Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

thực trạng cán cân thanh toán việt nam 2009 – 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (821.33 KB, 45 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
Bài tiểu luận nhóm 1
Đề tài
THỰC TRẠNG CÁN CÂN
THANH TOÁN VIỆT NAM 2009 – 2010
TP. HỒ CHÍ MINH
NĂM 2011
Lớp: ĐH25C_T03 Thành viên trong nhóm:
GVHD: Nguyễn Minh Sáng
Mục lục
PHẦN I
GIỚI THIỆU ĐỀ
TÀI
4
1.1 Giới thiệu đề tài
Việt Nam sau khi gia nhập WTO đã và đang có rất nhiều những cơ hội mới mà đi
kèm với nó cũng là những thách thức mới, tận dụng cơ hội và vượt qua thử thách
giai đoạn này sẽ là một bước ngoặt quan trọng giúp Việt Nam tách nhóm và có thể
tiếp bước NICs II. Nhưng ngược lại, nếu bỏ lỡ cơ hội và hứng trọn nguy cơ thì Việt
Nam sẽ mãi bận bịu với những vấn đề cũ, theo đó, dậm chân tại chỗ sẽ là điều tất
yếu.Một trong những mảng rất quan trọng trong phát triển kinh tế, vừa là cơ hội,
vừa là thách thức đối với Việt Nam đó là kinh tế đối ngoại.
Để theo dõi cũng như có cái nhìn chung nhất về tình hình kinh tế đối ngoại của một
quốc gia, có một công cụ quan trọng đó chính là cán cân thanh toán quốc tế. Diễn
biến trong cán cân thanh toán quốc tế của mỗi nước luôn là một trong những mối
quan tâm hàng đầu đối với những nhà hoạch định chính sách của quốc gia đó. Vậy
thì cán cân thanh toán là gì, có những nét cơ bản nào, cán cân thanh toán cụ thể của
Việt Nam ra sao, giải pháp cho những vấn đề đó là gì Với những mối quan tâm
không của riêng các nhà hoạch định chính sách mà của cả những sinh viên kinh tế
đang bắt đầu được trang bị để có cái nhìn của riêng mình về tình hình kinh tế quốc


gia, nhóm xin giới thiệu bài tiểu luận “Phân tích cán cân thanh toán quốc tế Việt
Nam giai đoạn 2009 - 2010”.
1.2 Đối tượng và phạm vi đề tài:
Thực trạng về cán cân thanh toán quốc tế ở Việt Nam và giải pháp cho thực trạng
đó là một mảng đề tài rất lớn với rất nhiều những yếu tố tác động. Đứng ở mỗi vị trí
cũng như mục đích làm đề tài khác nhau thì đối tượng cũng như phạm vi đề tài cũng
sẽ khác nhau. Nhóm không có tham vọng lớn chỉ mong làm rõ mọi ngóc ngách của
bức tranh cán cân thanh toán và đưa ra những giải pháp giải quyết triệt để cho
những vấn đề hiện nay. Ở vị trí là những sinh viên đại diện giới trẻ bắt đầu được
trang bị những kiến thức cơ bản về kinh tế, nên có góc nhìn riêng của bản thân
trước vấn đề quốc gia, kết hợp với những kiến thức được trang bị và từ đó có những
ý kiến hoặc giải pháp cho những vấn đề đã nhìn nhận được.
5
Nhóm sẽ tiếp cận cán cân thanh toán từ việc làm rõ lý thuyết về cán cân thanh toán
quốc tế nói chung và những yếu tố tác động, kết hợp với số liệu thực tế thu được
phân tích cụ thể số liệuđể phác họa tổng thể bức tranh cán cân thanh toán Việt Nam,
từ đó tìm ra những nguyên nhân dẫn đến thực trạng cán cân thanh toán hiện nay,
đặc biệt nhóm cũng xin phép kết hợp thêm việc trình bày thêm các biện pháp, các
chính sách từng giai đoạn nhỏ của nhà nước, kết hợp với những lý thuyết sẵn có
xem xét và đưa ra một vài giải pháp cho thực trạng cán cân thanh toán Việt Nam
hiện nay.
6
CHƯƠNG II
TỔNG QUAN VỀ
CÁN CÂN
THANH TOÁN
VIỆT NAM
7
2.1 Khái niệm cán cân thanh toán quốc tế:
BP là một bản báo cáo thống kê tổng hợp có hệ thống, ghi chép lại giá trị tất cả các

