai con
so, tỉ lệ mới mắc thay đổi rất rộng tùy theo tuổi, đặc điểm của từng dân số
nghiên cứu, chủng tộc, có tính cách gia đình.
(6,10)
; nhưng đôi khi có một số
nghiên cứu có kết luận rất khác nhau; đặc biệt là sự liên hệ giữa cao huyết áp
và phái tính của thai nhi, vẫn còn những ý kiến chưa thống nhất với nhau.
Trong một nghiên cứu năm 1995, James-WH
(3)
nhận thấy có sự kết hợp giữa
thai nhi trai với những bệnh lý của bánh nhau, và với cao huyết áp do thai.
Trong khi, Guo-ZC
(2)
, năm 1992, cho rằng không có sự liên hệ giữa phái tính
thai nhi và tình trạng cao huyết áp của thai phụ.
Từ những nhận định trên có thể nêu lên một giả thuyết cần được kiểm định
là thai nhi trai có thể làm tăng nguy cơ cao huyết áp. Tuy nhiên, qua kinh
nghiệm lâm sàng đơn thuần, người làm công tác sản khoa khó có thể khẳng
định được điều này bằng cảm nhận chủ quan, vì sự khác biệt nếu có sẽ
không lớn do xác suất xảy ra thai nhi hay gái xấp xỉ nhau, do đó phải cần
một cỡ mẫu lớn để chứng minh. Qua đó, mới có thể có một kết luận tương
đối chính xác.
Vì những lý do trên, nghiên cứu được tiến hành nhằm mục đích kiểm định
giả thuyết có sự liên hệ giữa phái tính thai nhi và cao huyết áp trong thai kỳ.
ÐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu là kiểu nghiên cứu hồi cứu cắt ngang.

Những thai phụ được chọn vào nghiên cứu là những trường hợp đơn thai
sống, không dị tật, và có thời gian chờ sanh tại bệnh viện Phụ Sản Từ Dũ từ
2 ngày trở lên, tính từ ngày nhập viện đến ngày sanh, trong thời gian 2 năm
từ 01/01/1996 đến 31/12/1997. Nghiên cứu loại trừ những trường hợp có thể
gây ra các sai lầm tình cờ hay hệ thống cho mẫu chọn, các yếu tố ảnh hưởng
đến kết quả nghiên cứu, như những trường hợp có chẩn đoán không rõ ràng
hay hồ sơ không đầy đủ.
Cao huyết áp được ghi nhận khi huyết áp (140 / 90 mmHg, ít nhất qua 2 lần
đo huyết áp của 2 lần khám (10), cách nhau 2 ngày, tính từ ngày nhập viện.
Phái tính được xác định rõ qua khám lâm sàng sau sanh.
KẾT QUẢ
Tổng cộng có 6566 trường hợp thỏa mãn các tiêu chuẩn chọn mẫu, với tuổi
trung bình là 30,17; cân nặng thai nhi là 3130,29g (bảng 1), bao gồm 665
trường hợp huyết áp cao, và 5901 trường hợp có huyết áp bình thường; có
3406 bé trai và 3160 bé gái (bảng 2).
Bảng 1.
Các tr
ị số
trung bình
Trung
bình
Ð
ộ lệch
chuẩn
Mi
n
M
ax

Tu

ổi thai phụ
(năm)
30,17

5,62 15

49

Cân n
ặng
thai (g)
3130,2
9
445,17 18
90

49
20

Bảng 2. Phân loại huyết áp và phái tính thai nhi
Phái HA cao

HA bình
Tổng
tính thường cộng
Trai 338 3068 3406
Gái 327 2833 3160
Tổng
cộng
665 5901 6566

Bảng 3. Sự phân bố nghề nghiệp
Nghề
nghiệp
Số ca % % dồn
Công
nhân
1553 23,7 23,7
Nội trợ 2899 44,2 67,9
Buôn 988 15,0 82,9
bán
Thợ
may
534 8,1 91,0
Làm
ruộng
263 4,0 95,0
Giáo
viên
329 5,0 100
Bảng 4. Sự phân bố theo số lần sanh
S
ố lần
sanh
Số ca % % dồn
Con so 3508 53,4 53,4
Con r
ạ lần
2
2228 34,0 87,4
Con r

ạ lần
3
568 8,7 96,1
Con r
ạ lần
4
187 2,8 98,9
Con rạ (5 75 1,1 100
Bảng 5. So sánh các trị số trung bình của 2 nhóm có cao huyết áp và huyết
áp bình thường

Số
ca
Trun
g
bình

S.D.

S.E.

Leve
ne
s
tesr

t
test
Cân nặng thai nhi (g)*
HA

bình
thườ
5901

3151,
61
428,
16
5,57

P =
77,74

t =
9,7
ng 3
HA
cao
665 2941,
08
539,
09
20,9
1
P =
0,00
P =
0,0
0
Tuổi mẹ (năm)**

HA
bình
thườ
ng
5901

29,92

5,52

0,07

P =
18,04

t =
9,7
3
HA
cao
665 32,32

6,05

0,24

P =
0,00
P =
0,0

0
* Sự khác biệt về cân nặng 210,52 (95% khoảng tin cậy từ 168 đến 253)
** Sự khác biệt về tuổi mẹ 2,38 (95% khoảng tin cậy từ 1,91 đến 2,87)
Bảng 6. Sự phân bố phái tính trong số những trường hợp huyết áp cao
Số ca % % dồn
Trai 338 50,83 50,83
Gái 327 49,17 100
Với sự phân bố phái tính này của những trường hợp huyết áp cao, dựa vào
phân phối nhị thức chúng ta có bảng 7 gồm các giá trị

×