Nhóm :
Đỗ Thị Thu Hiền
Trần Thị Bích Ngọc
Lớp: Tiền tệ D2 ca 2 chiều thứ 4
Tên đề tài: Những vấn đề cơ bản về lãi suất
MỤC LỤC
I. NHỮNG VẦN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÃI SUẤT:
A.TỔNG QUAN VỀ LÃI SUẤT:
1 Khái niệm lãi suất
2.Phân loại lãi suất
3.Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất
B.CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
1.Khái niệm
2.Chủ thể
3.Vài trò của chính sách lãi suất đến nền kinh tế
C.KINH NGHIỆM ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TẠI MỘT SỐ
NƯỚC:
Chính sách điều hành lãi suất của Ngân hàng trung ương Mỹ:
1.FED
2.Chính sách điều hành lãi suất của FED
3.Tác động của chính sách lãi suất tới nền kinh tế
II. THỰC TRẠNG VỀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TẠI VIỆT NAM:
1. Diễn biến qua các giai đoạn:
2. Những điểm đối mới trong năm 2010
3. Đánh giá :
a. Những điểm tích cực, nguyên nhân
b. Những điểm tiêu cực, nguyên nhân
III. GIẢI PHÁP CHO CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TẠI VIỆT NAM
A. Một số giải pháp kiến nghị
B. Vấn đề đặt ra trong năm 2010 và định hướng chính sách lãi suất
Phần một : TỔNG QUAN VỀ LÃI SUẤT
I.Tổng quan về lãi suất
Trong thời gian qua , Việt Nam đã và đang đạt được những thành tựu to lớn
nhất là trong lĩnh vực kinh tế với chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành
phần theo định hướng XHCN.Trong sự phát triển đó , NHTW đóng vai trò cực kỳ
quan trọng trong việc định hướng nền kinh tế , điều tiết các mối quan hệ trong nền
kinh tế , chống lạm phát , thiểu phát và các nhược điểm phát sinh trong nền kinh tế
thị trường . Một trong những công cụ được NHTW sử dụng nhiều nhất để thực
hiện các chức năng của mình là công cụ lãi suất. Đây là một công cụ của chính
sách tiền tệ được nhiều nhà nghiên cứu kinh tế quan tâm và được nhiều quốc gia sử
dụng như một công cụ hữu hiệu để điều tiết nền kinh tế . Đồng thời , đây cũng
được coi là một công cụ nhạy cảm nhất và là vấn đề nóng bỏng thu hút được nhiều
sự quan tâm của các thành phần dân cư trong xã hộ Chương 1: Những vấn đề về lãi
suất
Phần 1: Khái niệm, nhân tố ảnh hưởng và vai trò của lãi suất đối với nền kinh tế
1. Khái niệm lãi suất
Lãi suất là một phạm trù kinh tế tổng hợp có liên quan chặt chẽ đến các phạm
trù kinh tế khác, phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể sử dụng vốn (người vay
vốn) với chủ thể sở hữu vốn (người cho vay) theo nguyên tắc hoàn trả có kỳ hạn
kèm theo lãi ở thị trường vốn ở một thời điểm nhất định .
Nói cách khác, lãi suất là giá cả của quyền được sử dụng vốn trong một thời
gian nhất định mà người sử dụng trả cho người sở hữu nó. Lãi suất được sinh
ra là bởi lẽ người đi vay đã sử dụng vốn đó để phục vụ các nhu cầu sinh lợi của
mình (trong hoạt động sản xuất kinh doanh hay tiêu dùng) trong khi người cho
vay đã hi sinh quyền đó. Đánh đổi cho sự hi sinh quyền được sử dụng tiền tệ
ngày hôm nay của người cho vay chính là lãi suất.
2. Phân loại lãi suất
2.1 Phân loại theo chủ thể trong quan hệ tín dụng.
Việc phân chia lãi suất tín dụng thành lãi suất tín dụng thương mại, lãi suất tín
dụng ngân hàng, lãi suất tín dụng Nhà nước và lãi suất tín dụng doanh nghiệp
thuộc cách phân loại này.
a. Lãi suất tín dụng thương mại: được áp dụng khi các doanh nghiệp cho
nhau vay dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa.
Tùy vào thời hạn mua bán chịu, cung – cầu về mua bán chịu và mức độ
tín nhiệm giữa các doanh nghiệp tham gia quan hệ mua bán chịu mà lãi
suất tín dụng thương mại có các mức khác nhau.
b. Lãi suất tín dụng ngân hàng: áp dụng trong quan hệ giữa:
- Ngân hàng với công chúng và doanh nghiệp trong việc thu hút tiền
gửi và cho vay
- Trong hoạt động tái cấp vốn của Ngân hàng Trung ương cho các ngân
hàng
- Trong quan hệ giữa các ngân hàng với nhau trên thị trường liên ngân
hàng
c. Lãi suất tiền gửi: được áp dụng để tính tiền lãi phải trả cho người gửi
tiền. Lãi suất tiền gửi có nhiều mức khác nhau tùy thuộc vào quy mô
và thời hạn tiền gửi. Sự biến động của lãi suất tiền gửi có ảnh hưởng
không chỉ với quy mô nguồn vốn của các ngân hàng mà còn ảnh
hưởng mạnh việc điều chỉnh, kiềm chế lạm phát trong nền kinh tế.
d. Lãi suất tiền vay: được áp dụng để tính lãi tiền vay mà các khách hàng
phải trả ngân hàng.
Về nguyên tắc thì mức lãi suất tiền vay bình quân phải cao hơn mức lãi
suất tiền gửi bình quân, và có sự phân biệt giữa các khoản vay với thời
hạn khác nhau cũng như mức rủi ro khác nhau. Sự thay đổi lãi suất tiền
vay có tác động tới quy mô cho vay và khả năng cung ứng tiền của hệ
thống ngân hàng trung gian. Do vậy mà Ngân hàng Trung ương có thể
thực hiện mục tiêu lới lỏng hoặc thắt chặt cung ứng tiền bằng cách ảnh
hưởng tới lãi suất tiền vay của các ngân hàng áp dụng đối với nền kinh tế.
Lãi suất tái chiết khấu là một loại lãi suất cho vay áp dụng khi ngân hàng
trung gian cho khách hàng vay dưới hình thức chiết khấu các giấy tờ có
giá chưa tới hạn thanh toán và thỏa mãn các điều kiện chiết khấu theo
quy định. Nó được tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá của giấy tờ có giá và
được khấu trừ ngay khi ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng.
e. Lãi suất tái cấp vốn: áp dụng khi Ngân hàng Trung ương tái cấp vốn
cho các ngân hàng dưới hình thức chiết khấu lại các giấy tờ có giá
ngắn hạn chưa tới hạn thanh toán của các ngân hàng hoặc cho vay
cầm cố giấy tờ có giá.
f. Lãi suất liên ngân hàng: là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho
nhau vay trên thị trường liên ngân hàng.
Lãi suất liên ngân hàng thường được ấn định hàng ngày. Nó được hình
thành bởi quan hệ cung – cầu tiền trung ương của các tổ chức tín dụng và
chịu sự chi phối bởi lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Trung ương.
Giữa lãi suất tái chiết khấu, lãi suất liên ngân hàng và lãi suất chiết khấu
của ngân hàng trung gian có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Với một thị
trường tài chính phát triển, sự thay đổi lãi suất tái chiết khấu sẽ tạo nên
những phản ứng dây chuyền giữa các mức lãi suất. Kết quả sẽ là sự thay
đổi của mặt bằng lãi suất phù hợp mục tiêu của Ngân hàng Trung ương.
g. Lãi suất cơ bản: là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để
ấn định mức lãi suất kinh doanh của mình.
h. Lãi suất tín dụng Nhà nước: áp dụng khi Nhà nước đi vay của các chủ
thể khác nhau trong xã hội dưới hình thức phát hành tín phiếu hoặc
trái phiếu. Lãi suất này có thể do Nhà nước ấn định hoặc được hình
thành thông qua hoạt động đấu thầu tín phiếu, trái phiếu Nhà nước.
i. Lãi suất tín dụng doanh nghiệp: áp dụng khi doanh nghiệp đi vay của
các chủ thể khác trong xã hội dưới hình thức phát hành trái phiếu. Lãi
suất này có thể do các doanh nghiệp ấn định hoặc được hình thành
thông qua hoạt động đấu thầu trái phiếu trên thị trường chứng khoán.