giao dịch kinh tế giữa người cư trú với người không cư trú trong một thời kỳ nhất
định, thường là một năm.
Như vậy, để hiểu được phạm vi của BP thì điều cần thiết là phải giải thích các thuật
ngữ “người cư trú” và “người không cư trú”.
• “Người cư trú”: thời hạn cư trú dài (thường từ một năm trở lên), có nguồn
thu nhập trực tiếp tại quốc gia cư trú.
• “Người không cư trú”: thời hạn cư trú ngắn (thường dưới một năm), có
nguồn thu nhập từ bên ngoài quốc gia cư trú.
Với hai tiêu chí trên, cần chú ý:
− Nếu xét từ góc độ BP, thì “quyền công dân” và “nơi cư trú” không
nhất thiết phải trùng nhau, ví dụ: có thể là công dân của nước này,
nhưng lại cư trú ỏ nước khác; khi lập BP ta chỉ quan tâm đến nơi cư
trú mà không cần để ý đến quyền công dân là thuộc nước nào.
− Các tổ chức quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân Hàng thế giới,
Liên Hợp quốc,… được xem là người không cư trú đối với mọi quốc
gia, tức ngay cả với các quốc gia mà tổ chức đó đóng trụ sở.
− Các đại sứ quán, căn cứ quân sự nước ngoài, các lưu học sinh, khách
du lịch,… dù thời hạn lưu trú là bao nhiêu đều được xem là người
không cư trú đối với nước đến và là người cư trú đối với nước đi.
− Đối với các công ty đa quốc gia sẽ là người cư trú đồng thời tại nhiều
quốc gia. Do đó, để tránh trùng lặp thì chỉ các chi nhánh của công ty
đặt tại nước nào thì được coi là người cư trú của nước đó.
Nhìn chung, khái niệm “người cư trú” và “người không cư trú” đối với mỗi quốc
gia đều được hiểu theo luật đinh và tương đối thống nhất giữa các quốc gia. Đối với
Việt Nam, khái niệm người cư trú và người không cư trú được quy định tại Khoản 2
và 3 thuộc Điều 3 trong Nghị định 164/1999/NĐ-CP, ngày 16 tháng 11 năm 1999
của Chính phủ về Quản lý Cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam.
2.2 Thu thập số liệu và báo cáo:
8
Những số liệu trong BP ghi chép lại tất cả các giao dịch kinh tế giữa người cư trú

với người không cư trú, bao gồm:
• Các giao dịch về hàng hóa và dịch vụ.
• Thu nhập của người lao động, thu nhập về đầu tư trực tiếp và đầu tư chứng
khoán (đầu tư gián tiếp).
• Chuyển giao vãng lai một chiều.
• Đầu tư trực tiếp.
• Đầu tư chứng khoán như tín phiếu, trái phiếu và cổ phiếu.
• Quan hệ tín dụng.
• Các hình thức đầu tư khác và các giao dịch khác làm tăng hoặc giảm tài sản
nợ giữa người cư trú với người không cư trú.
• Chuyển giao vồn một chiều.
Hiện nay, giữa các quốc gia trên thế giới, cơ quan chịu trách nhiệm lập và báo cáo
BP là không đồng nhất.Tuy nhiên, về mặt nguyên tắc thì IMF đã cung cấp một hệ
thống chỉ dẫn thống nhất cho các quốc gia thành viên.Hệ thống chỉ dẫn này được
công bố trong “Balance of Payments Manual”. Ngoài ra, hàng năm IMF còn công
bố bản BP của tất cả các nước thành viên theo mẫu thống nhất để có thể so sánh
tình hình BP giữa các quốc gia với nhau. Các bản BP được công bố phát hành dưới
2 hình thức là: Niên giám thống kê (Balance of Payments Statistics Yearbook) và
Thống kê tài chính quốc tế (International Financial Statistics). Cơ quan chịu trách
nhiệm lập và báo cáo BP là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Đồng tiền sử dụng ghi chép trong BP: Đối với những nước phát triển có đồng tiền
tự do chuyển đổi, thì những số liệu trong BP thường được ghi chép bằng nội tệ; còn
đối với những nước có đồng tiền không được tư do chuyển đổi hoặc thường xuyên
biến động, thường sử dụng một ngoại tệ tự do chuyển đổi được sử dụng nhiều nhất
trong thanh toán quốc tế của quốc gia này, ví dụ ở Việt Nam là USD. Tuy nhiên, tùy
theo mục đích sử dụng và phân tích, người ta có thể lập BP theo các đồng tiền khác
nhau bằng cách quy đổi các hạng mục của BP ra đồng tiền hạch toán theo tỷ giá
chéo. Để thống nhất và tạo cơ sở so sánh giữa các nước, trong cuốn Thống kê tài
chính quốc tế (International Financial Statistics), đồng tiền ghi chép trong BP của
các nước được ghi thống nhất bằng SDR.

9
2.3 Kết cấu và các cán cân bộ phận của BP:
2.3.1 Kết cấu của BP:
Theo thông lệ, BP bao gồm 2 cán cân bộ phận chính, đó là: Cán cân vãng lai
(Current Balance) và Cán cân vốn (Capitac Balance). Điều đó là do những hạng
mục thuộc tài khoản vãng lai phản ánh các luồng thu nhập (income flows), trong khi
đó các hạng mục thuộc tài khoản vốn phản ánh sự thay đổi trong tài sản có và tài
sản nợ (changes in assets anh liabilities) giữa người cư trú với người không cư trú.
Từ tiêu chí trên rút ra đặc điểm:
• Đặc trưng cơ bản của cán cân vãng lai là phản ánh các khoản thu và chi
mang tính thu nhập (incomes), nghĩa là các khoản thu chỉ này phản ánh việc
chuyển giao quyền sở hữu về tài sản giữa người cư trú với người không cư
trú. Các khoản thu phản ánh tăng tài sản thuộc quyền sở hữu; còn các khoản
chi phản ánh giảm tài sản thuộc quyền sở hữu.
• Đặc trưng cơ bản của cán cân vốn là phản ánh các khoản thu và chi liên
quan đến tài sản có và tài sản nợ, nghĩa là các khoản thu chi này phản ánh sự
chuyển giao quyền sử dụng về tài sản giữa người cư trú với người không cư
trú. Các khoản thu phản ánh: hoặc tăng TSN (ví dụ đi vay nước ngoài); hoặc
giảm TSC (ví dụ rút tiền từ tài khoản tiền gửi nước ngoài). Các khoản chi
phản ánh: hoặc tăng TSC ( ví dụ cho nước ngoài vay); hoặc giảm TSN (ví dụ
trả nợ vay nước ngoài).
2.3.2 Các cán cân bộ phận của BP
BP bao gồm 5 cán cân bộ phận chính như sau:
• Cán cân vãng lai.
• Cán cân vốn.
• Cán cân cơ bản
• Cán cân tổng thể.
• Cán cân bù đắp chính thức.
Ngoài ra, trong BP còn bao gồm một khoản mục “Lỗi và sai sót”.
2.3.2.1 Cán cân vãng lai – Current account (CA)

