Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Luận văn: Nghệ thuật quân sự của ông cha ta docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (898.77 KB, 115 trang )

LÊ VĂN NGHĨA - k48A - GDQP - Đại Học Vinh
Luận văn
Nghệ thuật quân sự
của ông cha ta
Thiên thu vạn cổ yêu là khổ ?
Vạn cổ thiên thu khổ vẫn yêu!
LÊ VĂN NGHĨA - k48A - GDQP - Đại Học Vinh
MỤC LỤC
Lời cảm ơn 4
Từ viết tắt 5
MỞ ĐẦU 6
1. Lý do chọn đề tài 6
2. Mục đích nghiên cứu 8
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 8
4. Giả thuyết khoa học 9
5. Nhiện vụ nghiên cứu 9
6. Phương pháp nghiên cứu 9
7. Đóng góp của luận văn 10
NỘI DUNG 11
Chương1: Cơ sở lý luận của đề tài 11
1.1. Một số khái niệm 11
1.1.1. Khái niện nghệ thuật quân sự 11
1.1.2. Khái niệm bảo vệ tổ quốc 11
1.1.3. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh 11
1.1.4. Khái niệm chiên tranh nhân dân 12
1.1.5. Khái niệm về chiến tranh 12
1.1.6. Khái niệm chiến lược quân sự 12
1.2. Những yếu tố tác động đến việc hình thành nghệ thuật quân sự 13
1.2.1. Đặc điểm về địa lý và xã hội 13
1.2.1.1. Địa lý 13
Thiên thu vạn cổ yêu là khổ ?


Vạn cổ thiên thu khổ vẫn yêu!
LÊ VĂN NGHĨA - k48A - GDQP - Đại Học Vinh
1.2.1.2. Kinh tế 14
1.2.1.3. Chính trị, văn hóa – xã hội 15
1.3. Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam 16
1.3.1. Truyền thống đánh giặc của tổ tên 16
1.3.2. Mác – Lênin về tư tưởng quân sự 18
1.3.3. Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh 19
Chương 2: Quá trình hình thành và phát triển nghệ thuật quân sự
Việt Nam 23
2.1. Khái quát truyền thống và nghệ thuật đánh giặc của ông cha ta. 23
2.1.1. Khái quát truyền thống đánh giăc của ông cha ta. 23
2.1.2. Nội dung nghệ thuật đánh giặc giữ nước của tổ tiên. 28
2.1.2.1. Tư tưởng, kế sách đánh giặc 28
2.1.2.2. Toàn dân là binh cả nước đánh giặc 36
2.1.2.3. Nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh 47
2.1.2.4. Nghệ thuật kết hợp đấu tranh giữa các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại
giao, binh vận 49
2.2. Nội dung nghệ thuật quân sự Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo 54
2.2.1. Chiến lược quân sự 54
2.2.2. Nghệ thuật chiến dịch 58
2.2.3. Chiến thuật 63
2.3. Bối cảnh quốc tế, khu vực và tình hình trong nước hiện nay tác động đến
nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc 66
2.3.1. Bối cảnh quốc tế 66
2.3.2. Bối cảnh khu vực Đông Nam Á 71
2.3.3. Bối cảnh trong nước 72
Thiên thu vạn cổ yêu là khổ ?
Vạn cổ thiên thu khổ vẫn yêu!
LÊ VĂN NGHĨA - k48A - GDQP - Đại Học Vinh

Chương 3: Vận dụng bài học kinh nghiệm về nghệ thuật quân sự
Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc 80
3.1. Quán triệt tư tưởng tích cực tiến công 80
3.2. Nghệ thuật quân sự toàn dân đánh giặc 81
3.3. Nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế thời và mưu kế 82
3.4. Kết hợp tiêu hao, tiêu diệt địch với bảo vệ vững chắc các mục tiêu 84
3.5. Xây dựng tổ chức các lực lượng phải phù hợpvới nghệ thuật quân sự 84
3.6. Xác định cách đánh có hiệu lực cao 88
3.6.1. Chia địch ra, giam địch lại mà đánh 89
3.6.2. Đánh hiểm 89
3.6.3. Đánh tiêu diệt 89
3.7. Xây dựng thế trận vững chắc lợi hại 90
3.8. Tích cực tạo ra thời cơ và hành động kịp thời 93
KẾT LUẬN 98
KIÊN NGHỊ 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO 104
MỘT SỐ HÌNH ẢNH TƯ LIỆU 106
Thiên thu vạn cổ yêu là khổ ?
Vạn cổ thiên thu khổ vẫn yêu!
LÊ VĂN NGHĨA - k48A - GDQP - Đại Học Vinh
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành bày tỏ long biết ơn sâu sắc tới Thầy giáo: Đại úy: Trần
Văn Thông, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, chỉ đạo, tôi trong việc lập đề
cương, tìm tài liệu, viết và hoàn thành bài đúng thời hạn.
Cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa GDQP là "nguồn tài liệu sống" cực kì
hữu ích và hiệu quả đã cung cấp thêm nguồn tài liệu cho tôi.
Cảm ơn nhà sách, thư viện Trường Đại Học Vinh là nơi tôi tìm kiếm và thu
thập tài liệu.
Đồng cảm ơn các anh, chị, bạn bè cùng tập thể lớp K48A – GDQP đã
nhiệt tình giúp đỡ, động viên tôi nhanh chóng hoàn thành đề tài này.


Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn !
Vinh ngày 24 tháng 4 năm 2011

Tác giả : LÊ VĂN NGHĨA
Thiên thu vạn cổ yêu là khổ ?
Vạn cổ thiên thu khổ vẫn yêu!
LÊ VĂN NGHĨA - k48A - GDQP - Đại Học Vinh
QUY ƯỚC VỀ CÁC VIẾT TẮT
SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN
Viết tắt Viết đầy đủ
GDQP Giáo dục quốc phòng
NXB Nhà xuất bản
QĐND Quân đội nhân dân
CTND Chiên tranh nhân dân
CTQG Chính trị quốc gia
XHCN Xã hội chủ nghĩa
QPTD Quốc phòng toàn dân
NTQS Nghệ thuật quân sự
LLVT Lực lượng vũ trang
Thiên thu vạn cổ yêu là khổ ?
Vạn cổ thiên thu khổ vẫn yêu!
LÊ VĂN NGHĨA - k48A - GDQP - Đại Học Vinh
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta đã từng nói “Dân ta có một lòng
nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay,
mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn
sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”.