2.2 Phân loại theo giá trị thực của lãi suất ( theo quan hệ giữa lạm phát và lãi suất)
Theo giá trị thực, lãi suất được phân chia thành 2 loại: lãi suất danh nghĩa và lãi
suất thực tế.
a. Lãi suất danh nghĩa: là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ vào
thời điểm nghiên cứu hay nói cách khác là loại lãi suất chưa loại trừ đi tỷ lệ
lạm phát
Lãi suất danh nghĩa thường được thông báo chính thức trong các quan hệ tín
dụng.
b. Lãi suất thực tế: là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi
về lạm phát. Hay nói cách khác là lãi suất đã loại trừ đi tỷ lệ lạm phát.
2.3 Phân loại theo bản chất hợp đồng tài chính
Trả lãi theo mức cố định hay thả nổi là biểu hiện bản chất của hợp đồng tài
chính. Cách phân loại theo tiêu thức này chia lãi suất thành lãi suất cố định và
lãi suất thả nổi.
a. Lãi suất cố định: là lãi suất được giữ cố định trong suốt thời hạn vay
+ Ưu điểm của lãi suất cố định là: người gửi tiền và người vay tiền biết trước số
tiền lãi được trả và phải trả.
+ Nhược điểm của nó đó là: bị ràng buộc vào một lãi suất nhất định trong một
thời gian nào đó, dù cho các lãi suất khác thay đổi như thế nào.
b. Lãi suất thả nổi: là lãi suất có thể thay đổi theo lãi suất tham chiếu hoặc theo
chỉ số lạm phát
Lãi suất thả nổi có lợi cho cả 2 bên nếu khi nhận và trả tiền đều tính theo cùng
mức lãi suất chung là lãi suất hiện tại, thường áp dụng cho những thời kì lãi suất
thị trường biến động nhiều, khó dự đoán chính xác chiều hướng cũng như mức
độ biến động lãi suất.
2.4 Phân loại theo cách đo lường lãi suất
a. Lãi suất đơn: là lãi suất tính 1 lần trên số vốn gốc cho suốt kỳ hạn vay.
Lãi suất này thường được áp dụng cho các khoản tín dụng ngắn hạn và việc trả
nợ được thực hiện một lần khi đến hạn.
c. Lãi suất kép: là mức lãi suất có tính đến giá trị đầu tư lại của lợi tức thu
được trong thời hạn sử dụng tiền vay. Nó thường được áp dụng cho các
khoản đầu tư có nhiều kỳ hạn thanh toán, trong đó lãi của kỳ trước được
nhập vào vốn gốc để tính lãi cho kỳ sau.
d. Lãi suất hoàn vốn: là lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền thu nhập
được trong tương lai từ một khoản đầu tư với giá trị hôm nay của khoản đầu
tư đó.
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất thị trường.
3.1 Cung – cầu quỹ cho vay
a. Cầu quỹ cho vay
Cầu quỹ cho vay là nhu cầu vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh hoặc tiêu
dùng của các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Cầu quỹ cho vay được cấu
thành từ nhu cầu của các chủ thể sau:
+ Các doanh nghiệp và hộ gia đình: vay vốn nhằm mục đích đầu tư và trang trải
các chi phí liên quan đến quá trình sản xuất và tiêu dùng.
Trong điều kiện các yếu tố ngoại sinh (lạm phát dự tính, khả năng sinh lợi dự
tính của các cơ hội đầu tư) không đổi, nhu cầu vốn vay của doanh nghiệp và hộ
gia đình rất nhạy cảm với biến động lãi suất.
+ Chính phủ và khu vực Chính phủ: có nhu cầu vốn nhằm bù đắp thiếu hụt
Ngân sách Nhà nước.
Nhu cầu này độc lập với sự biến động của lãi suất
+ Các chủ thể nước ngoài bao gồm doanh nghiệp, Chính phủ nước ngoài, các tổ
chức trung gian tài chính nước ngoài. Nhu cầu vay vốn của nhóm chủ thể này phán
ứng với sự chênh lệch lãi suất giữa 2 quốc gia và phụ thuộc rất nhiều vào mức độ
mở cửa và khả năng di chuyển vốn giữa 2 nước.
b.Cung quỹ cho vay
Cung quỹ cho vay là khối lượng vốn dùng để cho vay kiếm lời của các chủ thể
khác nhau trong xã hội. Nó được tạo bởi các nguồn sau:
+ Tiền gửi tiết kiệm của các hộ gia đình: đây là bộ phận chủ yếu nhất của quỹ cho
vay. Trong điều kiện bình thường, tiền gửi tiết kiệm phụ thuộc nhiều vào lãi suất:
nếu lãi suất tăng sẽ làm tăng nhu cầu tiết kiệm và ngược lại. Tuy nhiên mức độ
nhạy cảm này còn phụ thuộc vào tình trạng của nền kinh tế, thu nhập cũng như thói
quen tiết kiệm và tiêu dùng của công chúng.
+ Nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp dưới hình thức: quỹ khấu hao
cơ bản, lợi nhuận chưa phân phối, các quỹ khác chưa sử dụng
+ Các chủ khoản chưa sử dụng đến của Ngân sách Nhà nước.
+ Nguồn vốn của các chủ thể nước ngoài có thể là Chính phủ, có thể là doanh
nghiệp, có thể là dân cư nước ngoài.
Điểm cân bằng lãi suất được tạo nên tại điểm phản ánh sự phù hợp giữa cung và
cầu quỹ cho vay.
3.2 Các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất thị trường
a. Những nhân tố làm dịch chuyển đường cầu quỹ cho vay
+ Lợi tức dự tính của các cơ hội đầu tư
Trong giai đoạn đang tăng trưởng của nền kinh tế, có nhiều cơ hội đầu tư được
trông đợi là sinh lợi, làm tăng nhu cầu vay vốn để tài trợ cho các dự án đầu tư của
các doanh nghiệp. Lượng cầu quỹ cho vay tăng lên ở mọi mức lãi suất và đường
cầu quỹ cho vay dịch chuyển sang phải => lãi suất tăng.
Ngược lại, trong giai đoạn nền kinh tế suy thoái, các cơ hội đầu tư có khả năng
sinh lợi giảm sút làm lượng cầu quỹ cho vay giảm, dẫn tới đường cầu quỹ cho vay
dịch chuyển sang trái => lãi suất giảm.
+ Lãi suất dự tính
Sự tăng lên của mức lạm phát dự tính làm cho chi phí thức dự tính của việc vay
tiền ở mọi mức lãi suất cho trước giảm xuống. Người vay vốn được lợi. Điều này
làm tăng nhu cầu vay vốn của ác chủ thể kinh tế, lượng cầu quỹ cho vay tăng ở mọi
mức lãi suất => đường cầu quỹ cho vay dịch chuyển sang phải.
Sự giảm xuống của lạm phát dự tính có tác động ngược lại, cầu quỹ cho vay ở mọi
mức lãi suất khi đó giảm đi => đường cầu quỹ cho vay dịch chuyển sang trái.
+ Tình trạng thâm hụt ngân sách Nhà nước
Khi mức bội chi Ngân sách Nhà nước tăng, nhu cầu vay vốn tài trợ thiếu hụt ngân
sách của Nhà nước tăng ở mọi mức lãi suất làm tăng lượng cầu quỹ cho vay =>
đường cầu quỹ cho vay dịch chuyển sang phải.
b.Những nhân tố làm dịch chuyển đường cung quỹ cho vay
+ Tài sản và thu nhập
Khi nền kinh tế tăng trưởng thì tài sản và thu nhập của chủ thể kinh tế tăng lên làm
tăng khả năng cung ứng vốn ở mọi mức lãi suất. Do vậy cung quỹ cho vay tăng lên
và đường cung quỹ cho vay dịch chuyển sang phải => lãi suất giảm.