Cán cân vãng lai bao gồm 4 cán cân tiểu bộ phận là:
• Cán cân thương mại – Trade Balance (TB).
• Cán cân dịch vụ - Services.
10
• Cán cân thu nhập – Incomes.
• Cán Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều – Current Transfers.
2.3.2.1.aCán cân thương mại (TB):
Cán cân thương mại còn được gọi là cán cân hữu hình (visible), bởi nó phản ánh
chênh lệch giữa các khoản thu từ xuất khẩu và các khoản chi cho nhập khẩu hàng
hóa, mà các hàng hóa này lại có thể quan sát được bằng mắt thường khi di chuyển
qua biên giới . Xuất khẩu làm phát sinh cung ngoại tệ trên thị trường ngoại hối nên
được ghi có (+) trong BP; và nhập khẩu làm phát sinh cầu ngoại tệ trên thị trường
ngoại hối nên được ghi nợ (-) trong BP. Khi thu nhập từ xuất khẩu lớn hơn chỉ cho
nhập khẩu hàng hóa, thì cán cân thương mại thặng dư. Ngược lai, khi thu nhập từ
xuất khẩu thấp hơn chỉ cho nhập khẩu hàng hóa, thì cán cân thương mại thâm hụt.
Các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị xuất khẩu hàng hóa, tức ảnh hưởng lên cung
ngoại tệ bao gồm:
• Nhân tố tỷ giá
− Làm tăng giá trị xuất khẩu tính bằng nội tệ.
− Giảm cho giá trị xuất khẩu bằng ngoại tệ có thể tăng hoặc giảm.
• Nhân tố lạm phát:
Ảnh hưởng của nhân tố lạm phát lên giá trị xuất khẩu tính bằng nội tệ và
ngoại tệ là không chính xác và không rõ ràng.
• Giá thể giới của hàng hóa xuất khẩu tăng:
Với các nhân tố khác không đổi, nếu giá thế giới của hàng hóa xuất khẩu của
một nước tăng sẽ làm tăng cầu nội tệ và tăng cung ngoại tệ trên FOREX.Hay
nói cách khác, khi giá thể giới của hàng hóa xuất khẩu tăng, làm tăng giá trị
xuất khẩu tính bằng nội tệ và bằng ngoại tệ.
• Thu nhập của người không cư trú:
Với các nhân tố khác không đổi, khi thu nhập thực tế của người không cư trú

tăng, làm tăng cầu xuất khẩu bởi người không cư trú, do đó, làm tăng cầu nội
tệ và tăng cung ngoại tệ, tức làm tăng giá trị xuất khẩu bằng nội tệ và ngoại
tệ.
• Thuế quan và hạn ngạch ở nước ngoài:
Với các nhân tố khác không đổi, giá trị xuất khẩu của một nước sẽ giảm nếu
bên nước ngoài áp dụng mức thuế quan cao, hạn ngạch nhập khẩu thấp cũng
như áp dụng các hàng rào phi thuế quan như: yêu cầu về chất lượng hàng hóa
và tệ nạn quan liêu, kết quả là làm giảm cầu nội tệ.
11
Những nhân tố ảnh hưởng lên giá trị nhập khẩu hàng hóa: tức ảnh hưởng lên cầu
ngoại tệ là giống với những nhân tố ảnh hưởng lên xuất khẩu, nhưng tác động
ngược chiều.
2.3.2.1.bCán cân dịch vụ:
Bao gồm các khoản thu, chi từ các hoạt động dịch vụ về vận tải, du lịch, bảo hiểm,
bưu chính, viễn thông, hàng không, ngân hàng, thông tin, xây dựng và từ các hoạt
động dịch vụ khác giữa người cư trú với người không cư trú. Giống như xuất nhập
khẩu hàng hóa, xuất khẩu dịch vụ làm phát sinh cung ngoại tệ (cầu nội tệ), nên nó
được ghi vào bên có và có dấu (+); nhập khẩu dịch vụ làm phát sinh cầu ngoại tệ
(cung nội tệ), nên nó được ghi vào bên nợ và có dấu (-).Các nhân tố ảnh hưởng lên
giá trị xuất nhập khẩu dịch vụ cũng giống như các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị
xuất nhập khẩu hàng hóa.
Trong những năm gần đây, doanh số xuất nhập khẩu dịch vụ đã tăng lên nhanh
chóng cả về số lượng tuyệt đối và tương đối so với doanh số xuất nhập khẩu hàng
hóa.Theo các số liệu công bố của IMF, thì doanh số xuất nhập khẩu dịch vụ của các
nước phát triển bằng 20% doanh số xuất nhập khẩu hàng hóa. Các lĩnh vực của dịch
vụ có tốc độ tăng trưởng nhanh bao gồm: du lịch, vận tải biển, viễn thông và thông
tin về khoa học kỹ thuật.
2.3.2.1.cCán cân thu nhập
Bao gồm:
• Thu nhập của người lao động: Là các khoản tiền lương, tiền thưởng và các

