Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Dân tộc Rơ Măm Nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.57 KB, 6 trang )

Dân tộc Rơ Măm
Nhóm ngôn ngữ
Môn - Khmer

Dân số
230 người.

Cư trú
Sống ở làng Le, xã Mo Rai, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum.

Đặc điểm kinh tế
Người Rơ Măm sinh sống bằng nghề làm rẫy, lúa nếp là lương thực chủ yếu. Khi
gieo trồng, đàn ông cầm hai gậy nhọn chọc lỗ, đàn bà theo sau bỏ hạt giống và lấp
đất, săn bắt và hái lượm vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế. Trong
số các nghề phụ gia đình, nghề dệt vải phát triển nhất nhưng ngày nay đã suy giảm
vì đồng bào đã quen dùng các loại vải công nghiệp bán trên thị trường.

Tổ chức cộng đồng
Đơn vị cư trú của người Rơ Măm là đê (làng), đứng đầu là một ông già trưởng
làng do dân tín nhiệm. Làng Le của người Rơ Măm nay chỉ còn khoảng 10 ngôi
nhà ở, có cả nhà rông. Mỗi nhà có từ 10 đến 20 người gồm các thế hệ, có quan hệ
thân thuộc với nhau. Các cặp vợ chồng dù vẫn sống chung dưới một mái nhà, như-
ng đã độc lập với nhau về kinh tế.

Hôn nhân gia đình
Việc cưới xin của gia đình Rơ Măm gồm 2 bước chính: ăn hỏi và lễ cưới. Sau lễ c-
ưới vài ba ngày, vợ chồng có thể bỏ nhau, nhưng khi đã sống với nhau lâu hơn thì
họ không bỏ nhau.

Tục lệ ma chay
Khi có người chết, sau 1-2 ngày đa đi mai táng. Nghĩa địa nằm về phía Tây của


làng, các ngôi mộ được sắp xếp có trật tự, khi chôn, tránh để người dưới mộ
"nhìn" về phía làng. Người Rơ Măm không bao giờ làm nghĩa địa phía Đông, vì sợ
cái chết sẽ "đi" qua làng như hướng đi của mặt trời.

Nhà cửa
Nhà ở đều có hành lang chính giữa, chạy suốt chiều dài sàn, ở trung tâm nhà có
một gian rộng là nơi tiếp khách và diễn ra các sinh hoạt văn hóa nói chung của các
gia đình

Trang phục
Có phong cách riêng trong tạo dáng và trang trí trang phục, đặc biệt là trang phục
nữ. Người Rơ Măm có tục "cà răng, căng tai". Đến tuổi trưởng thành, trai gái đều
cà cụt 4 hay 6 răng cửa hàm trên. Hiện nay lớp trẻ đã bỏ tục này. Phụ nữ thích đeo
khuyên, hoa tai, vòng tay và đeo những chuỗi cườm ở cổ.
+ Trang phục nam
Nam cắt tóc ngắn ở trần, đóng khố. Vạt trước khố dài tới gối, vạt sau dài tới ống
chân. Khố thường dùng màu trắng nguyên của vải mộc. Lưng được xăm hoa văn
kín, nhất là những người cao tuổi. Trai gái đến tuổi thành niên phải cà răng ở hàm
trên (4 hoặc 6 chiếc).
+ Trang phục nữ
Phụ nữ thường để tóc dài búi sau gáy. Áo là loại cộc tay vai thẳng (không khoét cổ
như Brâu), thân thẳng, hình dáng gần vuông giống áo Brâu. Áo màu sáng (màu
nguyên của sợi bông) các đường viền cổ và cửa tay cộc màu đỏ. Gấu áo có dải
băng trang trí (cao 1/4 thân áo) bằng màu đỏ, hoa văn hình học. Váy là loại váy hở
màu trắng nguyên sợi bông. Bốn mép váy và giữa thân váy có các đường viền hoa
văn màu đỏ với mô típ hoa văn hình học và sọc ngang. Họ thường đeo hoa tai
vòng to, nặng xệ xuống. Người khá giả đeo hoa tai bằng ngà voi, người nghèo đeo
hoa tai bằng gỗ. Vòng tay là loại bằng đồng nhiều xoắn. Lý do được chọn của
trang phục Rơ Măm chính là màu sắc và phong cách trang trí áo, váy phụ nữ.
Dân tộc Khang


Tên gọi khác
Xá Khao, Xá Xúa, Xá Đón, Xá Dâng, Xá Hộc, Xá Bung, Quảng Lâm.

Nhóm ngôn ngữ
Môn - Khmer

Dân số
4.000 người.

Cư trú
Sơn La và Lai Châu

Đặc điểm kinh tế
Người Kháng làm rẫy theo lối chọc lỗ tra hạt, trồng nhiều lúa nếp làm lương thực
chính, nay nhiều nơi chuyển sang cày bừa đất, gieo hạt, có ruộng bậc thang nhưng
không nhiều. Đồng bào chăn nuôi gà, lợn, trâu là phổ biến. Đồ đan : ghế, rổ, rá,
nia, hòm, gùi và thuyền độc mộc kiểu đuôi én của đồng bào được người Thái ưa
dùng. Người Kháng thường dùng loại gùi một quai, đeo qua trán. Đồng bào trồng
bông rồi đem bông đổi lấy vải và đồ mặc của người Thái.

Hôn nhân gia đình
Tục cưới xin của người Kháng lần lượt trải qua các lễ thức sau: dạm hỏi, xin ở rể,
cưới. Lễ cưới lần đầu được tổ chức cho chàng trai đi ở rể. Lễ cưới lần hai, đưa dâu
về nhà chồng để gây dựng gia đình riêng. Người cậu có vai trò đặc biệt trong việc
dựng vợ gả chồng cho cháu.

Tục lệ ma chay
Theo phong tục Kháng, người chết được chôn cất chu đáo, trên mộ có nhà mồ, có
các đồ vật dành cho người chết: hòm đựng quần áo, giỏ cơm, ống hút rượu, bát,

đũa, v.v , phía đầu mộ chôn một cột cao 4-5 mét, trên đỉnh có con chim gỗ và
treo chiếc áo của vợ hay chồng người chết.

Văn hóa

Đồng bào Khmer có các ngày lễ lớn là Chôn Chơ nam thơ mây (năm mới), lễ Phật
đản, lễ Đôn ta (xá tội vong nhân), Oóc bom boóc (cúng trăng).

Nhà cửa
Người Kháng ở nhà sàn. Nhà thường có 3 gian 2 chái, mái kiểu mu rùa và hai cửa
ra vào ở hai đầu nhà, 2 cửa sổ ở hai vách bên. Trước kia, mái ở hai đầu hồi thường
được làm thẳng, hiện nay nhiều nơi đã làm mới hình mái rùa như nhà Thái Đen.
Mỗi nhà có hai bếp lửa (một bếp để nấu ăn hàng ngày, còn một bếp để sưởi và để
nấu đồ cúng khi bố mẹ chết).

Trang phục
Cá tính tộc người mờ nhạt giống phong cách trang phục Thái đen. Phụ nữ nhuộm
răng đen, ăn trầu.

×