Khi nền kinh tế suy thoái, lượng cung quỹ cho vay giảm ở mọi mức lãi suất, đường
cung quỹ cho vay dịch sang trái => lãi suất tăng.
+ Tỷ suất lợi tức dự tính của công cụ nợ
Tỷ suất lợi tức cùa các công cụ nợ không chỉ phụ thuộc vào lãi suất của công cụ nợ
mà còn phụ thuộc vào sự biến động giá thị trường của công cụ đó, đặc biệt đối với
các công cụ nợ dài hạn.
Trong trường hợp lãi suất thị trường có xu hướng tăng lên trong tương lai, giá thị
trường của công cụ nợ dài hạn sẽ bị giảm đi, tỷ suất lợi tức dự tính của nó theo đó
giảm. Công cụ nợ trở nên kém hấp dẫn, làm giảm nhu cầu mua của các chủ thể
kinh tế, cung quỹ cho vay giảm => đường cung quỹ cho vay dịch chuyển sang trái.
Ngược lại, cung quỹ cho vay tăng => đường cung quỹ cho vay dịch chuyển sang
phải.
Sự thay đổi về lạm phát dự tính cũng sẽ làm thay đổi mối tương quan giữa tỷ suất
lợi tức dự tính của tài sản thực và tỷ suất lợi tức dự tính của công cụ nợ và do vậy
có ảnh hưởng đến sự dịch chuyển của đường cong cung quỹ cho vay. Ví dụ: nếu
lạm phát dự tính tăng sẽ làm tỷ suất lợi tức dự tính của tài sản thực và làm giảm tỷ
suất lợi tức dự tính của công cụ nợ so với tài sản thực. Lượng cầu công cụ nợ giảm
=> đường cung quỹ cho vay dịch chuyển sang trái
+ Rủi ro
Khi mức độ rủi ro của công cụ nợ tăng so với công cụ đầu tư khác sẽ làm nhu cầu
mua công cụ nợ giảm đi, làm cung quỹ cho vay giảm => đường cung quỹ cho vay
dịch sang trái. Ngược lại, đường cung quỹ cho vay sẽ dịch sang phải.
+ Tính lỏng của các công cụ đầu tư
Nếu tính lỏng của công cụ nợ cao hơn so với tính lỏng của các công cụ đầu tư khác
sẽ làm tăng tính hấp dẫn của công cụ nợ, làm cầu công cụ nợ tăng lên ở mọi mức
lãi suất. Lượng cung quỹ cho vay sẽ tăng lên => đường cung quỹ cho vay dịch
chuyển sang phải.
Trường hợp ngược lại, làm giảm cung quỹ cho vay => đường cung quỹ cho vay
dịch chuyển sang trái.
3.3 Cung – cầu tiền tệ
3.3.1 Cầu và cung tiền
Mức cầu tiền là lượng tiền mà các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân muốn
nắm giữ để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hiện tại và trong tương lai với giá cả và
các biến số kinh tế khác cho trước
Cầu tiền được tạo bởi nhu cầu tiền tệ của các doanh nghiệp, các tổ chức, các cá
nhân.
3.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất thị trường
+ Các nhân tố làm dịch chuyển đường cầu tiền
- Thu nhập thực tế
Khi nền kinh tế đang tăng trưởng, thu nhập thực tế tăng lên, các chủ thể kinh tế
muốn giữ thêm tiền làm nơi dự trữ giá trị đồng thời muốn chi thêm tiền cho tiêu
dùng nhiều hơn làm cầu tiền tăng.
Sự suy thoái của nền kinh tế lại có tác động ngược lại. Thu nhập, tài sản của
mọi chủ thể kinh tế khi đó giảm xuống làm cầu tiền giảm.
- Mức giá cả
Khi mức giá cả tăng, làm sức mua của tiền tệ giảm xuống, người ta muốn nắm
giữ lượng tiền nhiều hơn để đảm bảo vẫn mua được lượng hàng hóa, dịch vụ
như trước kia => làm tăng cầu tiền, đường cầu tiền dịch chuyển sang phải
Khi mức giá cả giám xuống, nhu cầu nắm giữ tiền giảm => đường cầu tiền dịch
chuyển sang trái.
+ Các nhân tố làm dịch chuyển đường cung tiền
Sự thay đổi mức cung ứng tiền do Ngân hàng Trung ương quyết định. Khi ngân
hàng Trung ương tăng cung ứng tiền sẽ làm đường cung tiền dịch chuyển sang
phải và ngược lại.
4. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế
4.1 Là công cụ kích thích lợi ích vật chất để thu hút các khoản tiền tiết kiệm của
các chủ thể kinh tế.
Tiết kiệm là phần thu nhập còn lại sau khi tiêu dùng ở hiện tại của các chủ thể
kinh tế. Với việc tạo thu nhập cho người tiết kiệm, lãi suất trở thành một nhân
tố cơ bản điều tiết tiêu dùng và tiết kiệm.
Lãi suất cao khuyến khích người ta hy sinh tiêu dùng hiện tại, tiết kiệm nhiều
hơn để có khoản tiêu dùng cao hơn trong tương lai và ngược lại.
4.2 Là công cụ điều tiết nền kinh tế vĩ mô
Với tư cách là cái giá phải trả cho những số tiền vay để đầu tư hay mua các sản
phẩm tiêu dùng, lãi suất tạo nên khoản chi phí của người đi vay. Việc so sánh
giữa lãi suất phải trả với hiệu quả biên của đồng vốn là căn cứ quan trọng để
người kinh doanh đưa ra quyết định về đầu tư. Một sự gia tăng trong lãi suất sẽ
làm giảm khả năng có được những thu nhập khá để bù đắp những chi phí phải
trả, và do đó số đầu tư chắc chắn sẽ giảm. Đối với tiêu dùng cũng tương tự,
những người tiêu dùng so sánh số lãi phải trả cho một khoản vay mượn với ý
muốn có càng sớm càng tốt một sản phẩm tiêu dùng. Nếu lãi suất cao hơn sẽ
làm cho một số người tiêu dùng chờ giảm chứ không mua ngay, và số tiêu dùng
dự định sẽ giảm xuống.
Do sự biến động lãi suất có tác động đến đầu tư, đến tiêu dùng nên nó có tác
động gián tiếp đến các mục tiêu của nền kinh tế vĩ mô, cụ thể như sau:
+ Lãi suất thấp => khuyến khích đầu tư, khuyến khích tiêu dùng => tăng tổng
cầu => sản lượng tăng, giá cả tăng, thất nghiệp giảm, nội tệ có xu hướng giảm
giá so với ngoại tệ.
+ Lãi suất cao => hạn chế đầu tư, hạn chế tiêu dùng => tổng cầu giảm => sản
lượng giảm, thất nghiệp tăng, nội tệ có xu hướng tăng giá so với ngoại tệ.
Vì có khả năng tác động đến các biến số kinh tế vĩ mô như trên nên lãi suất
được Chính phủ các nước sử dụng làm một công cụ có hiệu quả để điều tiết nền
kinh tế quốc gia.
4.3 Là công cụ phân phối và kích thích sử dụng vốn có hiệu quả.
Lãi suất có tác dụng trong việc phân bổ vốn. Đối với những dự án có mức độ
rủi ro như nhau, dự án nào có lãi suất cao hơn thường thu hút được vốn nhanh
hơn, nhiều hơn. Còn những dự án nào chứa đựng nhiều rủi ro thì phải trả lãi
suất cao mới có khả năng thu hút được vốn. Như vậy bằng cách đưa ra các mức
lãi suất khác nhau có thể tạo được sự phân bổ các luồng vốn theo mục đích
mong muốn.
Trong quan hệ vay vốn, người đi va không chỉ hoàn trả gốc khi đến hạn mà còn
phải hoàn trả lãi khoản vay. Hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi vừa là một đặc trưng
của quan hệ tín dụng, vừa là một nguyên tắc tín dụng. Bằng việc buộc phải trả
lãi đã kích thích các doanh nghiệp nói riêng, kích thích người vay vốn nói
chung phải sử dụng vốn hiệu quả, vốn phải có tác dụng thúc đẩy sản xuất, kinh
doanh tạo thu nhập để bù đắp chi phí, có lợi nhuận, tạo cơ sở cho việc trả lãi vì
tiền lãi thực chất là một phần của nhuận mà người đi vay trả cho người cho vay.