khoản thu nhập khác bằng tiền, hiện vật do người không cư trú trả cho người
cư trú và ngược lại. Các nhân tố ảnh hưởng lên thu nhập của người lao động
bao gồm: Số lượng và chất lượng (mức lương) của những người lao động ở
nước ngoài.
• Thu nhập về đầu tư: Là các khoản thu từ lợi nhuận đầu tư trực tiếp, lãi đầu tư
vào giấy tờ có giá và các khoản lãi đến hạn phải trả của các khoản vay giữa
người cư trú và người không cư trú.
Các khoản thu nhập của người cư trú từ người không cư trú làm phát sinh cung
ngoại tệ (cầu nội tệ) nên được ghi vào bên có (+) và các khoản thu nhập trả cho
người không cư trú phát sinh cầu ngoại tệ (cung nội tệ) nên được ghi vào bên nợ (-).
Nhân tố chính ảnh hưởng lên giá trị thu nhập về đầu tư là số lượng đầu tư và tỷ lệ
sinh lời (hay mức lãi suất) của các dự án đã đầu tư trước đây. Yếu tố tỷ giá chỉ đóng
vai trò thứ yếu, bởi vì tỷ giá chỉ ảnh hưởng lên giá trị chuyển hóa thu nhập sang các
đồng tiền khác nhau.
12
2.3.2.1.dCán cân chuyển giao vãng lai một chiều, bao gồm:
Các khoản viện trợ không hoàn lại, quà tặng, quà biếu và các khoản chuyển giao
khác bằng tiền, hiện vật cho mục đích tiêu dùng do người không cư trú chuyển cho
người cư trú và ngược lại. Các khoản chuyển giao vãng lai một chiều phản ánh sự
phân phối lại thu nhập giữa người cư trú với người không cư trú.
2.3.2.2 Cán cân vốn – Capital Balance (K)
Bao gồm:
• Cán cân vốn dài hạn: Luồng vốn dài hạn chảy vào và chảy ra khỏi một quốc
gia được phân theo tiêu chí “chủ thể” và “khách thể”. Theo tiêu chí chủ thể,
vốn dài hạn được chie theo khu vực tư nhân và khu vực nhà nước. Theo tiêu
chí khách thể, các luồng vốn dài hạn được chia thành đầu tư trực tiếp, đầu tư
gián tiếp và vốn dài hạn khác. Tiêu chí để đưa một luồng vốn dài hạn vào
danh mục đầu tư trực tiếp là mức độ kiểm soát công ty nước ngoài.
Đầu tư gián tiếp bao gồm các khoản đầu tư mua trái phiếu công ty, trái phiếu
chính phủ và đâu tư mua cổ phiếu nhưng chưa đạt tới mức độ để kiểm soát

công ty nước ngoài.Vốn dàu hạn khác bao gồm chủ yếu là tín dụng dài hạn
thuộc khu vực nhà nước và tín dụng thương mại dài hạn thuộc khu vực tư
nhân.
• Cán cân vốn ngắn hạn: Luồng vốn ngắn hạn chảy vào và chảy ra khỏi một
quốc gia cũng được phân theo tiêu chí “chủ thể” thành khu vực nhà nước và
khu vực tư nhân. Cán cân vốn ngắn hạn bao gồm nhiều hạng tiền gửi, mua
bán các giấy tờ có giá ngắn hạn, các khoản tín dụng ngân hàng ngắn hạn,
kinh doanh ngoại hối… Ngày nay, trong môi trường tự do hóa tài chính, các
luồng vốn đầu cơ (hot money) tăng lên nhanh chóng, làm cho cán cân vốn
ngắn hạn trở nên có ảnh hưởng đáng kể đến cán cân thanh toán quốc tế nói
chung của mỗi quốc gia.
• Chuyển giao vốn một chiều: Hạng mục “chuyển giao vốn một chiều” bao
gồm các khoản viện trợ không hoàn lại cho mục đích đầu tư, các khoản nợ
được xóa.
2.3.2.3 Cán cân cơ bản – Basic Balance (BB)
13
Cán cân vãng lai ghi chép các hạng mục về thu nhập, mà đặc trưng của chúng là
phản ánh mối quan hệ sở hữu về tài sản giữa người cư trú với người không cư trú.
Chính vì vậy, tình trạng của cán cân vãng lai có ảnh hưởng lâu dài lên sự ổn định
của nền kinh tế, mà đặc biệt là lên tỷ giá hối đoái.
Chúng ta thấy rằng, những khoản đi vay có kì hạn càng dài càng có đặc trưng gần
với thu nhập là tạo được các yếu tố ổn định cho nền kinh tế; tương tự, những khoản
cho vày càng dài hạn càng mang đặc trưng gần với những khoản chi từ thu nhập.
Nghĩa là các khoản đi vay và cho vay dài hạn có ảnh hưởng lâu dài lên sự ổn định
của nền kinh tế mà đặc biệt là lên tỷ giá hối đoái.
Tổng của cán cân vãng lai và cán cân vốn dài hạn gọi là cán cân cơ bản. Tính chất
ổn định của cán cân cơ bản ảnh hưởng lâu dài lên nền kinh tế và tỷ giá hối đoái.
Chính vì vậy, cán cân cơ bản được các nhà phân tích và hoạch định chính sách kinh
tế đặc biệt quan tâm.
Cán cân cơ bản = Cán cân vãng lai + Cán cân vốn dài hạn