Việt Nam chúng ta có lịch sử truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ
nước vô cùng oanh liệt. Các cuộc chiến tranh chống kẻ thù xâm lược do nhân
dân ta tiến hành đều là chiến tranh nhân dân chính nghĩa, thu hút được đông
đảo quần chúng tham gia ủng hộ. Trong các cuộc chiến tranh ấy, nhiều trận
đánh hay đã mãi mãi ghi vào sử sách, vào tâm trí mỗi người dân Việt Nam.
Ngày nay, nhìn lại lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, chúng ta càng tự
hào về truyền thống hào hùng ấy. Nghệ thuật chiến tranh nhân dân đã được
hình thành rất sớm trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Chiến tranh
nhân dân Việt Nam đã trải qua những bước phát triển trong lịch sử đấu tranh
vũ trang của dân tộc từ thấp đến cao và đạt đến đỉnh cao trong thời đại Hồ
Chí Minh dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Cuộc chiến nào
cũng phải có yếu tố nhân dân, phải huy động được một lực lượng quần chúng
tham gia. Quá trình chống kẻ thù xâm lược, giữ nước hoặc giải phóng dân tộc
hoặc bảo vệ Tổ quốc mỗi thời đại lịch sử có khác nhau, song dù dài, dù ngắn
nhân dân ta đều đánh bại mọi kẻ thù xâm lược, giải phóng được dân tộc. Vận
nước có lúc thịnh lúc suy, song mỗi khi có kẻ thù xâm lược, nhân dân ta lại
đoàn kết đứng lên chiến đấu chống bọn xâm lăng, bảo tồn nòi giống, văn hóa
dân tộc Việt Nam.
Thiên thu vạn cổ yêu là khổ ?
Vạn cổ thiên thu khổ vẫn yêu!
LÊ VĂN NGHĨA - k48A - GDQP - Đại Học Vinh
Việt Nam chúng ta trong suốt chiều dài lịch sử phải liên tục chống kẻ
thù xâm lược, dân tộc ta luôn ở trong tình thế chiến đấu không cân sức, nhất
là ở thời kỳ đầu của cuộc khởi nghĩa hoặc chiến tranh. So với lực lượng đối
kháng chúng ta còn thua kém trên nhiều phương diện, ngoại trừ tinh thần yêu
nước, tinh thần đoàn kết và ý chí độc lập tự do của nhân dân. Chính trong
cuộc chiến không cân sức kéo dài ấy mà dân tộc ta đã hình thành nên rất
nhiều loại hình nghệ thuật quân sự đặc sắc như nghệ thuật chiên tranh nhân
dân, nghệ thuật chiến tranh du kích, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật,
nghệ thuật khởi nghĩa vũ trang…Tùy vào tình hình cụ thể của ta và địch mà

trong mỗi trận đánh khác nhau ông cha ta lại sử dung một loại hình NTQS
khác nhau, nhưng trong số những nghệ thuật ấy nghệ thuật chiến tranh nhân
dân đóng vai trò là nòng cốt là chủ đạo trong mọi cuộc chiến. Do đó đòi hỏi
nhân dân ta, dân tộc ta muốn đánh thắng kẻ thù cần phải phát huy sức mạnh
đoàn kết của cả dân tộc, kết hợp khéo léo giữa các loại hình nghệ thuật, trong
dố lấy nghệ thuật chiến tranh nhân dân làm chủ đạo.Để tạo nên sức mạnh dân
tộc to lớn, sức mạnh toàn dân, toàn diện mà không có một thế lực nào có thể
đánh bai được.
Trải qua những cuộc khởi nghĩa vũ trang để giành lại độc lập tự do cho
đất nước, các cuộc chiến tranh chống lại các thế lực xâm lược để bảo vệ Tổ
quốc, dân tộc ta đã hình thành và ngày càng phát triển một nền nghệ thuật
quân sự trong chiến tranh nhân dân Việt Nam rất độc đáo, đặc sắc và ưu việt.
Chính sự độc đáo đó của nghệ thuật quân sự việt Nam đã góp phần làm nên
những chiến công hiển hách vang dội lịch sử của dân tộc, làm cho quân thù
luôn bị động, bất ngờ chuyển mạnh thành yếu và cuối cùng đi đến thất bại
nặng nề. Trong các cuộc chiến tranh ấy, lịch sử dân tộc việt Nam lại một lần
nữa ca khúc khải hoàn ca khi đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, một đế quốc
Thiên thu vạn cổ yêu là khổ ?
Vạn cổ thiên thu khổ vẫn yêu!
LÊ VĂN NGHĨA - k48A - GDQP - Đại Học Vinh
hùng mạnh nhất trên thế giới. Điều đó đã chứng minh cho cả thế giới thấy
rằng dân tộc việt Nam, nhân dân việt Nam tuy nhỏ bé nhưng không dễ gì
đánh bại, Việt Nam có chiến tranh nhân dân, có truyền thống đánh giặc giữ
nước lâu đời, có tinh thần đoàn kết, thống nhất trong dân tộc đã phát triển lên
thành nghệ thuật quân sự Việt Nam ưu việt và hiện đại không một thế lực nào
có thể đánh thắng nổi, nét độc đáo đặc sắc ấy thể hiện một cách đầy đủ trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta.
Lý luận và thực tiễn chiến tranh nhân dân Việt Nam thực sự là một
cống hiến quan trọng đối với phong trào đấu tranh vũ trang giải phóng của
nhân dân và các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Chính vì vậy mà tôi lựa chọn