4.4 Là công cụ đo lường tình trạng sức khỏe của nền kinh tế
Trong trường hợp nền kinh tế phát triển, lãi suất thường tăng do cung – cầu quỹ
cho vay đều tăng lên, trong đó tốc độ tăng của cầu quỹ cho vay lớn hơn tốc độ
tăng của cung quỹ cho vay.
Trong trường hợp nền kinh tế suy thoái, lãi suất thờn có xu hướng giảm xuống.
Các xu hướng biến động của lãi suất được phản ánh trên đường cong lãi suất.
Do vậy nhìn vào đường cong lãi suất ta có thể thấy được xu hướng biến động
của lãi suất và tình trạng sức khỏe của nền kinh tế.
4.5 Là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia
Khả năng điều tiết nền kinh tế vĩ mô của lãi suất đã làm cho nó trở thành công
cụ quan trọng để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường cũng như thị trường tài chính chưa phát
triển, lãi suất được sử dụng làm một công cụ trực tiếp để tác động tới mục tiêu
trung gian và qua đó tới mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ. Ngân hàng
trung ương sử dụng loại công cụ này dưới các hình thức ấn định trực tiếp lãi
suất kinh doanh cho các ngân hàng hoặc quy định khung lãi suất tiền gửi - lãi
suất tiền vay hoặc trần lãi suất tiền vay qua đó khống chế lãi suất cho vay của
các ngân hàng theo hướng thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ.
Trong điều kiện thị trường tài chính phát triển, Ngân hàng trung ương sử dụng
công cụ lãi suất gián tiếp chẳng hạn như lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay
cầm cố để tác động gián tiếp tới lãi suất thị trường. Lãi suất thị trường thay đổi
sẽ tác động tới các biến số kinh tế vĩ mô. Ngày nay theo xu hướng tự do hóa tài
chính, cơ chế điều tiết nền kinh tế bằng công cụ lãi suất ngày càng trở nên phổ
biến trên thế giới.
II.Chính sách lãi suất:
1. Khái niệm:
Chính sách lãi suất là một trong những công cụ chính của chính sách tiền tệ. Tuỳ
thuộc vào từng mục tiêu của chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước áp dụng cơ
chế điều hành lãi suất phù hợp, nhằm ổn định và phát triển thị trường tiền tệ, tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng và sự phân bổ có hiệu quả các nguồn
vốn trong nền kinh tế.
2. Vai trò của chính sách lãi suất : Trước đây , trong nền kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp thì vai trò của lãi suất hết sức mờ nhạt và lệ thuộc nhiều yếu tố . Nhiều
khi được hiểu như là một sự phân phối cuối cùng của sản phẩm giữa người đi vay
và người cho vay . Ngày nay , khi chuyển sang nền kinh tế thị trường , lãi suất đã
giữ một vai trò hết sức quan trọng , tác động đến tất cả lĩnh vực của nền kinh tế
Là công cụ để khuyến khích tiết kiệm đầu tư
Lãi suất là công cụ khuyến khích lợi ích vật chất để thu hút các khoản tiết kiệm
của các chủ thể kinh tế tạo nên quỹ cho vay phục vụ cho nhu cầu của nền kinh tế .
Theo lý thuyết tài chính ta có phương trình về thu nhập như sau:
Thu Nhập = Tiết Kiệm + Tiêu dùng
Phương trình này không những đúng với đặc điểm tài chính của các hộ gia đình mà
còn đúng với cả nền kinh tế quốc gia . Giả sử trong một nền kinh tế bình thường ,
khi lãi suất vốn tăng lên thì trước hết các hộ gia đình sẽ giảm các khoản chi tiêu
dùng hoặc trì hoãn một số khoản chi để tăng mức tiết kiệm . Như vậy , lãi suất là
công cụ can thiệp có hiệu lực để phân chia tie lệ giữa tiêu dùng và tiết kiệm . Tuy
nhiên , nâng lãi suất đến mức nào thì cần phải có sự tính toán lỹ lưỡng nhằm đảm
bảo sự phát triển hài hoà của nền kinh tế
Ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp
Chính sách lãi suất là một bộ phận trong chính sách tiền tệ của Nhà nước nhằm
điều tiết lưu thông tiền tệ , kích thích và hướng hoạt động sản xuất kinh doanh của
các đơn vị kinh tế . Lãi suất phải trả cho các khoản vay là chi phí của doanh nghiệp
. Do vậy , lãi suất thấp sẽ khuyến khích doanh nghiệp đẩy mạnh vay vốn đầu tư mở
rộng sản xuất và ngược lại lãi suất cao sẽ khiến doanh nghiệp hạn chế vay vốn đầu
tư . Lãi suất là công cụ của Nhà nước nhằm khuyến khích các Doanh nghiệp đầu tư
vào các ngành sản xuất các sản phẩm cần ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh
tế thông qua các ưu đãi về lãi suất , về điều kiện cung cấp tín dụng và thời hạn
thanh toán
Là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Chúng ta thấy rằng , lãi suất là khoản chi phí của người đi vay , nên sự thay đổi của
lãi suất sẽ ảnh hưởng tới quyết định đến đầu tư và tiêu dùng của người dân , doanh
nghiệp và các thành phần kinh tế khác . Do đó có thể tác động đến mục tiêu của
nền kinh tế vĩ mô : - Lãi suất thấp → kích thích đầu tư , kích thích tiêu dùng →
tăng tổng cầu → sản lượng tăng , giá tăng , thất nghiệp giảm → đồng nội tệ có xu
hướng giảm giá so với ngoại tệ . - Lãi suất cao → giảm thiểu đầu tư , hạn chế tiêu
dùng → giảm tổng cầu → sản lượng giảm , giá giảm , thất nghiệp tăng → đồng nội
tệ có xu hướng tăng so với ngoại tệ Như vậy bằng cách giảm lãi suất , Ngân hàng
Nhà nước có thể tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế phát triển . Tương tự ,
Ngân hàng Nhà nước có thể tăng lãi suất khi muốn thực hiện chính sách thắt chặt
tiền tệ , giảm bớt lượng khối lượng tiền cần thiết cho việc mở rộng hoạt động sản
xuất kinh doanh và chi tiêu của người tiêu dùng
Là công cụ phân phối có hiệu quả nhằm khai thác và sử dụng triệt để các
nguồn lực của nền kinh tế . Khi Nhà nước muốn khuyến khích phát triển một
ngành nghề quan trọng nào đó trong nền kinh tế , Nhà nước có thể thực hiện bằng
cách ưu đãi về lãi suất cho vay ( như giảm lãi suất cho vay ) , và ngược lại khi
muốn hạn chế phát triển của các ngành chưa cần thiết để dành nguồn lực cho các
ngành khác thì Nhà nước có thể tăng lãi suất cho vay của ngành đó . Như vậy ,
những ngành được hỗ trợ sẽ phát triển hơn còn các ngành bị hạn chế sẽ ít phát triển
hơn . Do đó chính sách lãi suất là một công cụ để phân phối cơ cấu của nền kinh tế
nhằm sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực
C. KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC VÀ BÀI HỌC
CHO VIỆT NAM:
CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA MỸ:
1.Tổng quan về Fed:
Cục dự trữ liên bang Mỹ, gọi tắt là FED, là Ngân hàng trung ương của
nước Mỹ. Trong vai trò của một Ngân hàng trung ương, FED là ngân hàng
của các ngân hàng và là ngân hàng của Chính phủ liên bang. FED được
xây dựng để đảm bảo duy trì cho nước Mỹ một chính sách tiền tệ linh hoạt
hơn, an toàn hơn, và ổn định hơn.
Được thành lập ngày 23/12/1913 theo đạo luật mang tên “Federal Reserve Act” do
tổng thống Woodrow Wilson kí, FED là một mạng lưới gồm 12 Ngân hàng dự trữ
liên bang và một số chi nhánh khác.
