Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Ký ức Tết với người Hà Nội ở xa ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.25 KB, 9 trang )

Ký ức Tết với người Hà Nội ở xa

1. Cụ - kỵ - ông - bà – chú - bác- anh- chị hai bên nội ngoại và cha - mẹ tôi đều là
cư dân sinh sống mấy đời ở Hà Nội. Vì thế tất cả tụi bạn tôi đều bảo: Mày là người
Hà Nội gốc. Có nhiều đứa khen nịnh: Người Hà Nội mềm mỏng, tinh tế. Giọng Hà
nội vừa chuẩn vừa thanh trong. Nhưng có đứa lại trề môi phản bác: Người Hà Nội
khách khí. Đang ăn, trông thấy người đi đường cũng dẻo miệng mời nhau”xơi
cơm”mà có phải thực lòng mời họ đâu…Thôi kệ! Tay bé khôn bưng vừa miệng
thế. Tôi luôn tự hào về cái gốc gác Hà Nội của mình nơi có rất nhiều cây xanh, hồ
đẹp, những nếp nhà mái ngói thâm nâu, nhiều những món ăn ngon, bởi hương vị
riêng không phải nơi nào cũng có.
Năm hết, Tết đến không khí xuân tự đến khắp mọi miền, thế nhưng với tôi, góc
chợ hoa Hàng Lược hay vườn Đào Nhật Tân nơi đã từng say sưa đứng vẽ trong lất
phất mưa phùn và tiết trời se lạnh, thì dẫu dù đi đâu, về đâu cũng chẳng thể nào
quên được.

Có nỗi buồn nào da diết như những cái Tết xa nhà, xa quê? Thế mà ngoài 50 tuổi
đời nhưng tôi đã phải đón quá nhiều cái Tết vắng Hà Nội. Kể cả 7 cái Tết xa nhà
khi du học nước ngoài và 25 cái Tết khi chuyển vào miền Nam làm việc và sinh
sống, thế mà đã hơn một phần tư thế kỷ không được ăn Tết ở Hà Nội. Nhiều đứa
bạn vỗ vai tôi: Mày mất gốc Hà Nội rồi.
Không, làm sao mà mất gốc? Hà Nội đã hằn in quá nhiều những kỷ niệm vui, buồn
trong tôi.
Hồi nhỏ, chúng tôi thích nhất là Tết và nhớ như in những cái Tết từ thời thơ ấu. Cả
năm, bố mẹ vất vả làm lụng và dành dụm để sắm Tết cho mấy chị em tôi: Chiếc áo
hoa cho chị, chiếc áo thêu hình người trượt tuyết cho em trai út và cho tôi chiếc
vỏ áo bông màu xanh công nhân cùng đôi giày bát - kết có đế cao su vàng còn
mới. Háo hức ngay từ chập tối, tôi cứ nằm ôm chặt món quà Tết ấy để chờ đến
thời khắc giao thừa, thiêng liêng, rồi ngủ quên lúc nào không biết. Sáng mùng một
Tết, nghe tiếng pháo nổ đì đùng gần xa, được ngửi mùi hương trầm bà nội thắp lên
khấn Phật và gia tiên, tụi trẻ con chúng tôi tự biết vùng chăn dậy sớm mà không