Những hạng mục hay thay đổi như vốn ngắn hạn và thay đổi dự trữ ngoại hối không
thuộc cán cân cơ bản, do đó chúng nằm dưới.
2.3.2.4 Cán cân tổng thể - Overall Balance (OB)
Nếu công tác thống kê đạt mức chính xác tuyệt đối thì cán cân tổng thể bằng tổng
của cán cân vãng lai và cán cân vốn. Trong thực tế, do có rất nhiều vấn đề phức tạp
về thống kê trong quá trình thu thập số liệu và lập BP, do đó, thường phát sinh
những lầm lẫn và sai sót. Do đóm cán cân tổng thể được điều chính lại bằng tổng
của cán cân vãng lai, cán cân vốn và hạng mục nhầm lẫn sai soát trong thống kê:
Cán cân tổng thể = Cán cân vãng lai + Cán cân vốn
+Nhầm lần và sai sót
2.3.2.5 Cán cân bù đắp chính thức – Official Finacing Balance (OFB)
Cán cân bù đắp chính thức bao gồm các hạng mục:
• Dự trữ ngoại hối quốc gia.
• Quan hệ với IMF và các NHTW khác.
• Thay đổi dự trữ của các NHTW khác bằng đồng tiền của quốc gia lập cán
cân thanh toán.
14
Trong đó, hạng mục dự trữ ngoại hội quốc gia đóng vai trò quyết định, do đó, để
đơn giản, người ta coi hạng mục dự trữ ngoại hối quốc gia chính là cán cân bù đắp
chính thức.
2.4 Nguyên tắc hạch toán kép của BP:
Xét từ góc độ hạch toán, điểm quan trọng cần lưu ý là BP của mỗi quốc gia luôn
được cân bằng. Điều này xày ra vì BP được hạch toán theo nguyên tắc bút toán kép
(double entry), nghĩa là mỗi giao dịch giữa người cư trú với người không cư trú đều
bao gồm 2 vế là:
• Vế thu (receipt): Mỗi khoản thu từ người không cư trú được ghi có và được
biểu hiện bằng dấu (+).
• Vế chi (payment): Mỗi khoản chi cho người không cư trú được ghi nợ và
được biểu hiện bằng dấu (-).
Do thu và chi có giá trị tuyệt đối bằng nhau, nhưng có dấu ngược nhau và đều được

ghi chép hạch toán trong BP, nên BP luôn cân bằng.
Tóm lại, do mỗi khoản thu (+) đều phải được chi (-) và mỗi khoản chi (-) đều phải
trên cơ sở có thu (+). Do đó, mỗi bút toán ghi có (+) đồng thời phải có một bút toán
ghi nợ (-) tương ứng có giá trị tuyệt đối bằng nhau; và ngược lại, mỗi bút toán ghi
nợ (-) đồng thời phải có một bút toán ghi có (+) tương ứng có giá trị tuyệt đối bằng
nhau. Đây chính là bản chất của nguyên tắc hạch toán kép.
2.5 Thặng dư và thâm hụt BP
2.5.1 Khái niệm:
Khi nói đến cán cân thanh toán là thặng dư hay thâm hụt, các nhà kinh tế muốn nói
đến thặng dư hay thâm hụt của một hay một nhóm các cán cân bộ phận nhất định
trong BP
Vềnguyên tắc, thặng dư hay thâm hụt của BP được xác định theo hai phương pháp
2.5.2 Ý nghĩa kinh tế của một số cán cân chính
2.5.2.1 Thặng dư và thâm hụt cán cân thương mại.
Cán cân thương mại là chênh lệch giữa giá trị xuất khẩu khẩu và giá trị nhập khẩu
về hàng hóa.
Việc quan sát và phân tích diễn biến của cán cân thương mại có ý nghĩa trong thực
tiễn vì:
15
• Cán cân thương mại là bộ phận chính cấu thành cán cân vãng lai.
• Cán cân thương mại phản ánh kịp thời xu hướng vận động của cán cân vãng
lai. Điều này xảy ra là vì, cơ quan hải quan thường cung cấp kịp thời các số
liệu về xuất nhập khẩu hàng hóa, trong khi đó việc thu thập các số liệu về
dịch vụ, thu nhập và chuyển giao vãng lai thường diễn ra chậm hơn, tức là có
một độ lệch về thời gian nhất định.
Do tầm quan trọng của cán cân thương mại, cho nên hầu hết các nước phát triển
thường công bố tình trạn cán cân này hàng tháng.
2.5.2.2 Thặng dư và thâm hụt cán cân vãng lai
Nếu thặng dư, có nghĩa là có thu nhập (income flows) của người cư trú từ người
không cư trú là lớn hơn so với chi (income outflows) cho người không cư trú. Điều