Lãnh đạo FED là Ban thống đốc (Board of Governors) gồm có 7 thành viên do
Tổng thống bổ nhiệm và Thượng viện phê chuẩn. 7 thành viên của Ban thống đốc
đóng vai trò như là đa số trong Uỷ ban thị trường mở Hoa Kì (FOMC), là cơ quan
quyết định tất cả các chính sách tiền tệ của Mỹ. 5 thành viên còn lại của FOMC là
chủ tịch của Ngân hàng dự trữ liên bang New York và 4 chủ tịch ngân hàng dự trữ
liên bang khác. Nhiệm kì của mỗi thành viên Ban thống đốc kéo dài 14 năm, và
các thành viên chỉ có thể được tái bổ nhiệm nếu nhiệm kì trước của ông ta không
phải là một nhiệm kì trọn vẹn. Tổng thống tiếp tục bổ nhiệm Chủ tịch và phó Chủ
tịch Ban thống đốc, hai người này giữ chức trong vòng 4 năm và có thể được tái bổ
nhiệm không hạn chế chừng nào họ còn là thành viên của Ban thống đốc. Chủ tịch
của FED hiện nay là Ben Bernanke, người đã thay thế Alan Greenspan vào ngày
01/01/2006. Alan Greenspan đã từng phục vụ ở cương vị Chủ tịch FED từ năm
1987.
FED có một số nhiệm vụ chính như:
- Thực thi những chính sách tiền tệ quốc gia để duy trì mức việc làm, giá cả ổn
định và lãi suất tương đối thấp.
- Giám sát và quản lý các thể chế ngân hàng để đảm bảo đó là những nơi an toàn
để gửi tiền và để bảo vệ quyền lợi tín dụng của người dân.
- Cung cấp các dịch vụ tài chính cho các tổ chức tín dụng, Chính phủ Mỹ và Ngân
hàng trung ương các nước khác như thanh toán bù trừ, thanh toán điện tử, phát
hành tiền…
- Ngoài ra FED còn tiến hành các nghiên cứu về nền kinh tế Mỹ cũng như kinh tế
các bang, cung cấp thông tin về nền kinh tế thông qua các ấn phẩm, hội thảo giáo
dục và qua website.
2.Chính sách điều hành lãi suất của Fed
Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED), ngân hàng Nhật Bản (BOJ), ngân hàng Anh, ngân
hàng Canada và ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) đã cắt giảm lãi suất xuống
mức thấp lịch sử. Một số ngân hàng trung ương của các nước như Hungary, Ailen
và Nga lúc đầu tăng lãi suất để đối phó với sự giảm giá mạnh của tỷ giá, nhưng sau
đó đã hạ lãi suất lại sau khi tỷ giá đã được bình ổn.
Hình 1: Diễn biến lãi suất cơ bản của FED 2007-2009
Nguồn: Cục dữ trữ Liên bang Mỹ (FED)
Bên cạnh đó, các nước còn thực hiện nhiều biện pháp khác của chính sách tiền tệ.
Thứ nhất, các biện pháp được đưa ra đảm bảo lãi suất thị trường giảm cùng với lãi
suất chính sách. Ví dụ, để giữ lãi suất thị trường ngắn hạn gắn với mục tiêu chính
sách, ngân hàng Anh và FED đã giảm biên độ của lãi suất qua đêm. Thứ hai, một
số can thiệp được đưa ra để làm giảm căng thẳng trên thị trường liên ngân hàng
bằng cách giảm sự mở rộng thị trường liên ngân hàng. Ngân hàng trung ương các
nước đã cung cấp thêm nhiều vốn để bù đắp những giảm sút về cung thị trường và
đảm bảo sự phân bổ đồng đều các dự trữ trong hệ thống. Các ngân hàng trung
ương còn nới lỏng các thế chấp, kéo dài kỳ hạn của các hoạt động tái tài chính và
thiết lập các đường dây trao đổi liên ngân hàng trung ương nhằm giảm sức ép vốn
đô la ở thị trường bên ngoài. Thứ ba, các giới chức tiền tệ còn cung cấp một khối
lượng lớn những thanh khoản bổ sung để giữ các tổ chức tài chính hoạt động và
giảm rủi ro lan ra trên các phần của thị trường tài chính qua việc mua các giấy tờ
thương mại, cổ phiếu công ty, trái phiếu tài sản. Một số ngân hàng trung ương còn
can thiệp vào thị trường ngoại tệ để tăng sức ép lên đồng tiền của họ nhằm giảm
nguy cơ giảm phát. Với những can thiệp trên, tài khoản của các ngân hàng trung
ương đã được mở rộng từng bước và các cấu phần của nó đã thay đổi tốt.
3.Tác động của chính sách lãi suất tới nền kinh tế
Với vai trò là Ngân hàng trung ương của nền kinh tế mạnh nhất thế giới, mỗi quyết
định của FED đều gián tiếp ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế toàn cầu. Người ta hay
nói vui rằng “một cái hắt hơi sổ mũi của chủ tịch FED” cũng đủ làm chao đảo nền
kinh tế thế giới, xét về mặt nào đó cũng không phải là không có lý:
Thứ nhất các quyết định về tăng giảm lãi suất của FED tác động trực tiếp đến sức
mạnh của đồng USD, qua đó ảnh hưởng mạnh đến các đối tác thương mại của Mỹ.
Nếu FED tăng lãi suất đồng USD nhằm kiềm chế lạm phát, vô hình chung làm tăng
sức mạnh của đồng USD trên thị trường tiền tệ quốc tế, làm tăng nhập khẩu, giảm
xuất khẩu, giảm đầu tư vào Mỹ.
Thứ hai, FED còn trực tiếp can thiệp vào việc xác lập giá trị đồng USD thông qua
hoạt động mua bán USD và các ngoại tệ khác. Ví dụ, nếu Mỹ bán đồng Yen ra
đồng thời mua vào USD thì giá trị của USD sẽ tăng, trong khi giá trị Yen giảm
xuống, dẫn đến tỉ giá USD/Yen tăng.
Chính vì vậy những chuyên gia tham gia vào thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế
không bao giờ bỏ qua những diễn biến của FED.
Phần 2: Thực trạng về chính sách lãi suất tại Việt
Nam
I.Diễn biến:
1.Tổng quan về ngân hàng trung ương Việt Nam:
Theo điều 1 chương 1 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam thì:
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Ngân hàng Nhà nước) là cơ quan
của Chính phủ và là ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động
ngân hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và
ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.
Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần bảo
đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ngân hàng Nhà nước là một pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước;
có trụ sở chính tại Thủ đô Hà Nội.
2.Chính sách lãi suất của Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Tiến trình đổi mới cơ chế điều hành lãi suất đã được tổng kết tóm tắt qua các thời
kỳ:
Từ năm 1988-1992: quá trình chuyển dần chế độ lãi suất âm sang chế độ lãi
suất dương, từng bước xóa bỏ bao cấp qua lãi suất.
Từ tháng 10-1993 đến tháng 12 năm 1995 là giai đoạn vừa quy định các
mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể, vừa cho vay theo lãi suất thỏa thuận.
Từ ngày 1-1-1996, giai đoạn thực hiện cơ chế lãi suất trần với nhiều mức lãi
suất trần khác nhau, quy định cho các loại tín dụng ngắn, trung dai hạn, và
các vùng kinh tế khác nhau.
Từ tháng 8 năm 2000 đến 2008, xuất phát từ yêu cầu tiếp tục đổi mới hoạt
động ngân hàng phù hợp với nhịp độ và mục tiêu phát triển nền kinh tế theo
cơ chế thị trường, thực hiện Luật Ngân hàng nhà nước và xu ths hội nhấp
một bước bằng việc chuyển cơ chế lãi suất trần sang cơ chế điều hành lãi
suất cơ bản. Lãi suất cơ bản được hình thành theo quan hệ cung cầu vốn trên
thị trường tiền tệ, nhưng vẫn có sự khống chế của Ngân hàng nhà nước bằng
việc quy định cộng thêm biên độ nhất định để các tổ chức tín dụng được
phép xác định lãi suất cho vay. Đồng thời chuyển dần theo thị trường.