cần ai đánh thức. Dù quần áo, giày, dép mới đã chỉnh tề nhưng vẫn bị nhốt chặt
trong nhà vì phải chờ có người lớn hiền lành, đức độ, được nhiều người yêu mến
đến xông đất.(Người đủ phẩm chất này thường do bà Nội tôi đã “đặt hàng” trước
để cầu mong cả năm an lành, hanh thông).
Thành thông lệ, đêm giao thừa hoặc sáng mùng một Tết đại gia đình tôi có truyền
thống mừng tuổi. Ông, bà, cha, mẹ lì xì cho con cháu từ trên xuống dưới và ngược
lại từ các con, các cháu kính mừng tuổi ông, bà, cha, mẹ. Chị em tôi được người
lớn mừng tuổi bằng những đồng tiền mới toe.
Sau khi có người xông đất, thích nhất là lúc được phép mở cửa chạy ra đường. Với
tuổi ăn chưa no, lo chưa tới, thì chẳng gì sướng bằng khi thỏa thích hò hét, đua
nhau chạy mấy vòng quanh hồ Hoàn Kiếm. Khi bụng đói, mới sực nhớ là mải chơi
chưa ăn gì. Ngày Tết ai cũng ngán bánh chưng. Khi đang đói mà được ăn chiếc
bánh gối không nhân thơm ngậy mỡ dòn tan, rỗng ruột bên trong rót đầy tương ớt
vào trong và vừa mới cắn thì ớt đã chảy tràn hai bên mép thật tuyệt. Sang hơn nữa
lại được ăn hai hào một đĩa nộm đu đủ bào nhỏ, rắc bên trên mấy miếng thịt bò
khô rồi chan dấm chua ngọt và chút tương ớt cay xè. Mới nghe thấy tiếng kéo lách
tách của người bán nộm và ngửi thấy mùi mực nướng, mùi dấm, ớt và chỉ nhìn
người khác đang ăn mà đã thèm nuốt nước miếng.
Tràng An ngõ nhỏ phố nhỏ nhà tôi ở đó - nơi có ngôi chùa cổ kính với gốc hoa đại
đã đến hàng trăm tuổi thân xù xì uốn cong dựa vào bờ tường sau chùa. Cây đại này
đã có từ hồi cụ nội tôi, qua cả thời bố tôi, tới chúng tôi còn nhỏ, trưởng thành rồi
đi xa mà nó vẫn còn mãi đến bây giờ. Nó như hệt một chứng nhân âm thầm nở hoa
cùng những thăng trầm của thời cuộc và ngát hương thơm nhè nhẹ cùng nhiều thế
hệ cư dân trong ngõ với bao đổi thay người mất, người còn, người tha phương,
người mới đến.
Nơi tôi ở chật lắm. Chỉ không đầy 50 mét vuông mà hai gia đình chú, bác ruột và
ông, bà, con, cháu… với 15 người cùng sinh sống dưới một mái nhà. Nồi, xoong,
chậu giặt cùng nhiều thứ linh tinh cùng phải để dưới gầm giường. Khi ngủ, cóp lúc
phải nằm trở đầu đuôi mới đủ chỗ trên giường. Khi khách tới chơi, cả chủ và
khách bắc ghế ngồi ngay ngoài cửa. Khách ngồi trong nhà, trẻ con được lùa ra

đường cho vắng bớt. Vậy mà suốt ba mươi năm, hai gia đình anh em ruột sống
cùng cha, mẹ và các cháu, con chung sống êm ấm.
Suốt những năm tháng chiến tranh bắn phá của máy bay Mỹ, dưới ngay gầm
giường là hầm, bên trên phủ chăn để che mảnh đạn. Ai lo thì cứ lo, còn tụi trẻ con
chúng tôi lại thích nhất khi được chui xuống hầm để bắt dế, đào giun và cả những
con gián đất hay trốn dưới mấy hòn gạch lát dưới đáy hầm. Khi máy bay Mỹ bắn
phá làm trần nhà tôi bị sập, nhà tôi làm gác lửng, tất cả đàn ông con trai lên gác,
đàn bà con gái được ưu tiên ở dưới.Tôi nhớ như in sáng mùng một Tết năm Mậu
Thân 1968, đang trên đường Hàng Bông Thợ Nhuộm tới chúc Tết cô giáo thì phải
nhảy xuống hầm cá nhân khi còi báo động cùng tiếng máy bay và cao xạ pháo nổ
ầm ầm trên đầu.
Những ngôi nhà đổ nát gần nhà máy điện Yên Phụ, những dãy phố vắng người
tường nhà sơn toàn màu đen phòng không; những quả bóng khinh khí cầu được
buộc dây treo lơ lửng cao thấp nhằm hạn chế máy bay địch bổ nhào; những hàng
người xếp hàng trật tự chờ đến lượt mình để mua túi hàng tết gồm một gói mứt và
kẹo trứng chim, miếng bóng, gói mì chính, hạt tiêu và mấy bó lá dong để gói bánh
chưng…đã mãi mãi in hằn những ký ức đậm nét với thế hệ chúng tôi.
Tết năm 1973 sau Hiệp định hòa bình Paris, từ nơi sơ tán, chúng tôi được trở về
Hà Nội học nhưng cuộc sống vẫn còn bao khốn khó. Mối tình đầu của tôi cũng bắt
đầu bằng những những hẹn hò, chờ đợi. Nhiều Tết phải chen lấn hàng mua vé tàu
về quê cho người yêu. Hồi đó chẳng có điện thoại, tin nhắn như bây giờ, nên suốt
mùng 4 đến mùng 6 Tết ngày ba buổi ra ga Hà Nôi để đón những chuyến tàu về.
Bóng dáng yêu thương chẳng thấy đâu trong số hành khách đang ùa ra. Cho đến
khi cổng ga được khóa lại, lại lủi thủi ra về để mấy giờ sau quay lại ga chờ ngóng
chuyến sau.
2. “Tết ta” ở bên Tây có lẽ là vô duyên nhất.
Vì các bạn nước ngoài đón Tết dương lịch. “Tết ta” của Việt Nam rơi vào ngày
phải đi học bình thường.
Theo múi giờ mùa đông, giờ Matxcơva chênh nhau với giờ Việt Nam 4 tiếng đồng
hồ. Đúng 8 giờ tối ở thủ đô Nga, ở nhà là giao thừa. Từ chiều tụi lưu học sinh Việt