đề tài này để tìm hiểu một cách sâu sắc về nét độc đáo đặc sắc của nghệ thuật
Quân sự Việt Nam.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Làm rõ khái niện và cơ sở lý luận của nghệ thuật quan sự Việt Nam
- Tìm hiểu về quá trình hình thành và phát triển của nghệ thuật quân sự
Việt Nam.
- Tìm hiểu về những nét độc đáo, đặc sắc của nghệ thuật quân sự của cha
ông nhằm vận dụng vào việc xây dựng và phát triển Tổ quốc XHCN
- Nghiên cứu để có thể làm tài liệu tham khảo và làm cơ sở để giảng dạy
môn “Giáo Dục Quốc Phòng”
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu.
+ Nghệ thuật quân sự Việt Nam.
+ Phương pháp để vận dung nghệ thuật quân sự vào sự nghiệp bảo vệ tổ
quốc trong tình hình mới.
Thiên thu vạn cổ yêu là khổ ?
Vạn cổ thiên thu khổ vẫn yêu!
LÊ VĂN NGHĨA - k48A - GDQP - Đại Học Vinh
- Phạm vi nghiên cứu.
+ Nghệ thuật quân sự của tổ tiên.
+ Nghệ thuật quân sự từ khi có Đảng lãnh đạo tới nay.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Từ việc nghiên cứu những nét đặc sắc, độc đáo của nghệ thuật quân sự
Việt Nam, tài liệu này có thể giúp mọi người hiểu rõ hơn về quá trình hình
thành cũng như phát triển của nghệ thuật quân sự Việt Nam, đồng thời phát
huy sự tinh túy trong nghệ thuật quân sự để vận dụng và quà trình bảo vệ tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mớ hiện nay.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Để làm sáng tỏ mục đích nghiên cứu, đề tài cần tập trung giải quyết các
nhiệm vụ trọng tâm sau:

Thứ nhất: Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của nghệ thuật chiến tranh
nhân dân
Thứ hai: Tìm hiểu nghiên cứu các yếu tố tác động và nội dung nghệ
thuật đánh giặc giữ nước của tổ tiên
Thứ ba: Nghiên cứu về nét độc đáo, đặc sắc của nghệ thuật quân sự
Việt Nam, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc cho thế hệ trẻ hiện nay
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Sử dụng phương pháp lý luận thông qua việc nghiên cứu thu thập tài
liệu, các kênh thông tin quân đội
- Sử dụng phương pháp hệ thống để thể hiện đầy đủ quá trình hình
thành và phát triển của nghệ thuật quân sự Việt Nam
7. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Sau khi nghiên cứu thành công, đề tài này sẽ giúp cho chúng ta hiểu
được nét độc đáo sâu sắc của nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt
Thiên thu vạn cổ yêu là khổ ?
Vạn cổ thiên thu khổ vẫn yêu!
LÊ VĂN NGHĨA - k48A - GDQP - Đại Học Vinh
Nam qua các giai đoạn lịch sử đồng thời giúp chúng ta hiểu thêm về nghệ
thuật quân sự Việt Nam trong quá trình dựng nước và giữ nước của thế hệ cha
ông.
Thiên thu vạn cổ yêu là khổ ?
Vạn cổ thiên thu khổ vẫn yêu!
LÊ VĂN NGHĨA - k48A - GDQP - Đại Học Vinh
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm nghệ thuật quân sự
Nghệ thuật quân sự là cách đánh, cách dùng binh đã trở thành thông
thạo, điêu luyện trong một trận chiến đấu, một chiến dịch hay trên toàn bộ

chiến trường. nghệ thuật quân sự không có một khuôn mẫu cụ thể nào, nó có
thể biến hòa khôn lường muôn hình muôn vẻ.( Trích tư tưởng Hồ Chí Minh về
quân sự )
1.1.2. Khái niệm bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp bảo vệ và phát triển những
thành quả của chủ nghĩa xã hội, bảo vệ an ninh, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ của đất nước, chống mọi âm mưu và hành động phá hoại, xâm lược
của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế.( Trích Từ điển bách
khoa quân sự Việt Nam - NXB QĐND - 2004)
1.1.3. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự là quan điểm và lý thuyết của Hồ
Chí Minh về việc xây dựng nền quốc phòng, lực lượng vũ trang, về những vấn
đề có tính quy luật của khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, về chính
trị và quân sự. đó là sự áp dụng lý thuyết quân sự của chủ nghĩa Mac - Lê nin
vào thực tiễn Việt Nam, kết hợp truyền thống quân sự, nghệ thuật binh pháp
cổ truyền của dân tộc Việt Nam, tiếp thu khoa học quân sự cổ kim của nhân
loại, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là một bộ phận hữu cơ cực kì quan trọng
của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam. Đó không phải là tư
Thiên thu vạn cổ yêu là khổ ?
Vạn cổ thiên thu khổ vẫn yêu!
LÊ VĂN NGHĨA - k48A - GDQP - Đại Học Vinh
tưởng thuần túy quân sự, mà luôn là tư tưởng quân sự chính trị.( Trích tư
tưởng Hồ Chí Minh về quân sự )
1.1.4. Khái niệm chiến tranh nhân dân
Chiến tranh nhân dân là cuộc chiến tranh do toàn dân Việt Nam tiến
hành dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Viêt Nam, nhằm bảo vệ độc lập chủ
quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn
xã hội và nền văn hóa của dân tộc Việt Nam, bảo vệ Đảng cộng sản Việt Nam,
Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam, bảo vệ thành quả cách mạng và nhân
dân, bảo vệ công cuộc đổi mới, lợi ích quốc gia, dân tộc…( Trích giáo trình