Từ đầu năm 2008, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tín dụng ở Mỹ và sự
biến động giá dầu cũng như thị trường tài chính thế giới, tại Việt Nam lãi
suất trên thị trường tiền tệ không ngừng tăng lên. Nhà nước đã sử dụng
chính sách thắt chặt tiền tệ để kìm hãm lạm phát, , ổn định thị trường tiền tệ,
thị trường vốn. Theo đó, nhà nước khống chế lãi suất cho vay (15%) và thả
nổi lãi suất cho vay đối với các ngân hàng thương mại. Điều đó tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp chủ động huy động vốn phục vụ sản xuất kinh doanh.
Đi sâu vào cơ chế điều hành lãi suất cơ bản hiện nay, Ngân hàng nhà nước bỏ việc
quy định trần lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng, chuyển
sang xác định và công bố lãi suất cơ bản dựa trên việc tham khảo lĩa suất cho vay
ngắn hạn thông thường của các ngân hàng thương mại áp dụng đối với các khách
hàng vay có uy tín và một số tiêu thức vĩ mô khác. Mức lãi suất cơ bản được cộng
thêm với một biên độ bằng số % tuyệt đối sẽ là giới hạn tối đa cho các tổ chức tín
dụng được phép cho vay.
Từ đại hội Đảng lần thứ X (2006), chính sách lãi suất được điều chỉnh đổi mới theo
hướng tự do hóa phù hợp với cơ chế thị trường.
Từ giữa tháng 5/2008 đến nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) áp
dụng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản:
- Thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mà theo đó, các NHTM ấn định lãi
suất cho vay tối đa bằng 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố trong từng thời
kỳ. Đây là công cụ trực tiếp để kiểm soát lãi suất kinh doanh của NHTM; đồng
thời, NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt các mức lãi suất nghiệp vụ thị trường mở,
lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu để điều tiết lãi suất thị trường tiền tệ. Lãi suất
cơ bản được xác định và công bố trên cơ sở xu hướng biến động cung – cầu vốn thị
trường, mục tiêu của chính sách tiền tệ và các nhân tố tác động khác của thị trường
tiền tệ, ngoại hối ở trong và ngoài nước.
- Thiết lập một hành lang lãi suất thị trường liên ngân hàng với biên độ chênh lệch
khoảng 2% để điều tiết lãi suất thị trường: (i) “Trần” là lãi suất tái cấp vốn, “sàn”
là lãi suất tái chiết khấu (hiện nay là 7% – 5%/năm); lãi suất cơ bản và lãi suất
nghiệp vụ thị trường mở biến động trong phạm vi hành lang này; (ii) Lãi suất
nghiệp vụ thị trường mở đóng vai trò định hướng và thực hiện việc “bơm” tiền ra
hoặc “hút” tiền về, từ đó tác động đến cung – cầu vốn, lãi suất thị trường liên ngân
hàng và lãi suất huy động, cho vay của NHTM.
Từ tháng 5 – 9/2008, NHNN điều hành chính sách tiền tệ “thắt chặt”, các mức lãi
suất chủ đạo được điều chỉnh tăng, lãi suất cơ bản từ 12%/năm lên 14%/năm, lãi
suất tái cấp vốn từ 13%/năm lên 15%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ 11%/năm lên
13%/năm, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở từ 11,7%/năm lên 15%/năm. Từ tháng
10/2008 đến nay, NHNN chuyển hướng điều hành chính sách tiền tệ từ “thắt chặt”
để chống lạm phát sang “nới lỏng” nhằm mục tiêu hàng đầu là ngăn chặn suy giảm
kinh tế, điều chỉnh giảm mạnh lãi suất cơ bản từ 14% – 13% – 11% – 8,5% –
7%/năm, lãi suất tái cấp vốn từ 15% – 13% – 12% – 9,5% – 8% – 7%/năm, lãi suất
tái chiết khấu từ 13% – 11% – 12% – 10% – 7,5% – 6%/năm, lãi suất nghiệp vụ thị
trường mở từ 15% – 14,3% – 13,5% – 11% – 9% – 8% – 7,5% – 7%/năm.
Biểu 1: Diễn biến lãi suất chủ đạo và lãi suất thị trường từ tháng 5/2008 –
7/2009
Đơn vị: %/năm
INCLUDEPICTURE
" />jpg?w=458&h=352" \* MERGEFORMATINET
2.2 Những thay đổi trong năm 2010 :
Ngày 26/2/2010 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Thông tư
số 07/2010/NHNN quy định việc cho vay bằng VND theo lãi suất thỏa thuận của
các TCTD đối với khách hàng.
Việc ban hành Thông tư 07 giúp lãi suất dẫn được trả về cho thị trường, qua đó
khơi thông được nguồn vốn tín dụng trung – dài hạn, mang lại nhiều lợi ích cho
các TCTD (doanh thu, cơ hội kinh doanh ), cho doanh nghiệp (tiếp cận vốn dễ
dàng, sử dụng vốn một cách hợp lý hơn…) và cho nền kinh tế. Điều đặc biệt hơn là
Thông tư 07 là tín hiệu chính sách cho những bước tiến thận trọng dần đạt đến mục
tiêu tự do hóa lãi suất.
Điểm lại lịch sử cơ chế điều hành lãi suất của NHNN, tiến trình tự do hóa lãi suất
được đánh dấu bằng những mốc quan trọng:
Tháng 06/ 2001: trần lãi suất cho vay ngoại tệ được xóa bỏ, mức lãi suất cho vay
và huy động ngoại tệ do các NHTM tự quyết định theo cung – cầu vốn trên thị
trường trong từng thời kỳ.
Riêng lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp tại NHTM và tiền gửi
ngoại tệ của NHTM tại NHNN chưa được tự do hóa mà vẫn do NHNN quy định,
nhằm khuyến khích các doanh nghiệp bán ngoại tệ cho các NHTM và các NHTM
không gửi ngoại tệ ra nước ngoài.
Ngày 30 tháng 5 năm 2002, NHNN đưa ra Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN về
việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng
đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
Theo đó, các TCTD xác định lãi suất cho vay bằng VND trên cơ sở cung cầu vốn
thị trường và mức độ tín nhiệm của khách hàng. NHNN không quy định biên độ lãi
suất cho vay so với lãi suất cơ bản nhưng vẫn tiếp tục công bố lãi suất cơ bản để
làm tham khảo và định hướng lãi suất thị trường.
Như vậy, cùng với việc trần lãi suất cho vay ngoại tệ được xóa bỏ và việc thực hiện
cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với VNĐ thì lãi suất đã được tự do hóa hoàn toàn.
Lãi suất cơ bản NHNN công bố làm tham khảo và định hướng lãi suất thị trường.
Đồ thị 1: Diễn biến của sự thay đổi chính sách điều hành lãi suất
Các TCTD mở rộng huy động và cho vay đối với nền kinh tế, qua đó góp phần
giúp kinh tế đạt được sự tăng trưởng cao qua nhiều năm . Tuy nhiên, cùng với tốc
độ tăng trưởng cao của nền kinh tế qua các năm thì áp lực lạm phát đã gia tăng từ
những tháng đầu năm 2008 .
Cùng với đó là dấu hiệu của cuộc đại suy thoái kinh tế thế giới mà khởi nguồn từ
cuộc khủng hoảng tín dụng ở Mỹ. Vì vậy, chính sách tiền tệ thắt chặt đã được
NHNN thực thi từ đầu năm 2008. Việc thắt chặt chính sách tiền tệ là quyết định tất
yếu để ngăn chặn đà lạm phát đang gia tăng mạnh.
Tuy nhiên, hiệu ứng ngắn hạn của nó là tác động đến tính thanh khoản của các
TCTD, đẩy lãi suất huy động của các TCTD lên cao. Do vậy, có thể gây mất an
toàn hệ thống tài chính – ngân hàng.