này có nghĩa là giá trị ròng của các giấy tờ có giá do người không cư trú phát hành
nằm trong tay người cư trú tăng lên.
Nếu thâm hụt, có nghĩa là thu nhập của người cư trú từ người không cư trú là thấp
hơn so với chi cho người không cư trú. Điều này có nghĩa là giá trị ròng của các
giấy tờ có giá do người không cư trú phát hành nằm trong tay người cư trú giảm
xuống.
Ngoài ra, tình trạng cán cân vãng lai luôn là một bộ phận không thể thiếu được
trong phân tích kinh tế vĩ mô đối với nền kinh tế mở. Đặc biệt, nó có khả năng ảnh
hưởng trực tiếp và nhanh chóng đến các chỉ tiêu quan trọng của nền kinh tế như tỷ
giá, tăng trưởng kinh tế và lạm phát.
2.5.2.3 Thặng dư và thâm hụt cán cân cơ bản
Nhiều nhà kinh tế cho rằng, cán cân cơ bản phản ánh tổng quát hơn về trạng thái nợ
nước ngoài của một quốc gia so với cán cân vãng lai. Điều này xảy ra là vì, vốn dài
hạn có đặc trưng của sự phân phối lại thu nhập tương đối ổn định trong một thời
gian dài giữa một quốc gia và phần thế giới bên ngoài; ngoài ra, sự bù trừ cho nhay
giữa thặng dư của cán cân vãng lai và thâm hụt của cán cân vốn dài hạn có thể được
duy trì lâu dài. Trên cơ sở những đặc điểm này của cán cân cơ bản mà chúng ta có
thể định hướng chiến lược phát triển nền kinh tế quốc dân.
2.5.2.4 Thặng dư và thâm hụt cán cân tổng thể
Cán cân tổng thể phản ánh các hoạt động của NHTW trong việc tài trợ cho mọi sự
mất cân đối trong cán cân vãng lai và cán cân vốn.
Cán cân tổng thể có ý nghĩa quan trọng, bởi vì:
16
• Nếu thặng dư (+), nó cho biết số tiền có sẵn để một quốc gia có thể sử dụng
để tăng (mua vào) dự trữ ngoại hối.
• Nếu thâm hụt (-), nó cho biết số tiền mà quốc gia phải hoàn trả bằng cách
giảm (bán ra) dự trữ ngoại hối là như thế nào.
Cho đến nay, khi nói đến thâm hụt hay thặng dư cán cân thanh toán mà không nói
rõ đó là cán cân nào thì người ta hiểu đó là thặng dư hay thâm hụt cán cân tổng thể,
chính vì vậy cán cân tổng thể (Overall Balance) còn được gọi là cán cân thanh toán

chính thức của quốc gia (Official Settlements Balance).
17
CHƯƠNG III
THỰC TRẠNG CÁN
CÂN
THANH TOÁN VIỆT
NAM
VÀ GIẢI PHÁP
18
3.1Cán cân thương mại
3.1.1 Thực trạng cán cân thương mại:
Số liệu về kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam và cán cân thương mại
Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thương mại
2009 57.1 69.95 -12.85
2010 72.19 84.8 -12.61
Nguồn: tổng cục Hải quan Đơn vị: tỷ USD
• Năm 2009 – 2010 cán cân thương mại ở Việt Nam đều thâm hụt, mức độ
thâm hụt có giảm hơn so với 2008, năm 2010 so với 2009 giảm mức độ thâm
hụt 0.24 tỷ USD. Nhưng mức giảm thâm hụt năm không đáng kể (1.87%)
19
• Cả nhập khẩu và xuất khẩu năm 2010 đều tăng so với 2009 nhưng tốc độ
tăng không đều (nhập khẩu tăng 21.23%, xuất khẩu tăng 26.43%). Từ năm
2009 đến 2010 đường màu đỏ thể hiện tốc độ tăng xuất khẩu luôn năm trên
đường màu xanh thể hiện tốc độ tăng nhập khẩu, tuy nhiên một phần do
chênh lệch xuất khẩu – nhập khẩu và một phần do chênh lệch tốc độ tăng
không lớn lắm nên thâm hụt cán cân thương mại được cải thiện không nhiều.
Có nhiều yếu tố tác động đến cán cân thương mại Việt Nam, và để giải thích rõ hơn
tình hình thâm hụt cán cân thương mại Việt Nam chúng ta cùng xem xét một vài
yếu tố có tác động lớn đến sự thâm hụt này.
3.1.2 Các yếu tố tác động lớn đến cán cân thương mại:

Biểu đồ thể hiện sự thay đổi của cán cân thương mại, cán cân thanh toán
cùng với nhiều yếu tố của kinh tế vĩ mô như tỷ giá, lạm phát…
Dựa trên biểu đồ trên có thể thấy sơ qua mối quan hệ giữa cán cân thương mại, cán
cân thanh toán và các yếu tố vĩ mô. Trong giai đoạn 2009 -2010, 2 năm liền cán
cân thanh toán Việt Nam thâm hụt, và trong 2 năm này, lạm phát cũng tăng đến trên
10% cuối năm 2010, dự trữ ngoại hối giảm mạnh (gần 10 tỷ USD). Chúng ta sẽ lần
lượt đi vào các yếu tố này.
3.1.2.1 Tỷ giá:
20
Tình hình:
• Tỷ giá luôn là một vấn đề nóng của nền kinh tế. Chỉ trong vòng chưa đến 2
năm tiền đồng đã mất giá hơn 20% so với đồng USD. Kể từ năm 2008 đến
nay, Ngân hàng nhà nước (NHNN) kiên trì chính sách ổn định đồng tiền Việt
Nam so với đồng đô la Mỹ.
• Diễn biến tỷ giá 2010 rất phức tạp, tháng 11/2009, tháng 2/2010, tháng
2/2011 tỷ giá USD/VND ở liên ngân hàng đụng tỷ giá trần.Trong năm 2010,
NHNN đã điều chỉnh nâng tỷ giá liên ngân hàng hai lần vào 11/2 (tăng 3.3%
lên 18,544 đồng/USD) và tháng 18/8 (tăng 2.1%lên 18,932 đồng/USD) và
vào tháng 2/1011 tổng cộng là 11.58%, đặc biệt đợt điều chỉnh ngày
11/02/2011, tỷ giá liên ngân hàng tăng từ 18,932 lên 20,693 VND/USD, đây
là mức điều chỉnh 1 lần cao nhất kể từ năm 1994 đến nay. Nhưng khoảng
cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do luôn ở mức cao. Tỷ
giá chính thức có thời điểm thấp hơn tỷ giá trên thị trường tự do tới 10%.
Mức đỉnh điểm tỷ giá trên thị trường tự do có thời điểm lên tới
22,500 VND/USD, cao hơn tỷ giá chính thức tới 1,500 đồng so với tỷ giá
chính thức, vào giữa cuối tháng 2. Đến cuối tháng 11 năm 2010, tỷ giá trên
thị trường tự do đã đạt mức 21,500 đồng/USD.
• Trước thực trạng đó, Chính phủ buộc phải thực hiện các biện pháp nhằm giữ
ổn định tỷ giá. Trong đó Chính phủ yêu cầu các doanh nghiệp nhà nước bán
ngoại tệ cho ngân hàng và ”siết” lại các hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị

trường tự do.
21
• Có thể so sánh lãi suất huy động VND với USD, đỉnh điểm cuối năm 2010
lãi suất huy động VND mới ở mức gần 16% trong khi giai đoạn giữa năm
2010 lãi suất huy động USD đã tăng đến gần 18%.Những biện pháp này đã
phát huy hiệu quả khi tỷ giá trên thị trường tự do giảm xuống chỉ còn quanh
mức 21,300 VND/USD (cuối năm 2010)
• Việc tỷ giá tăng sẽ làm tăng giá trị hàng xuất khẩu tính bằng nội tệ nhưng
chưa chắc đã làm tăng giá trị hàng xuất khẩu bằng ngoại tệ, trong khi đó
nhập khẩu tính bằng ngoại tệ tăng.
Nguyên nhân:
• Nguyên nhân dẫn đến tình hình tỷ giá năm 2010 phức tạp như vậy đó là do
nửa cuối năm 2010 cung và cầu ngoại tệ có sự thay đổi. Về phía cầu, đến hạn
các doanh nghiệp phải trả các khoản nợ trước đó, đồng thời họ cần ngoại tệ
cho đợt hàng cuối năm, điều này làm cầu tăng nhanh. Về phía cung, năm
2010 nhập siêu lớn khoản 12.61 tỷ, đã hút đi một lượng ngoại tệ lớn, gây áp
lực lên cung.
22
• Một trong những nguyên nhân nữa khiến tỷ giá tăng mạnh đó là ở Việt Nam
giá vàng và giá đô la biến động cùng chiều. Giá vàng thế giới tăng làm cho
giá vàng trong nước tăng thậm chí tăng nhanh hơn vàng thế giới, có mức
chênh lệch giá vàng trong và ngoài nước, tạo nhu cầu đô la để mua vàng lậu,
vòng xoáy giá vàng – đô la đẩy giá 2 mặt hàng này lên cao.
• Và một trong những nguyên nhân không thể không kể đến đó là 2 đợt điều
chỉnh giá mạnh của NH làm xuất hiện kì vọng với những đợt phá giá tiếp
theo, tâm lý sợ đồng tiền trong nước mất giá, tích trữ ngoại tệ, đầu cơ làm
khuyếch đại tình hình căng thẳng tỷ giá giai đoạn đó.
Giải pháp:
• Giảm chênh lệch tỷ giá trên thị trường tự do với tỷ giá chính thức. Với mức
chênh lệch tỷ giá cao như vậy, các doanh nghiệp sẽ không muốn bán ngoại tệ