Giáo dục quốc phòng đại học, cao đẳng -Tập 2 - Bộ môn Đường lối quân sự
và công tác quốc phòng - NXB QĐND - 2005)
1.1.5. Khái niệm về chiến tranh
Chiến tranh là hiện tượng chính trị - xã hội có tính lịch sử, là sự tiếp tục
của chính trị bằng thủ đoạn bạo lực, giữa các tập đoàn xã hội trong một nước
hoặc giữa các nước hay liên minh các nhà nước. ( Trích giáo trình Giáo dục
quốc phòng đại học, cao đẳng -Tập 2 - Bộ môn Đường lối quân sự và công
tác quốc phòng - NXB QĐND - 2005)
1.1.6. Khái niệm chiến lược quân sự
Chiến lược quân sự là tổng thể phương châm, chính sách và mưu lược
được hoạch định để ngăn ngừa và sẵn sàng tiến hành chiến tranh thắng lợi, bộ
phận hợp thành có tác động chủ đạo trong nghệ thuật quân sự ( Trích Quốc
Phòng toàn dân trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước,
NXB Lao ĐộngViệt Nam - 2005 )
Thiên thu vạn cổ yêu là khổ ?
Vạn cổ thiên thu khổ vẫn yêu!
LÊ VĂN NGHĨA - k48A - GDQP - Đại Học Vinh
1.2. Những yếu tố tác động đến việc hình thành nghệ thuật quân sự.
1.2.1. Đặc điểm về địa lý và xã hội
1.2.1.1. Địa lý
Nước ta nằm ở cực đông bán đảo Đông Dương, phía Đông Nam lục địa
Châu Á (toạ độ địa lý: 16’00N, 18 00E), chiếm diện tích khoảng 331.
688km2. Phía Đông và Nam tiếp giáp Thái Bình Dương trong vùng nhiệt đới
gió mùa, biên giới giáp với vịnh Thái Lan ở phía Nam, Bắc Bộ và Biển Đông
ở phía Tây, Trung Quốc ở phía Bắc, Lào và CampuChia ở phía Tây. Đất nước
ta có dạng hình chữ S, với khoảng cách từ Bắc đến Nam khảng 1650 km, vị
trí hẹp nhất chiều Đông sang Tây là 50 km (ở Quảng Bình). Với đường bờ
biển dài 3260 km không kể các đảo, Việt Nam tuyên bố có 12 hải lý ranh giới
lãnh thổ. Nước ta có địa hình đa dạng bao gồm rừng núi cao nguyên, trung du
chiếm 3/4 lãnh thổ, nhiều sông ngòi kênh rạch. Nước ta có 2 con sông lớn

nhất là Sông Hồng và Sông Mêkông bắt nguồn từ Tây Bắc lục địa Châu Á
chảy ra Biển Đông tạo ra hệ thống giao thông, thuỷ chiến lược rộng khắp.
Do Việt Nam là nước giàu tài nguyên, có điều kiện để phát triển nền
sản xuất nông nghiệp nhưng lại nằm ở vành đai thiên tai, lụt lội, khí hậu
không điều hoà. Mặt khác nước ta nằm ở một vị trí chiến lược hết sức quan
trọng, cửa ngõ đi vào lục địa Châu Á, đi ra Thái Bình Dương, điểm cắt nhau
của đường thiên di Bắc Nam và Đông Tây. Vì thế nước ta luôn bị các thiên tai
địch hoạ, kẻ thù dòm ngó tiến công xâm lược. Điều này đòi hỏi dân tộc ta
phải biết đoàn kết, cảnh giác, sát cánh bên nhau, cùng nhau tạo nên sức mạnh
tổng hợp chống lại sự tàn phá của thiên nhiên, đánh bại mọi kẻ thù để tồn tại,
xây dựng và phát triển đất nước. Trong đánh giặc, tổ tiên ta đã biết vận dụng
yếu tố “thiên thời, địa lợi” sáng tạo ra nhiều cách đánh phù hợp hiệu quả như:
Lợi dụng núi rừng, đèo dốc, sông biển, đồng ruộng ao hồ, đầm lầy để tiêu
Thiên thu vạn cổ yêu là khổ ?
Vạn cổ thiên thu khổ vẫn yêu!
LÊ VĂN NGHĨA - k48A - GDQP - Đại Học Vinh
diệt kẻ địch, bảo vệ mình. Đúng như Nguyễn Trãi đã viết “Quan hà bách nhị
do thiên thiết” (quan hà hiểm yếu hai người chống lại được trăm người). Để
bảo vệ dất nứơc, bảo vệ sự trường tồn của dân tộc, ông cha ta đã đoàn kết và
phát huy tối đa ưu thế của địa hình để lập thế trận đánh giặc. Như Lý Thường
Kiệt chặn giữ 20 vạn quân Tống ở địa bàn bắc sông Như Nguyệt, chia cắt hai
cánh quân thuỷ, bộ của chúng, quần cho chúng nhược rồi tổ chức đòn phản
công chiến lược, đánh tiêu diệt, đánh tan đạo quân chủ chốt của giặc trên bộ.
Hay Trần Hưng Đạo đã đưa đạo quân Nguyên -Mông khổng lồ vào địa hình
nhiều đầm lầy, sông ngòi, khiến sở trường tác chiến bằng kỵ binh của chúng
không phát huy được mà còn bị vây hãm, tiêu hao đến nguy hiểm. Trần Hưng
Đạo tiến hành vây hãm thuỷ trại Chương Dương, một điểm yếu trong thế trận
giặc, buộc chúng phải đưa quân từ Thăng Long ra ứng cứu. Ta vừa tiêu diệt
quân địch đi ứng cứu bằng cách đánh vận động, vừa lợi dụng sơ hở đánh úp
thành Thăng Long, nơi tập trung quân của giặc và buộc giặc tan vỡ tháo chạy.

1.2.1.2. Kinh tế
Nền kinh tế nước ta trước đây chủ yếu lấy sản xuất nông nghiệp, thủ
công nghiệp là chính theo mô hình tự cung tự cấp, trình độ canh tác thấp, quy
mô nhỏ, có tính chất phân tán. Trình độ phát triển kinh tế thấp ảnh hưởng trực
tiếp đến nghệ thuật đánh giặc của dân tộc. Vì vậy ngay từ thời kỳ đầu dựng
nước, dân tộc ta đã biết kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng đất nước đi đôi với
chăm lo củng cố quốc phòng, sẵn sàng đánh giặc giữ nước theo tinh thần tự
lực tự cường, quán triệt tư tưởng “Quốc phú binh cường”. Trong xây dựng
đất nước tổ tiên ta đã đề ra những chính sách nhằm phát triển kinh tế, củng cố
quốc phòng như “ngụ binh ư nông” của nhà Lý, “Khoan thư sức dân để làm
kế sâu rễ bền gốc” của nhà Trần, “Ra sức làm đường, đắp đê, đào kênh rạch
cải tạo đồng ruộng, đẩy mạnh chăn nuôi sản xuất ra các loại công cụ lao
Thiên thu vạn cổ yêu là khổ ?
Vạn cổ thiên thu khổ vẫn yêu!
LÊ VĂN NGHĨA - k48A - GDQP - Đại Học Vinh
động, đóng thuyền bè để phát triển sản xuất, cơ động quân đội”. Trong đánh
giặc nhân dân ta đã biết cất giấu lương thực để ổn định đời sống, nuôi quân,
sử dụng các công cụ lao động sản xuất ra các loại vũ khí trang bị như mũi tên
đồng, cung nỏ, vót chông để đánh giặc bảo vệ Tổ quốc.
1.2.1.3. Chính trị, văn hoá - xã hội
Đất nước ta có 54 dân tộc anh em cùng chung sống, không qua chế độ
chiếm hữu nô lệ, phân vùng cát cứ không nhiều. Do phải cùng nhau chung
lưng đấu cật chống lại thiên tai, địch hoạ, các nhà nước phong kiến đã có
những tư tưởng tiến bộ thân dân, những chính sách hoà hợp dân tộc đúng đắn,
nên các dân tộc ít xảy ra mâu thuẫn, hận thù. Các dân tộc đều sống hoà thuận,
gắn bó thuỷ chung, yêu quê hương đất nước. Đây là nhân tố, là cơ sở tạo nên
sức mạnh đoàn kết, thống nhất dân tộc, sự cố kết cộng đồng bền vững. Trong
quá trình xây dựng đất nước, chúng ta đã tổ chức ra nhà nước xác định chủ
quyền lãnh thổ, tổ chức ra quân đội, đề ra luật pháp để quản lý, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Các nhà nước phong kiến Việt Nam đều có tư tưởng trọng