Trước tình hình đó, NHNN đã ban hành Quyết định số 16/2008/QĐ- NHNN về
việc điều hành lãi suất được thắt chặt trên cơ sở thực hiện nghiêm túc khoản 1 điều
476 bộ luật dân sự, điều 9 và điều 18 luật NHNN.
Theo quyết định này, lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng
không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố.
Cơ chế lãi suất đã có tác động tích cực bình ổn thị trường trong thời kỳ khủng
hoảng, và các cú sốc bởi những thay đổi chính sách để chống lạm phát và suy giảm
kinh tế. Tuy nhiên, vai trò lịch sử đó đã đến lúc phải dừng lại cho phù hợp với
những diễn biến mới của tình hình thị trường khi mà những tác động tích cực đã
giảm dần và những tác động bất lợi đã xuất hiện: lãi suất đã không phản ánh được
quan hệ cung – cầu trên thị trường; các TCTD đã lách “trần cho vay” bằng các
khoản phí
Mặt khác, những bất cập trong cơ chế “lãi suất trần” đã làm thay đổi cơ cấu nguồn
vốn huy động của các TCTD: nguồn vốn huy động ngắn hạn tăng lên, trong khi
nhu cầu vốn vay trung – dài hạn là rất lớn, điều này có thể làm rủi ro mất cân đối
kỳ hạn vốn tăng lên.
Chính vì vậy, ngày 26/2/2010 NHNN đã ban hành Thông tư số 07/2010/NHNN
cho phép các ngân hàng được phép áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận với các
khách hàng vay trung và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ và đầu tư phát triển.
Cơ chế này cũng áp dụng với các khoản vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn nhằm
đáp ứng nhu cầu vốn để trực tiếp phục vụ đời sống của cá nhân và hộ gia đình của
khách hàng vay; các hoạt động cho vay tiêu dùng thông qua nghiệp vụ phát hành
và sử dụng thẻ tín dụng.
Thông tư 07 có hiệu lực đã nhận được rất nhiều phản ứng tích cực từ các TCTD,
các chuyên gia, các doanh nghiệp và toàn xã hội. Các chuyên gia cho rằng lãi suất
dẫn được trả về cho thị trường, qua đó khơi thông được nguồn vốn tín dụng trung –
dài hạn và mang lại lợi ích cho các TCTD (doanh thu, cơ hội kinh doanh ), cho
doanh nghiệp (tiếp cận vốn dễ dàng, sử dụng vốn một cách hợp lý hơn…) và cho
nền kinh tế. Điều này có thể thấy rõ qua một số điểm tích cực của Thông tư 07:
Thứ nhất, Thông tư 07 có hiệu lực sẽ hình thành mặt bằng lãi suất cho vay minh
bạch, rõ ràng và phản ánh đúng tín hiệu của thị trường. Cho phép áp dụng lãi suất
thỏa thuận vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay được vốn với giá thỏa thuận
minh bạch, vừa chấm dứt tình trạng phí “ngầm” trong bản thân mỗi tổ chức tín
dụng mà Ngân hàng Nhà nước cũng khó kiểm soát.
Thứ hai, với việc vận hành theo cơ chế của thị trường thì các NHTM sẽ thay đổi
mức lãi suất cho vay dựa trên các yếu tố: chi phí vốn đầu vào của ngân hàng; mức
độ rủi ro của từng khách hàng; lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh của họ và một số
yếu tố liên quan khác.
Vậy việc tiếp cận vốn của các doanh nghiệp chủ yếu sẽ phụ thuộc chính bản thân
doanh nghiệp. Do đó, để tiếp cận vốn dễ dàng hơn thì các doanh nghiệp sẽ phải
hoạt động, sử vốn có hiệu quả và phải bỏ ra chi phí hợp lý cho các khoản vay của
mình.
Về việc tiếp cận vốn của các doanh nghiệp niêm yết Ông Nguyễn Băng Tâm, Phó
chủ tịch Câu lạc bộ Các doanh nghiệp niêm yết cho biết:“Với các doanh nghiệp
niêm yết, ông Tâm tự tin khi cho rằng có 90% là các doanh nghiệp tốt nên có thể
tiếp cận được chính sách tín dụng hợp lý của các ngân hàng”.
Thứ ba, việc điều chỉnh chính sách nói trên cũng không có nhiều bất ngờ, bởi có
những thông tin “tín hiệu” trước đó nên doanh nghiệp cũng đã lường tính khi xét
đến các kế hoạch vay vốn.
Những phản ứng tích cực của thị trường là cơ sở khẳng định tính đúng đắn của
Thông tư 07. Và những phản ứng này là một tín hiệu tốt để NHNN thực hiện
những bước tiếp theo nhằm tự do hóa hoàn toàn lãi suất.
2.3 Đánh giá tác động tích cực và tiêu cực của chính sách lãi suất tới nền kinh
tế :
1.Những tác động tích cực:
Qua hơn 20 năm đổi mới, cơ chế lãi suất của Ngân hàng nhà nước đã được điều
hành theo hướng tích cực, nới lỏng từng bước hướng tới tự do hóa, phù hợp điều
kiện kinh tế xã hội trong nước, mức đọ hội nhập của ta với thị trường tài chính
trong khu vực và thế giới.
Một là, cơ chế lãi suất linh hoạt hơn , bám theo cung cầu vốn thị trường, dần dần
mở rộng quyền chủ động xác định lãi suất kinh doanh cho các tổ chức tín dụng để
tăng khả năng cạnh tranh, nhưng vẫn đảm bảo sự kiểm soát và điều hành của Ngân
hàng nhà nước đối với lãi suất trên thị trường tiền tệ.
Việc xác định lãi suất dựa trên cung cầu vốn tín dụng tren thị trường, thông qua
việc tính toán cho qua việc tính toán bình quân các mức lãi suất huy động và cho
vay của một số ngân hàng thương mại được chọn làm đại diện, đồng thời có tham
khảo cân nhắc thêm lãi suất thị trường liên ngân hàng, lãi suất thị trường mở, lãi
suất đấu thầu trái phiếu kho bạc và một số chỉ tiêu mức tăng trưởng kinh tế , chỉ số
lạm phát, tỷ giá….Mức lãi suất này được công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín
dụng thực hiện cho vay. Có thể thấy, so với cơ chế lãi suất trước đó chủ yếu được
điều hành theo ý thức chủ quan, áp đặt, hành chính thì với cơ chế lãi suất này, đã
thể hiện một bước đổi mới cơ bản là Ngân hàng nhà nước đã điều hành lãi suất
theo tín hiệu thị trường, chú trọng đến cung cầu vốn tín dụng và mục tiêu của chính
sách tiền tệ.
Lãi suất cơ bản cộng thêm một biên độ xác dịnh trong từng thời kỳ tuy vẫn còn
mang tính chất hành chính, nhưng sự can thiệp chỉ mang tính quy định vè nguyen
tắc chugn của ngan hàng nhà nước và không quy định cụ thể, trực tiếp các mức lãi
suất cho vay của các TCTD.
Điều chỉnh lãi suất cơ bản hàng tháng một cách linh hoạt đã tạo điều kiện bám sát
tín hiệu thị trường, cung cầu vốn tín dụng, đáp ứng mục tiêu của chính sách tiền tệ,
đảm bảo sự kiểm soát của Ngan hàng nhà nước trên thị trường tiền tệ.
Hai là, việc áp dụng kịp thời cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đã ngăn chặn được
nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán của các NHTM
trong những tháng đầu năm 2008, nhất là đối với NHTM cổ phần quy mô nhỏ
chuyển đổi mô hình từ nông thôn lên; an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo,
củng cố lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống
ngân hàng. Khắc phục được tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong huy động
vốn giữa các NHTM bằng cách đẩy lãi suất lên cao . Cùng với diễn biến lạm phát
có xu hướng giảm, kinh tế vĩ mô ổn định và hoạt động của các NHTM đảm bảo
khả năng thanh toán, làm cho thị trường tiền tệ và lãi suất trong những tháng đầu
năm 2009 tương đối ổn định.