Nam chúng tôi cũng tìm cách cúp cua giờ nghe giảng, tranh thủ đi chợ, về sớm tụ
tập làm nem gián (chả giò), món thịt nướng, gà luộc, bò xào và trái cây các loại
như nho, lê, táo…cùng rượu sâm-panh và vang đỏ. Một số thầy, bạn nước ngoài
thân thiết cùng đến dự chung vui với những đứa con xa nhà.
Khi chuông báo thức điểm 8 giờ tối, từ radio vang xa giọng trầm ấm của nam phát
thanh viên: Đây là Đài tiếng nói Việt Nam- phát thanh từ Hà Nội thủ đô nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam…, nhiều người trong chúng tôi đã khóc.
Khóc vì nhớ Việt Nam. Nhớ nhà, ông, bà cha mẹ người thân. Dù sau đấy là tiếng
mở rượu, tiếng chúc tụng nhau và đêm thơ- nhạc hướng tình cảm về nhà, nhưng
trong sâu thẳm ai cũng có gì đó buồn nhớ quê.
Thời chúng tôi du học nước ngoài đã làm gì sẵn có điện thoại, chat, email,
webcam…thuận lợi như bây giờ. Thư viết gửi về nhà khoảng 4 tuần mới nhận
được hồi âm. Có người đã khóc khi lâu không nhận được thư nhà. Sáng sáng,
chiều chiều đi học hay trở về ký túc xá, chúng tôi cùng đứng bên chiếc bàn để thư
ngay dưới sảnh gần cửa ra vào để xem mình có thư không. Không thiếu những
buổi ngồi nghe giảng mà hồn để tận đâu đâu, lòng nặng trĩu nỗi lo thương người
thân nơi khốn khó.
Có một tối giao thừa mà chúng tôi không bao giờ quên được. Đó là có một bạn
cùng trường có cha vừa mới mất. Chúng tôi nhận được tin này qua một người mới
bay từ Việt Nam sang, trong khi chính bạn ấy lại chưa biết gì. Báo hay không báo
nỗi mất mát to lớn cho bạn mình vào chính đêm giao thừa này thật sự là một quyết
định khó khăn.
Chúng tôi chia người gần bên bạn, chăm sóc, hỏi han và đóng kịch như không có
chuyện gì. Nhưng sự chăm sóc thái quá của chúng tôi khiến bạn ấy cảm thấy lạ và
đã nghi ngờ. Bằng sự linh cảm chính xác, bạn ấy đã hỏi vặn lại chúng tôi. Và thế
là phải nói ra sự thật rồi tất cả đều òa khóc đối diện với mất mát trong chính lúc
giao thừa.
Mẹ ơi! Tết này con lại không về…
3. Tết Sài Gòn nắng chang chang nhìn hoa mai vàng lại càng nhớ Hà Nội da diết.
Máy bay giờ đã là phương tiện thân thuộc với nhiều người nên chỉ sau hai tiếng