cho ngân hàng thay vào đó họ sẽ giao dịch trên thị trường tự do.
• Giảm bớt kì vọng vào các đợt phá giá tiếp theo. Với đợt tăng kỉ lục 2/2011
đưa tỷ giá chính thức lên sát tỷ giá thị trường tự do có thể giảm bớt kì vọng
vào các đợt phá giá tiếp theo, nhưng vấn đề quan trọng hơn để giảm kì vọng
này đó là ổn định các yếu tố vĩ mô như lạm phát, lãi suất mới có thể đẩy lùi
kì vọng này. Đặc biệt hơn nữa đó là vấn đề in tiền của Ngân hàng Trung
ương cần phải thận trọng hơn rất nhiều.
• Lý thuyết cho rằng việc nội tệ mất giá sẽ kích thích xuất khẩu và hạn chế
nhập khẩu khi nhìn vào thực tế Việt Nam phải xét trên cơ cấu xuất nhập khẩu
của nước ta. Ngay trong các sản phẩm xuất khẩu, lấy ví dụ ngành may mặc,
giày dép (là ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam) thì những nguyên liệu
đầu vào cũng do nhập khẩu. Nội tệ mất giá thì nguyên liệu nhập khẩu đắt đỏ
cũng tác động không nhỏ đến xuất khẩu. Hoặc với các mặt hàng nông phẩm
(gạo, cà phê ), có tăng tỷ giá đi chăng nữa thì cũng khó có thể tăng xuất
khẩu vì đã xuất khẩu mức tối đa, và khó tăng năng suất.
23
• Đợt điều chỉnh vừa rồi sẽ làm tăng giá nhập khẩu nhiều nhiên liệu, nguyên
liệu, do đó ảnh hưởng tới lạm phát. Và đây sẽ là vấn đề tiếp theo phải giải
quyết.
3.1.2.2 Cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu:
3.1.2.2.aXuất khẩu:
Các nhóm hàng XK
chính
GTXK 2009
(tỷ USD)
GTXK2010
(tỷ USD)
2010 so với 2009
(%)
Hàng dệt may 9.06 11.21 123.7

Giày dép các loại 4.06 5.12 126
Thủy sản 4.34 5 118
Dầu thô 6.2 4.96 80
Gạo 2.67 3.25 121.9
Cao su 1.23 2.39 194.7
Sắt thép các loại 0.38 1.05 274.2
Kim ngạch xuất khẩu 2010 nhìn chung là tăng, trong đó có một số mặt hàng mà giá
trị xuất khẩu tăng mạnh như sắt thép các loại, cao su, gạo, hàng dệt may. Năm 2010
có 18 mặt hàng xuất khẩu kim ngạch trên 1 tỷ USD (so với năm 2009 là 11 ngành),
một lợi thế nữa đó là đơn giá nhiều mặt hàng trên thị trường thế giới tăng cao, trong
đó giá sắn và sản phẩm sắn tăng 90.7%; cao su tăng 81%; hạt tiêu tăng 39.7%; hạt
điều tăng 22.4%; than đá tăng 52.9%; dầu thô tăng 33.7%.
Cơ cấu kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm 2010 có sự thay đổi ở một số nhóm
hàng so với năm trước, trong đó nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công
nghiệp tăng từ 42.8% lên 46%; nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản giảm
từ 29.4% xuống 27.2%; nhóm hàng thủy sản giảm từ 7.4% xuống 6.9%; vàng và
các sản phẩm vàng giảm từ 4.6% xuống 4%.
3.1.2.2.bNhập khẩu:
24
Các mặt hàng nhập khẩu chính
GTNK2009
(tỷ USD)
GTNK 2010
(tỷ USD)
2010 so
với 2009 (%)
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng 12.68 13.69 108
Nguyên liệu, phụ liệu dệt may, da, giày 7.34 9.8 133,6
Máy vi tính, sản phẩm điện tử, linh kiện 3.96 5.21 131.7
Sắt thép 5.36 6.15 114.8

Xăng dầu các loại 6.28 6.1 97.2
Chất dẻo nguyên liệu 2.82 3.78 134.2
Thức ăn gia súc và nguyên liệu 1.76 2.17 123.1
Ô tô nguyên chiếc 1.29 0.979 75.6
Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng cao là: Lúa mỳ tăng 70.4%; kim loại
thường khác tăng 57.7%;nguyên phụ liệu dệt may, giày dép tăng 36%; chất dẻo tăng
33.9%; điện tử máy tính và linh kiện tăng 30.7%; vải tăng 27.2%; thức ăn gia súc và
nguyên phụ liệu tăng 22.4%; sắt thép tăng 15%. Nhập khẩu ôtô nguyên chiếc giảm
24.4% về kim ngạch và giảm 34.1% về lượng so với năm 2009.
Tuy nhiên giá trên thế giới tăng cũng là nguyên nhân làm tăng kim ngạch nhập khẩu
của Việt Nam: trong đó giá cao su tổng hợp tăng 64.2%; bông tăng 45.2%; kim loại
thường tăng 32.2%; sắt thép tăng 27.6%; khí đốt hoá lỏng tăng 32.3%.
Cơ cấu kim ngạch hàng hóa nhập khẩu năm nay không có sự thay đổi lớn so với
năm trước, trong đó nhóm tư liệu sản xuất vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất với 90.2%;
nhóm hàng vật phẩm tiêu dùng giảm từ 9.3% xuống 8.6%; nhóm vàng và các sản
phẩm vàng tăng từ 0.5% lên 1.2%.
3.1.2.2.cPhân tíchcơ cấu xuất nhập khẩu của Việt Nam:
Trong năm 2010 xuất nhập khẩu của Việt Nam xếp thứ 5 ASIAN và thứ 39 toàn thế
giới.Và Việt Nam cũng là nước nhập khẩu lớn thứ 34 trên thế giới.Vấn đề là nhập gì
và xuất gì.
25

×