Ba là, Cơ chế truyền dẫn của các biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực và
hiệu quả đối với hoạt động kinh doanh của NHTM và lãi suất thị trường, thể hiện
là lãi suất thị trường liên ngân hàng đã biến động xoay quanh các mức lãi suất chủ
đạo của NHNN; lãi suất huy động và cho vay của các NHTM biến động theo cung
– cầu vốn và tăng, giảm theo sự thay đổi của các mức lãi suất điều hành của
NHNN, đã tác động làm cho thu hẹp hoặc mở rộng tín dụng. Năm 2008 và những
tháng đầu năm 2009, tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng phù hợp
với chủ trương thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng.
Bốn là, việc điều hành linh hoạt lãi suất cơ bản, vừa là công cụ điều tiết thị trường,
vừa là động thái phát tín hiệu về chủ trơng của Chính phủ và giải pháp điều hành
chính sách tiền tệ của NHNN là “thắt chặt” hay “nới lỏng” tiền tệ, đã và đang trở
thành một chỉ số kinh tế quan trọng trên thị trờng tài chính, tiền tệ, đợc các doanh
nghiệp, ngời dân, các nhà đầu t trong và ngoài nớc, các NHTM quan tâm, theo dõi,
dự báo và có phản ứng khá nhanh nhạy, tích cực về hoạt động đầu t, tiết kiệm và
tiêu dùng. Kết quả này cú ý nghia rất quan trọng, thể hiện được vai trò và những
tác động tích cực của chính sách tiền tệ đối với việc kiềm chế lạm phát và điều tiết
kinh tế vĩ mô.
Năm là, cơ chế điều hành lãi suất cơ bản phù hợp với quy định của Luật NHNN và
Bộ luật Dân sự, mục tiêu của chính sách tiền tệ hiện nay và các năm tới đây là
kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức cao và bền vững.
2.Những tác động tiêu cực
Thứ nhất về việc quy định giới hạn biên độ tối đa trong cơ chế điều hành lãi suất
cơ bản
Lãi suất cơ bản được cộng thêm một biên độ (0,3% đối với cho vay ngắn hạn và
0,5% cho vay trung, dài hạn ) thực chất đã tạo nên một trần lãi suất tối đa cho các
tổ chức tín dụng được phép cho vay. Thực tiễn vừa qua cho thấy, việc quy định
biên độ còn chưa phù hợp với điều kiện thị trường tài chính đang trong quá trình
xây dựng và hoàn chỉnh ở Việt Nam. Đặc biệt là đối với các khoản tín dụng cho
khu vực nông thôn, quỹ tín dụng nhân dân…
Hai là, nhu cầu mở rộng tín dụng đáp ứng yêu cầu đầu tư phát triển nền kinh tế đã
và đang đặt ra trong nhiều năm tới cần phải huy động một lượng vốn lớn trong xã
hội. Do vậy, các tổ chưc tín dụng phải đẩy mạnh khai thác vốn bằng nhiều biện
pháp, kể cả tăng lãi suất để huy động vốn. Nhưng muốn tăng lãi suất huy động thì
cũng phải tăng lãi suất cho vay thỉ mới đảm bảo yêu cầu kinh doanh không thua lỗ.
Trong khi đó, lãi suất cho vay lại bị khống chế bỏi mức trần lãi suất huy động dù
không bị quy định mức trần tối đa nhưng các tổ chức tín dụng cugnx không thể
tăng quá mức, mà tại đó, các tổ chức tín dụng sẽ bị lõ do lãi suất huy động cao hơn
cho vay.Lãi suất huy động và lãi suất cho vay là một vấn đề thống nhất, cần được
tính toán và xác định cụ thể trong hoạt động tín dụng.
Việc khống chế trần lãi suất cho vay khiến cho các doanh nghiệp khó hạ lãi suất
thấp nhất cho vay, do đó giảm tính cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường để thu
hút khách hàng. Thực tế các tổ chức tín dụng không dễ độc quyền, tự do tăng lãi
suất cho vay khi không được thị trường chấp nhận.
Trên thực tế nhiều vùng,hộ nghèo vẫn khó tiếp cận với các khoản tín dụng trên thị
trường chính thức của các tổ chức tín dụng do khối lượng,thời hạn và thủ tục chưa
được hỗ trợ.
Quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam vẫn chưa thực sự triệt để:
Lãi suất cho vay bằng Việt Nam đồng đối với nền kinh tế vẫn còn bị khống chế,
trong khi đó, môt bộ phấn lớn lãi suất tiền gửi bằng đồng Việt Nam ( trừ lãi suất kỳ
phiếu, trái phiếu của ngân hàng thương mại). lãi suất tiền gửi và cho vay ngoại tệ
( trừ lãi suất tiền gửi bằng đô la Mỹ của các pháp nhân tại các tổ chức tín dụng), lãi
suất thị trường nội tệ liên Ngân hàng đã được tự do hóa.
Ngân hàng nhà nước khống chế lãi suất tiền gửi tối đa bằng đô la Mỹ đối với các
pháp nhân tại tổ chức tín dụng, thường thấp hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm của dân
cư cùng kỳ hạn. Do mức lãi suất tiền gửi thấp, mốt số tổ chức kinh tế không muốn
gửi tiền tại các tổ chức tín dụng của Việt Nam, mà mang gửi tại các tổ chức tín
dụng nước ngoài hưởng mức lãi suất cao hơn, gây mất nguồn ngoại tệ trong nước.
Việc tồn tại các hình thức cho vay ưu đãi đã ảnh hưởng xấu đến toàn bộ hoạt động
đầu tư tín dụng, làm tê liệt đông cơ nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ thẩm
định, giám sát vốn cho vay, ảnh hưởng đến tình hình tài chính và kết quả kinh
doanh của ngân hàng thương mại. Do các ngân hàng thương mại hiện nay vẫn
dùng nguồn vốn tự huy động đề cho vay ưu đãi theo các mục tiêu chỉ định, nhưng
việc cấp bù phần giảm lãi suất cho vay chưa được thực hiện đầy đủ ( chỉ thực hiện
khi KQKD của NH bị lỗ). Trong trường hợp như vậy, lãi suất cho vay thương mại
sẽ bị đẩy lên cao, để bù đắp cho các khoản vay ưu đãi. Bên cạnh đó, viecj cho vay
ưu đãi thường gắn với rủi ro tín dụng, do người vay gây ra, nhưng cũng có thể do
chính NHTM gây ra, vì họ nghĩ rằng các khoản cho vay đó đã được Nhà nước bảo
lãnh nên không quan tâm đến hiệu quả đầu tư.
Trong cấu trúc thị trường hiện nay, còn có một đặc điểm ảnh hưởng không nhỏ đến
tính hiệu quả của tự do hóa lãi suất, đó là thị phần tín dụng áp dụng mức lãi suất
chính sách là không nhỏ. Ngoài các khoản vay áp dụng cơ chế hỗ trợ lãi suất trong
thời gian qua, thì chúng ta cũng có không ít các dự án, các lĩnh vực sản xuất được
áp dụng lãi suất ưu đãi được thực hiện thông qua Ngân hàng Phát triển, Ngân hàng
Chính sách xã hội, các dự án đầu tư phát triển được sử dụng các nguồn vốn ưu đãi
ODA khác nữa Các chính sách ưu đãi này là cần thiết trong quá trình phát triển
nền kinh tế hiện nay, nhưng ở chừng mực nào đó nó làm giảm hiệu quả của chính
sách tự do hóa lãi suất, vì khi đó lãi suất hình thành trên thị trường chưa phản ánh
đúng cung cầu vốn nên việc phân bổ nguồn vốn qua công cụ lãi suất cũng bị méo
mó.
Một điểm hạn chế nữa trong chính sách lãi suất đó là khả năng huy động vốn trung
và dài hạn của các tổ chức tín dụng hiện nay là rất hạn chế trong khi nhu cầu về
nguồn vốn trung và dài hạn này là rất lớn. Một phần do thói quen của người Việt
Nam, tính chưa thật ổn định vững chắc của đồng tiền Việt Nam và chưa phát triển
phổ biến các công cụ nợ dài hạn một phần do mức lãi suất và cơ chế lãi suất chưa
hợp lý.