đồng hồ người ta đã có thể gặp nhau. Vì thế có người sáng ba mươi Tết còn chọn
mua cành đào và hoa violet, chiều tối đã ngồi tại Sài Gòn chờ đón giao thừa.
Giờ đây cái rét hanh khô ngoài Bắc như hòa lẫn cùng nắng gió phương Nam. Ngay
giữa Sài Gòn, những người con xa Hà Nội đã có rất nhiều hơi hướng thủ đô trong
bữa ăn hàng ngày và càng dồi dào hơn vào mỗi dịp Tết. Từ các quán phở Bắc, bún
chả, các quán cơm Hà Nội với chả rươi, chả xương xông, chuối xanh nấu với ốc,
đậu phụ… Trên đường Hồng Hà gần sân bay cũng có quán bia hơi Hà Nội thứ
thiệt. Nhiều những quầy bán thực phẩm mang từ Hà Nội vào. Từ trái sấu, trái
chám đen, mận, đào, lê, vải…đến dưa, cà, hành, kiệu… muối, tương bần, từ ô mai,
chè Lam, kẹo bột, mứt sen, cốm vòng… từ bắp cải, xu hào, rau thơm, mùi, hành
củ… đến cả thịt đông, bánh cuốn Thanh Trì…hầu như cái gì cũng có.
Ngay Thủ Đức cũng có phiên bản chùa Một Cột. Biểu tượng Hà Nội ngay trong
lòng Sài Gòn. Mấy ngày Tết, khách thập phương càng ra, vào tấp nập đông vui.
Lại bỗng nhớ có một chiều giáp Tết, tôi vội vã ra thăm mẹ để vào kịp miền Nam
trước giao thừa. Trong tiếng pháo nổ gần xa, giữa lúc mọi người hình như ai ai
cũng mải miết ngược xuôi sắm Tết, chỉ riêng hai mẹ con tôi như hệt khách vãng
lai nhàn tảng, lững thững dạo chơi Hà nội. Bách bộ dọc theo phố Cột cờ, qua vườn
hoa Canh Nông (là tên cũ) để tìm lại gốc cây và chiếc ghế đá nơi thời xưa bà đã
từng ngồi chờ cha tôi.
Vào thăm Văn Miếu Quốc Tử Giám trong không khí thanh vắng của buổi chiều
cuối năm, chúng tôi đứng bên cạnh Rùa đội tấm bia- nơi có khắc tên cụ tổ dòng họ
là Đỗ Lệnh Danh – đỗ Trạng Nguyên khoa thi năm 1706, mà bất giác vừa tự hào,
vừa như cùng cảm giác mắc lỗi với tiền nhân về chí thú học hành và tài danh đỗ
đạt, trong khi mình đã trên đầu hai thứ tóc mà vẫn chưa đâu vào đâu.
Cảm giác chung là mỗi lần ra Hà Nội, lần nào cũng thấy vội và có lỗi với người
thân, bạn bè. Thường trước Tết vài ngày tôi hay ra công tác. Cứ mỗi chuyến đi đều
dự định thăm người này, người kia nhưng rồi lại bị công việc và những hẹn hò này
nọ ngoài dự kiến cuốn đi. Sắp cất cánh trở lại Sài Gòn, nhìn Hà Nội thân thương
qua cửa sổ máy bay mới càng thấm thía lời bài hát của nhạc sĩ Phú Quang vội vã
trở về vội vã ra đi. Có những lần ra Hà Nội hôm trước hôm sau đã lủi thủi trở về.

Đành đi nhẹ nói khẽ mà không dám gặp một ai vì đi thăm sao cho đủ hết mọi
người?
Người thân ơi, bạn bè ơi…lòng người xa chẳng hề quên một ai, nhưng đến chơi
với người này, lại sợ người kia hay tin rồi hờn giận. Nói ra chẳng dễ ai tin- lại cho
là khéo nói.

×