dân, đưa ra nhiều chính sách hợp với lòng dân, xác định vai trò, vị trí của
quần chúng nhân dân, mối quan hệ giữa dân với nước, nước với dân được ví
như “không thể phân biệt được đâu là cá đâu là nước” nên đã động viên và
phát huy được sức mạnh toàn dân trong công cuộc xây dựng đất nước, động
viên cả nước đánh giặc gìn giữ non sông. Trong đánh giặc, quân và dân ta đã
chiến đấu dũng cảm, kiên cường, bất khuất, tinh thần quyết tâm cao, với ý chí
quật cường sắt đá và nghị lực phi thường, luôn sáng tạo ra nhiều cách đánh
hay, đánh giặc mềm dẻo khôn khéo, mưu trí sáng tạo. Dân tộc ta đã chiến đấu
và đánh bại nhiều kẻ thù, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững độc lập cho
dân tộc.
Thiên thu vạn cổ yêu là khổ ?
Vạn cổ thiên thu khổ vẫn yêu!
LÊ VĂN NGHĨA - k48A - GDQP - Đại Học Vinh
Dân tộc ta có một nền văn hoá bản địa xuất hiện sớm, từ thời tiền sử
với kết cấu bền vững có nhà, có làng, có bản, có nhiều dân tộc cùng chung
sống, mỗi dân tộc, làng xã lại có một truyền thống phong tục tập quán riêng.
Nhưng trong quá trình lao động, đấu tranh để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì
các dân tộc đã vun đắp nên những truyền thống văn hóa chung như: Tinh thần
yêu nước, đoàn kết, gắn bó, yêu thương đùm bọc che chở lẫn nhau, ý thức lao
động cần cù sáng tạo, ý chí tự lực tự cường, đấu tranh dũng cảm, kiên cường,
bất khuất Đây là nguồn gốc sức mạnh của dân tộc để chống lại thiên nhiên,
đánh bại mọi thế lực, mọi kẻ thù xâm lược . Trong quá trình xây dựng đất
nước, dân tộc ta luôn coi trọng phát triển nền văn hoá, giáo dục kiến thức hội
hoạ, âm nhạc mang bản sắc truyền thống dân tộc, đồng thời không ngừng tiếp
thu có chọn lọc những tinh hoa của nền văn hoá thế gới làm cho nền văn hóa
nước ta ngày càng phong phú, đa dạng và tràn đầy sức sống.
Tóm lại: Các yếu tố địa lý kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội có ảnh
hưởng rất lớn đến nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên ta. Tất cả nững yếu tố đó đã
không ngừng được tìm tòi và phát triển, tạo nên sức mạnh to lớn cho dân tộc
ta trong quá trình xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc, đấu tranh bảo vệ giống

nòi, giữ vững nền độc lập dân tộc, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
1.3. Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt
1.3.1. Truyền thống đánh giặc của tổ tiên
Từ khi vua Hùng dựng nước Văn Lang đến nay, dân tộc ta đã bao lần
chiến đấu chống ngoại xâm phong kiến phương Bắc mạnh hơn ta gấp nhiều
lần về quân sự lẫn kinh tế, biết bao chiến tích oai hùng trước những kẻ thù
mạnh nhất thời đại như quân Mông Cổ, đế chế phong kiến Trung Quốc đời
Tần, Đường, Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, còn vang vọng trong lòng
Thiên thu vạn cổ yêu là khổ ?
Vạn cổ thiên thu khổ vẫn yêu!
LÊ VĂN NGHĨA - k48A - GDQP - Đại Học Vinh
mỗi người dân Việt Nam và được nhiều người trên thế giới biết đến và đánh
giá cao. Năm 938, chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền trước quân Nam
Hán là một điển hình cho nghệ thuật đánh bằng mưu kế, thắng bằng thế, thời.
Sau khi Kiều Công Tiễn ám sát Dương Đình Nghệ để đoạt chức Tiết độ sứ và
bán nước cho nhà Nam Hán, Ngô Quyền - một tướng tài giỏi và là con rể của
Dương Đình Nghệ, lúc đó đang được cử trông coi Ái Châu (Thanh Hoá) – liền
kéo quân ra Bắc trị tội tên phản bội và chuẩn bị đón đánh quân Nam Hán.
Quân Nam Hán dùng thuỷ quân vào đánh chiếm nước ta theo vịnh Hạ Long.
Ngô Quyền cho binh lính đóng cọc lim trên cửa sông Bạch Đằng. Khi thuỷ
triều lên, ông cho thuyền nhẹ ra khiêu chiến, nhử địch vào trong cửa sông. Khi
thuỷ triều xuống, thuyền quân ta phản công, phối hợp với phục binh ở hai bên
bờ. Thuyền địch vướng phải cọc đắm vỡ, giặc bị chết và bị bắt rất nhiều, chỉ
huy Hoằng Tháo bị giết tại trận. Mưu kế của Ngô Quyền trong trận này bắt
nguồn từ kinh nghiệm dựa vào quy luật thuỷ triều lên xuống của dân chài, thế
- thời được vận dụng rất rõ và rất hay. Thế là cọc Bạch Đằng, thời là nước
thuỷ triều lên xuống.
Cuối năm 1788, nhân cơ hội Lê Chiêu Thống cầu cứu, quân Thanh dưới
sự chỉ huy của Tôn Sĩ Nghị tiến vào nước ta chiếm đóng Thăng Long. Trước
tình hình đó, Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc, khẩn trương chuẩn bị phản công.

Nguyễn Huệ chia lực lượng làm hai khối: khối bao vây và khối tiến công.
Liên tiếp trong ba ngày, quân ta tiến công tiêu diệt mấy vạn quân Thanh và
quân của Lê Chiêu Thống. Sau đó, quân ta tiến hành công kích các mục tiêu
chủ yếu: Nguyễn Huệ tiến đánh Ngọc Hồi từ chính diện; Đặng Tiến Đông
tiến công Đống Đa. Kết quả là Tôn Sĩ Nghị tháo chạy khỏi Thăng Long,
tướng giặc Sầm Nghi Đống và Hứa Thế Hanh bị giết, hàng vạn quân bị tiêu
diệt. Chỉ sau năm ngày tác chiến, Nguyễn Huệ cùng đại quân tiến vào kinh
Thiên thu vạn cổ yêu là khổ ?
Vạn cổ thiên thu khổ vẫn yêu!
LÊ VĂN NGHĨA - k48A - GDQP - Đại Học Vinh
đô, đất nước được hoàn toàn giải phóng. Có thể nói, tài năng, nghệ thuật quân
sự của Quang Trung - Nguyễn Huệ đã đạt tới đỉnh cao, chiến tích trận Thăng
Long có thể so sánh với các trận đánh hay nhất trong lịch sử chiến tranh thế
giới, là sự kết hợp giữa chính binh và kỳ binh. Đánh chính diện - đó là chính
binh, kết hợp với bao vây vu hồi, đánh vào sau lưng - đó là kỳ binh. Đây là
một nghệ thuật hay và hiểm, có tính bất ngờ cao, tính thời cơ lớn, và vua
Quang Trung đã vận dụng nghệ thuật này một cách hoàn hảo.
Trên đây chỉ là hai trong số rất nhiều trận đánh trong lịch sử quân sự
nước ta, giành đại thắng nhờ nghệ thuật quân sự tài tình. Trận Như Nguyệt
(Lý Thường Kiệt đánh quân xâm lược Tống), trận Chương Dương - Thăng
Long, trận Bạch Đằng, trận Chi Lăng - Xương Giang cũng là những trận đánh
tiêu biểu cho khả năng vận dụng tuyệt vời nghệ thuật quân sự của người cầm
quân.
Qúa trình đánh giặc đó tổ tiên ta đã xây dựng nên truyền thống và nghệ
thuật đánh giặc rất độc đáo và sáng tạo, đó là tinh thần đoàn kết, yêu nước, ý
chí tự lực tự cường và tinh thần quyết đánh, quyết thắng, với tư tưởng tích cực
chủ động tiến công, toàn dân là binh cả nước đánh giặc, đánh giặc mưu trí
sáng tạo, dùng nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều lấy yếu chống mạnh
1.3.2. Mác –Lênin về tư tưởng quân sự
Chủ nghĩa Mác- Lênin với hệ thống luận điểm nguồn gốc, bản chất xã

hội của chiến tranh: Về phân loại chiến tranh và quân đội dựa theo bản chất
chính trị xã hội của nó, về vai trò của chiến tranh trong lịch sử xã hội của loài
người, các quy luật phát sinh, quá trình và kết cục của chiến tranh, bản chất
của xã hội và chức năng của quân đội, công cụ chủ yếu để tiến hành chiến
tranh. Lần đầu tiên trong lịch sử của khoa học xã hội, chủ nghĩa Mác – Lênin
Thiên thu vạn cổ yêu là khổ ?
Vạn cổ thiên thu khổ vẫn yêu!
LÊ VĂN NGHĨA - k48A - GDQP - Đại Học Vinh
đã cung cấp cho xã hội loài người cơ sở lý luận khoa học để nhận thức đúng
nguồn gốc, bản chất của chiến tranh và quân đội là sản phẩm của xã hội có
giai cấp đối kháng, bản chất kinh tế - xã hội của giai cấp đã sử dụng nó.
Học thuyết do Mác và Ănghen sáng lập, được Lênin phát triển và làm
phong phú thêm trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản trở
thành nền tảng thế giới quan và phương pháp luận để các Đảng cộng sản dựa
vào đó vạch ra học thuyết quân sự, xây dựng nền nghệ thuật quận sự tiên tiến,
quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản, đấu tranh giành chính quyền và bảo vệ
chủ nghĩa xã hội. Học thuyết còn là vũ khí của các lực lượng bảo vệ cách
mạng và tiến bộ trong đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và giải phóng dân
tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam đã vận dụng học
thuyết này, kết hợp hài hòa với truyền thống nghệ thuật quân sự Việt Nam và
tinh hoa quân sự thế giới vào điều kiện thực tiễn ở Việt Nam, đề ra những luận
điểm cơ bản về khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng ở Việt Nam
trong thời đại mới. Ngày nay trong sự nghiệp đấu tranh cho hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của cả thế giới, học thuyết Mác – Lênin và
nghệ thuật quân sự vẫn là công cụ sắc bén và đáng tin cậy của các Đảng cộng
sản, công dân, các nước xã hội chủ nghĩa, toàn bộ phong trào cộng sản công
nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc.
1.3.3. Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh
Trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, Nghệ thuật quân sự chiếm một vị
trí rất quan trọng. Người đã viết nhiều tác phẩm có giá trị về Nghệ thuật quân

sự, đặc biệt tư tưởng ấy thể hiện rất sáng tạo trong thực tiễn chỉ đạo khởi nghĩa
vũ trang và chiến tranh cách mạng. Hồ Chí Minh đã dày công nghiên cứu, kế
thừa và phát triển truyền thống quân sự của cha ông, tiếp thu tinh hoa quân sự
Thiên thu vạn cổ yêu là khổ ?
Vạn cổ thiên thu khổ vẫn yêu!
LÊ VĂN NGHĨA - k48A - GDQP - Đại Học Vinh
của nhân loại, nhất là tư tưởng quân sự ưu việt của Lê-nin, kinh nghiệm chiến
tranh cách mạng của Trung Quốc, Liên Xô, vận dụng sáng tạo vào điều kiện
cụ thể của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ hiện đại.
Nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh là vừa đánh vừa xây dựng lực lượng,
càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng, là dám đánh và biết đánh. Dám
đánh là điều kiện hàng đầu, nhưng biết đánh, biết thắng mới là yếu tố quan
trọng làm nên thắng lợi. Muốn đánh thắng, theo Hồ Chí Minh, trước hết phải
đánh giá đúng địch, ta. Sinh thời, Người thường nhắc câu nói nổi tiếng của
Tôn Tử: "Tri bỉ tri kỷ, bách chiến bất bại" (biết địch biết ta, trăm trận không
thua). Người nói: Nếu thiếu nghiên cứu tìm hiểu khả năng của ta và của địch
một cách tỉ mỉ để đề ra mục đích, cách đánh thích hợp thì mắc nhiều khuyết
điểm. Hồ Chí Minh đánh giá so sánh lực lượng địch, ta trên quan điểm chiến
tranh nhân dân, theo phương pháp khoa học biện chứng, không dừng lại ở
hiện tượng mà nhìn sâu vào bản chất, nhìn toàn diện, không đánh giá địch, ta
một cách tĩnh mà đặt nó trong quá trình đang vận động. Chính vì vậy, trong
thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, so sánh địch ta có chênh lệch lớn nên có
người cho là "châu chấu đá voi". Nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn khẳng
định: "Ta nhất định thắng, địch nhất định thua". Người phân tích: Địch như
mặt trời vào lúc hoàng hôn, hống hách lắm nhưng đã gần tắt nghỉ, lực lượng ta
ngày càng mạnh thêm như suối mới chảy, như lửa mới nhen, chỉ có tiến không
có thoái", "Thế địch như lửa, thế ta như nước, nước nhất định thắng lửa". Hồ
Chí Minh tiên đoán: "Nay tuy châu chấu đá voi nhưng mai voi sẽ lòi ruột ra".
Quy luật chung của chiến tranh là mạnh được yếu thua. Ta muốn thắng địch
phải mạnh hơn địch. Sức mạnh đó được tạo ra trong quá trình chiến tranh để

thực hiện càng đánh càng mạnh, càng mạnh càng thắng và cuối cùng giành
Thiên thu vạn cổ yêu là khổ ?
Vạn cổ thiên thu khổ vẫn yêu!
LÊ VĂN NGHĨA - k48A - GDQP - Đại Học Vinh
thắng lợi hoàn toàn. Quá trình đó theo Hồ Chí Minh là quá trình vận dụng các
nhân tố lực, thế, thời, mưu. Bác Hồ nói: "Phải nghiên cứu cách đánh giặc để
có một lối đánh rất tài giỏi thì trăm trận trăm thắng".
Muốn tạo lực, theo Hồ Chí Minh là phải dựa vào dân, "có dân là có tất
cả". Muốn dựa vào dân thì dân phải được tổ chức chặt chẽ, được giác ngộ lòng
yêu nước, phải chăm lo bồi dưỡng sức dân mới có cơ sở tạo ra lực mới. Đi đôi
với tạo lực, Hồ Chí Minh rất coi trọng tạo thế. Nét độc đáo trong nghệ thuật
quân sự Hồ Chí Minh về tạo thế là phải xây dựng "thế trận lòng dân". Theo
Người đó là thế trận vững chắc nhất, quyết định nhất. Hồ Chí Minh cho rằng:
"Phải dựa chắc vào dân thì kẻ địch không thể nào tiêu diệt được ta". Thế có
quan hệ với lực. Ở vào một thế tốt thì lực được nhân lên gấp bội. Người đưa ví
dụ: 1kg nếu ở vào thế tốt có thể nâng 100kg lên được. Thế trong từng trận
đánh, thế từng chiến dịch, thế của từng chiến trường và thế trận của cả nước.
Đi đôi tạo lực, tạo thế, Hồ Chí Minh còn rất coi trọng tạo thời cơ. Thời cơ là
thời thế, là thời điểm có lợi nhất để tiến công đối phương. Người yêu cầu phải
nắm vững thời cơ, tận dụng thời cơ và biết tạo ra thời cơ bởi: "Lạc nước hai xe
đành bỏ phí, gặp thời một tốt cũng thành công" (Bài thơ Học đánh cờ).
Theo Hồ Chí Minh, phải biết tận dụng thời gian, vì thời gian là lực
lượng, thời gian là sức mạnh, Hồ Chí Minh dùng kế "Trường kỳ kháng chiến",
"Vừa kháng chiến vừa kiến quốc" để có thời gian chuẩn bị mọi mặt và chuyển
dần từ thế yếu lên thế mạnh. Người nói: giặc Pháp có "vỏ quýt dày", ta phải có
thời gian để mài "móng tay nhọn". Bác Hồ nói: Thắng lợi và trường kỳ đi đôi
với nhau "Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi!". Muốn ăn quả tốt phải
trồng cây to. Trường kỳ kháng chiến, theo Hồ Chí Minh không đối lập với tư
tưởng chiến lược tiến công. Nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh là phải luôn
Thiên thu vạn cổ yêu là khổ ?

Vạn cổ thiên thu khổ vẫn yêu!
LÊ VĂN NGHĨA - k48A - GDQP - Đại Học Vinh
luôn tiến công, chủ động giành thế tiến công. Có tiến công mới làm cho địch
suy yếu, càng bộc lộ những mặt yếu cơ bản của chúng, làm cho ta mạnh dần
lên, phát huy những mặt mạnh ưu thế của ta. Cho nên phải "Kiên quyết không
ngừng thế tiến công".
Cùng với tạo lực, tạo thế, tranh thời, nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh
còn nhấn mạnh phải biết lập mưu. Trong quân sự, mưu là toàn bộ chủ trương,
ý đồ, quyết tâm chiến đấu, kế hoạch chiến lược, chiến dịch; mưu còn là tài
thao lược của các tướng lĩnh, là tinh thần mưu trí sáng tạo, linh hoạt của cán
bộ lãnh đạo, chỉ huy trong lúc lâm trận, mưu còn là thuật nghi binh đánh lừa
địch, tạo ra động thái thực thực, hư hư trong chiến tranh. Theo Hồ Chí Minh
dựng mưu thế trong lúc địch mạnh hơn ta phải dùng sức mạnh của toàn dân,
dùng mưu trí của toàn dân, "đánh giặc bằng mưu, thắng giặc bằng thế". Mưu
trong nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh là phải sử dụng tất cả các yếu tố: lực,
thế, thời, mưu để tạo ra cách đánh thích hợp, hiệu quả.
Tư duy quân sự Hồ Chí Minh hàm chứa sâu sắc tư tưởng quân sự truyền
thống của dân tộc ta: Lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ đánh lớn, lấy chất lượng cao
thắng số lượng đông. Biết đánh bằng mọi lực lượng, mọi quy mô, bằng mọi
thứ vũ khí có trong tay; không chỉ đánh vào quân đội địch có vũ khí mà còn
đánh vào lòng người, kết hợp tác chiến với binh địch vận. "Công tâm là thứ
nhất, công thành là thứ hai". Người nói: Địch vận là "tìm cách làm sao phá
được địch mà ta không phải đánh". Nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh còn là
đánh lui từng bước, đánh đổ từng bộ phận, tiến tới đánh đổ hoàn toàn. "Đánh
cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào" (Thơ "Xuân 1968"), chủ đổ, tớ ắt phải đổ
theo; là nghệ thuật khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa. Dưới ánh
sáng tư tưởng quân sự, Nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh và của Đảng, quân
Thiên thu vạn cổ yêu là khổ ?
Vạn cổ thiên thu khổ vẫn yêu!
LÊ VĂN NGHĨA - k48A - GDQP - Đại Học Vinh

và dân ta đã sáng tạo ra chiến tranh nhân dân vĩ đại, đánh thắng mọi kẻ thù
hung bạo, một phát minh lớn có ý nghĩa thời đại góp vào kho tàng lý luận và
thực tiễn quân sự ưu việt của cách mạng thế giới.
Kế thừa, phát triển nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên, nghệ thuật quân sự
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã không ngừng phát triển, gắn liền với
thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Nghệ thuật quân
sự Việt Nam gồm ba bộ phận hợp thành: Chiến lược quân sự, nghệ thuật
chiến dịch và chiến thuật. Ba bộ phận của nghệ thuật quân sự là một thể thống
nhất có quan hệ biện chứng chặt chẽ, thúc đẩy nhau phát triển, trong đó chiến
lược quân sự đóng vai trò chủ đạo.
CHƯƠNG 2
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NGHỆ THUẬT QUÂN
SỰ VIỆT NAM
2.1. Khái quát truyền thống và nghệ thuật đánh giặc của ông cha ta.
2.1.1. Khái quát truyền thống đánh giặc của Ông Cha ta
Dân tộc Việt Nam có một truyền thống quân sự rất đáng tự hào, được
hun đúc từ lâu đời và truyền lại qua bao thế hệ nối tiếp. Đó là truyền thống
lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh, một truyền thống
anh hùng bất khuất, thông minh sáng tạo, tài thao lược kiệt xuất, quyết chiến,
quyết thắng vì tự do độc lập. Nhờ đó mà dân tộc ta đã giữ gìn được quê
hương đất nước, bảo vệ giống nòi và bản sắc của mình sau hàng nghìn năm,
với nhiều lần bị phong kiến phương Bắc và các đế quốc to đô hộ.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta trải qua những bước
thăng trầm thịnh suy, nhưng thế kỷ nào, triều đại nào củng có chiến công,
Thiên thu vạn cổ yêu là khổ ?
Vạn cổ thiên thu khổ vẫn yêu!
LÊ VĂN NGHĨA - k48A - GDQP - Đại Học Vinh
chưa bao giờ vắng bóng người hào kiệt, chưa lúc nào vắng bóng anh hùng.
Trên hành tinh đã xuất hiện những dân tộc anh hùng, trong đó Việt Nam là
một dân tộc phải vượt qua nhiều thử thách nhất. Nhưng “ Trải biến cố nhiều

thì trí lực sâu, lo việc xa mà thành công lạ”, vì thế, lịch sử hàng nghìn năm
của Việt Nam đã hun đúc lên những phẩm giá cao đẹp và vĩ đại, ý chí kiên
cường và trí tuệ sáng tạo của một dân tộc anh hùng.
Không chỉ riêng tự hào mà cả anh em, bạn bè đều khâm phục truyền
thống quật cường của dân tộc Việt Nam. Một đất nước có lịch sử lâu đời đã
trải qua một chặng đường dài hành ngàn năm dựng nước và giữ nước đầy
chông gai nhưng rất quang vinh, một đất nước mà điều kiện địa lý và hoàn
cảnh lịch sử đã đặt ra quá nhiều thử thách gian nguy, phải thường xuyên đối
phó với thiên tai dịch họa. Đối với dân tộc Việt Nam, thử thách lớn nhất và
nguy hiểm nhất là phải liên tục chống lại những thế lực xâm lược quá lớn
mạnh và hung bạo để bảo vệ tự do độc lập. Tuy nhiên, khi lao động dựng
nước cũng như chiến đấu giữ nước, nhân dân ta luôn đoàn kết, hợp quần
trong tình làng nghĩa xóm, trong khối cộng đồng quốc gia dân tộc. Nhân dân
ta chiến đấu và chiến thắng ngoại xâm bằng cả tinh thần và ý chí, bằng cả trí
tuệ và nhân nghĩa Việt Nam.
Việt Nam là dân tộc có truyền thống và tư chất quân sự đặc biệt. Có
dân tộc nào yêu qúy hòa bình và khát vọng độc lập tự do như dân tộc Việt
Nam? Chính điều đó đã thôi thúc nhân dân cả nước đứng lên chiến đấu giữ
nước. Không để cho kẻ thù khuất phục, dân tộc Viêt Nam luôn luôn vươn lên
với ý chí kiên cường, với trí tuệ tài ba và năng lực sáng tạo phong phú vì tự
do độc lập. Trước những kẻ thù to lớn, quân đông và thiện chiến, cuộc chiến
đấu của dân tộc ta thường mang tính chất toàn dân, toàn diện, cả nước đánh
giặc. Những cuộc đọ sức ấy biểu hiện trên tất cả các mặt hoạt đông xã hội,
Thiên thu vạn cổ yêu là khổ ?
Vạn cổ thiên thu khổ vẫn yêu!

×